Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 59

Tổng truy cập: 1371157

CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN CỦA THẦY

Các con là chứng nhân của Thầy

(Suy niệm của Lm. Khiêm Cung, CRM)

Câu chuyện "Cái tách đựng trà" của Lã Phụng Tiên sau đây nói lên ý nghĩa Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay:

Một hôm có hai ông bà sang trọng bước vào một cửa tiệm bán đồ sành đồ sứ. Bà đến bên quầy hàng bày đầy những ly tách, bà cầm một cái tách uống trà lên và thỏ thẻ với ông: "Ông này, coi cái tách uống nước dễ thương quá!" Ông cầm lấy ngắm nghía một hồi rồi nói: "Đúng, bà nói đúng. Đây là cái tách đựng trà dễ thương nhất mà tôi đã thấy". Tách trà liền nói: "Cám ơn ông bà khen tặng, nhưng cháu không phải luôn đẹp như vậy đâu". Bà hỏi lại: "Sao cháu lại khiêm nhường thế? Lúc nào cháu cũng đẹp!" Tách đựng trà trả lời: "Trước kia cháu chỉ là cục đất sét xấu xa, thế nhưng, một ngày kia có người bàn tay ướt át ôm cháu bỏ lên bánh xe lăn. Sau đó ông quay cháu như chong chóng đến choáng váng. Cháu phát khóc mà ông cũng không tha. Bị xoay vần quá lâu, cháu đau mình mẩy đến muốn chết được. Sau cùng ông cho cháu ngừng, nhưng lại tệ hơn, ông bỏ cháu vào một cái lò nung nóng đến 500 độ. Cháu toát cả mồ hôi ra, da dẻ cháy khét, đen thui... Ông mới chịu cho cháu ra khỏi lò. Nhưng cô thư ký của ông quét lên mình cháu một lớp sơn khét lẹt, vẽ rồng rắn vào mình cháu rồi cô đặt cháu vào một chiếc lò nung còn tệ hơn lần trước, khiến da dẻ cháu xém lại, cứng nhắc như mot cái vẩy bằng sành. Sau cùng, cô để cháu ở ngoài cho nguội, rồi để lên kệ này bên cạnh chiếc gương to lớn. Cháu không thể tin được mình đẹp như thế. Cháu đã nhận thức ra rằng: Những đau đớn cháu chịu thật đáng giá va mang lại cho cháu một vẻ mỹ miều vẫn còn tồn tại."

Câu chuyện "Cái tách đựng trà" cũng mang một sứ điệp giống như bài Tin Mừng hôm nay. Trước khi Chúa Giêsu sống lại vinh quang, Ngài đã chịu khổ hình và đã chết đi trong đau khổ mà Thánh Phêrô đã tường trình rằng: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại để "hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình".

Thánh Luca cũng thuật lơi Chúa Kitô nhắc lại lời tiên tri: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại... Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24:).

Muốn làm chứng cho Chúa Kitô thì chúng ta cũng phải khóc, phải khổ như chiếc tách đựng trà và giống như Chúa Kitô đã chịu khổ đau trước khi phục sinh vinh hiển. Nếu muốn nên người hữu dụng và đẹp lòng Chúa, chúng ta cũng phải sẵn sang đón nhận những đau khổ như Ngài.

 

77. Bình an cho sứ vụ mới – Lm Joseph Long

Việc đầu tiên khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ là Ngài trao ban bình an cho họ. Cũng dễ hiểu thôi bởi lẽ các môn đệ đang cần lắm sự bình an sau những chấn động do cuộc khổ nạn của Thầy mình. Dư chấn cuộc thương khó đang làm cho lòng các ông tan nát. Loạt tin tức về việc Chúa mất xác, Chúa sống lại, Chúa hiện ra... làm cho tâm hồn các ông rối bời như canh he.

Ngay cả sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra cũng cố đức tin và kiện cường niềm hy vọng, các ông cũng đang cần lắm bình an của Chúa để khởi đầu cho một sứ vụ mới, sứ vụ làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Sứ vụ mới nay bắt đầu chính thức. Nhưng trước hết các ông cần có cái tâm an bình đã, vốn là hoa trái của đức tin. Có cái tâm an bình thì mới có thể đem tin bình an đến cho người khác được.

Tuy nhiên sự bình an mà Chúa Kitô muốn trao là sự bình an nào? Chắc chắn không phải là bình an theo kiểu của thế gian, như lời Chúa Giêsu khẳng định: "Thầy ban cho anh em sự bình an không như thế gian ban tặng". Bình an của thế gian theo nghĩa là không có chiến tranh, không co tai ương hay xáo trộn. Đặc tính dễ thấy nơi bình an thế gian là giả tạo, chóng qua. Vì bình an thế gian thường đến từ các "ngôn sứ giả" như thời Cựu Ước; bình an đến từ tiền bạc, danh vọng, quyền lực và những tiện nghi vật chất.

Thế bình an mà Chúa để lại cho các môn đệ là gì? Thưa đó là bình an có Chúa luôn ở cùng, bình an có Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Nói cách khác đây là chính là bình an ơn cứu độ. Bình an đó còn là gì nữa? Đó còn là chính Chúa Thánh Thần và các ân huệ của Người được Đức Kitô ban xuống trong tâm hồn các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần.

Đây là thứ di sản bền vững mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ; không như di sản trần thế: tiền bạc của cải, cổ phần cổ phiếu... là những thứ rất bấp bênh, nay còn mai mất, nay được giá mai mất giá....

Các môn đệ có được bình an vì đức tin của các ngài đã có đường vững chắc để đi, đức cậy của các ngài đã có lối rõ ràng để về. Bởi vậy sau này các ngài không còn lo âu xao xuyến sợ hãi nữa, dẫu cho bên ngoài có còn nhiều sóng gió thử thách.

Cuộc sống con người ngày hom nay đang cần lắm sự bình an của Chúa. Bản thân cần sự bình an. Gia đình cần sự bình an. Cộng đoàn cần sự bình an. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết mở lòng ra đón nhận sự bình an của Chúa Kitô. Đồng thời biết trở nên như khí cụ bình an của Chúa, nghĩa là biết đem sự bình an của Chúa cho những anh chị em mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Amen.

 

78. “Bình an cho các con!”

(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

Ngày Con Thiên Chúa giáng sinh, các thiên thần hân hoan reo ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14).

Và hôm nay, Con Thiên Chúa phục sinh, niềm bình an đến trên nhân loại, không còn do thiên thần báo tin nữa, nhưng đã trở nen lớn lao và quan trọng: Chính Đấng Phục sinh trực tiếp trao ban. Trong các lần hiện ra cùng các môn đệ, lời đầu tiên của Chúa Giêsu Phục Sinh luôn luôn là lời chúc bình an.

Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng: Trong khi các môn đệ còn bán tín, bán nghi về những lần những người trong nhóm họ nói là đã thấy Chúa Phục sinh, thì chính Người, Đấng Phục Sinh ấy, bỗng dưng xuất hiện giữa họ. Lại một lần nữa, Chúa lên tiếng trớc hết: “Bình anh cho các con”.

Bình an, điều mà trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã từng rao giảng – Bằng chứng là trong Tám mối Phúc thật, thì Phúc thứ Bảy nói đến hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Hay ở một chỗ khác: “Thầy ban BÌNH AN CỦA THẦY cho các con. Thầy ban KHÔNG NHƯ THẾ GIAN ban tặng” (Ga 14, 27). Và còn nhiều những lần như thế.

Bình an có tầm mức quan trọng là thế. Không phải chỉ chờ đến lúc Chúa Giêsu nói, ta mới biết. Nhưng trong kinh nghiệm cuộc sống của từng người, ai mà không cảm nhận sự cần thiết vô cùng của sự bình an.

Vậy mà có lần Chúa lại nói những điều xem ra rất khó nghe, rất chướng tai: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an cho trái đất. Ta đến không phải để đem bình an nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10, 34).

Hóa ra, Chúa Giêsu tự mình mâu thuẫn với chính mình? Hay ở một khía cạnh khác, mang tầm mức xã hội hơn, bởi “đem gươm giáo”, rõ ràng Chúa Giêsu là một người hiếu chiến? Và nếu thế thì Chúa Giêsu là tay thực dân, là tên xâm lược, giống như thời nay vẫn xảy ra? Đúng như thế hay ta còn phải hiểu thế nào về Lời của Chúa?

Từ cuộc sống của chính Chúa Giêsu, ta dám khẳng định một điều: Người không hề có bất cứ một mảy may mâu thuẫn nào dù là lời nói hay hành động! Trong đời giảng dạy - ba năm trường - Chúa Giêsu không dùng gươm giáo, không kêu gọi lật đổ chính quyền thực dân lúc đó. Người cũng không xâm chiếm lãnh thổ của ai, không cướp đất dành ranh giới của người nào.

Nói cho cùng: Chúa Giêsu là người mang lại phúc cho đời, trước sau gì bản thân Ngươi cũng vẫn là Phúc thật lớn nhất của nhân loại.

Chẳng những không mâu thuẫn, dù lời của Chúa Giêsu có lẽ gay gắt, nhưng rất đúng: Vì chính Tin Mừng “bình an” này, chính mối Phúc thật thứ Bảy này gây nhiều xáo trộn, nhiều chia rẽ.

1. Trước hết cho chính bản thân: có ai muốn sống Lời Chúa, muốn chu toàn lề luật mà không bị giằn co, không phải chiến đấu với bản thân. Nhất là những lần đối diện với cám dỗ, với chính con người đầy yếu đuối, bất toàn của mình.

Có ai sống Lời Chúa mà không thoát khỏi những lúc phải từ bỏ chính bản thân, hay phải chết đi cho những đam mê, cho khoái lạc, dục vọng thấp hèn… Và khi vượt qua để chiến thắng những gì là chưa tốt như thế, cũng có nghĩa là ta đã sống Lời Chúa. Chính lúc ấy, hơn ai hết, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận bình an, cảm nhận niềm vui chan chứa trong tâm hồn và trong từng ngày sống của ta.

2. Trong tương quan với anh chị em, Lời Chúa có thể làm ta rơi vào sự thù oán, hay ít là ghen ghét, khi ta không cùng a dua, không “cùng hội cùng thuyền” với những người sống thiếu lương thiện, sống mà không kể gì đến Thiên Chúa.

Từ ngàn xưa, Sách tiên tri Giêremia đã cho ta những bài học quí giá về một cuộc sống thiếu bình an khi phải sống Lời Chúa, khi phải giữ trọn lề luật của Người. Ta hãy nghe Giêrêmia tâm sự:

“Kẻ gian ác nói: ‘Hãy đến đây, ta cùng nhau bàn mưu tính kế hại Giêrêmia. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết, thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo. Đến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nó’” (Gr 18, 18).

Vì phải sống và loan báo Lời Chúa, nhà tiên tri bị người đời ghét bỏ, chống đối, và thù hận đến mức có những lúc ông đau khổ một cách tuyện vọng, chỉ còn biết than thân trách phận:

“Thật đáng nguyền rủa ngày tôi được sinh ra. Ngày mẹ tôi sinh ra tôi không đáng được chúc lành. Tại sao tôi lại không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi, và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi? Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải chăng chỉ để thấy toàn gian khổ buồn sầu, và thay cuộc đời qua đi trong tủi hổ” (Gr 21, 14. 17 - 18).

Đó là số phận của những người ngay lành, những người chỉ biết lấy Lời Chúa làm lẽ sống cho mình. Đúng như Chúa đã nói: “Ta đến không phải đem bình an, nhưng đem gươm giáo”.

Bởi thế bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban chỉ có thể là bình an của những người biết phó thác cuộc đời mình cho Chúa. Chỉ có phó thác, chỉ có đặt tất cả cuộc đời, tất cả lòng tin và sự sống trong tay Chúa, ta mới có bình an thật trong tâm hồn của mình, dẫu trên thân xác ta đầy vết tích, cuộc đời ta đầy thử thách, đường đời ta đi đầy chông gai.

Chúa Kitô đã chẳng phải như thế sao, khi chính Người đã bị cuộc đời vùi giập? Dẫu là đau đớn đen cùng cực, dẫu là cái chết bầm da, xé thịt, hay mọi đắng cay nhục nhã và ê chề đến đâu đi nữa, Chúa Giêsu vẫn một lòng phó thác chính bản thân Người cho thánh ý Chúa Cha, cho tình yêu của Chúa Cha.

Lúc mà trên thân thể hằn lên nỗi đau bao nhiêu là chính lúc nhờ sự phó thác, Chúa Giêsu lại càng có được bình an tận tâm hồn bấy nhiêu.

Ta hãy xin Chúa ban bình an cho ta, không phải thứ bình an trên thân xác, càng không phải bình an do của cải, quyền thế, danh giá… mang lại, nhưng là bình an của tâm hồn để trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh của đời người, ơn bình an ấy sẽ giúp ta càng thánh thiện, càng trung thành với Chúa hơn, dẫu là lúc ta vui hay buồn, sướng hay khổ, dẫu là hoàng cảnh nào đi nữa.

 

79. Tin và làm chứng cho Chúa - Lm Đan Vinh

1. Bác tài xế tắc xi làm chứng cho Chúa:

Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:

"Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: "Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách". Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác tài xế:

- Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới thiệu?

- Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia đình lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!

2. Anh em sẽ là chứng nhân của những điều này: Tin mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện đến với các Tông Đồ đang bị giao động. Sau khi trấn an các ông, Người đã chứng minh cho các ông thấy Người không phải chỉ là bóng ma, nhưng là con người bằng xương bằng thịt thực sự, qua việc ăn uống trước mặt các ông. Cuối cùng sau khi các ông đã tin Người đã từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su chỉ thị cho các ông và cho mọi tín hữu sau này: "Chính anh em sẽ là chứng nhân của những điều này"(Lc 24,48).

3. Phải làm chứng như thế nào?

Ngày nay các tín hữu chúng ta dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:

+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su như bà Maria Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng khó thuyết phục được người nghe tin theo (x. Lc 24,11).

+ Làm chứng bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua miệng chúng ta: Đức Giê-su đang sống và hiện diện nơi ta, và ta có bổn phận chia sẻ sự xác tín, niềm vui và bình an hạnh phúc mình đang cảm nghiệm được cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp dụng. Sau khi đón nhận ơn Thánh Thần, Tông đồ Phê-rô đã rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su như sau: "Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại.. Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe..." (Cv 2,32-33). Cách làm chứng hùng hồn đầy xác tín này của Tông Đồ Phê-rô đã thuyết phục được tới ba ngàn người xin tòng giáo (x. Cv 2,41).

+ Làm chứng bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái noi gương cộng đòan tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: "Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ" (Cv 2,42-47).

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin, quyết không hèn nhát bước qua thập giá để khỏi chết, noi gương các anh hùng tử đạo. Nhờ đó, các thánh Tử đạo đã được gọi là các "Chứng nhân đức tin". Đây là phương cách truyền giáo rất hữu hiệu như lời Téc-tuy-li-a-nô khẳng định: "Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu".

4. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa đều dùng Kinh Thánh để giúp các ông tìm ra thánh ý Thiên Chúa và giải thích cho các ông về con đường "Qua đau khổ vào vinh quang", đồng thời chứng minh Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết, đúng như lời Thánh kinh. Xin giúp chúng con ý thức giá trị của Lời Chúa trong việc sống đạo và truyền đạo, hầu khi gặp bất cứ biến cố vui buồn sướng khổ nào trong cuộc sống, chúng con cũng biết tìm kiếm thánh ý Chúa. Xin cho chúng con biết năng hội hiệp nhau học sống Lời Chúa hằng tuần, biết lắng nghe Lời Chúa khi dự lễ, để nhờ lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con sẽ ngày càng lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con sẽ chu tòan được sứ mệnh Chúa trao cho Hội Thánh: "Chính anh em là chứng nhân của những điều này" (Lc 24,48). Amen.

 

80. Suy niệm của Lm Đan Vinh.

HÃY TIN VÀ LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH

TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1) Ý chính: Hãy Tin và làm chứng về mầu nhiệm Phục Sinh.

Bài Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra có lẽ là lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp phải ma, bằng cách cho họ xem tay chân của Người bằng xương thịt, và còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mạng cho các ông là phải đi rao giảng sự ăn năn để được tha tội, và làm chứng nhân về các điều ấy.

2) CHÚ THÍCH:

- Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24,35-36):

+ Còn hai ông: Đây là hai số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giêsu (x.Lc 10,1). Một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). Sau khi Đức Giêsu bị người Do Thái giết hại trên thập giá, hai ông đã vỡ mộng và quyết định trở về quê cũ là làng Emmau. Trên đường về làng, hai ông đã gặp được Đức Giêsu Phục Sinh như một khách bộ hành. Trong cuộc trao đổi nói chuyện dọc đường, Người đã giải thích những lời Kinh Thánh về cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Kết quả là các ông đang từ tâm trạng buồn chán thất vọng (x. Lc 24,17.20), đã lấy lại được niềm tin và đã nhận biết Người (x. Lc 24,25-27.31).

+ Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giêsu đã làm khi nhân bánh ra nhiều 2 lần 9x. Mt 14,19; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể 9x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ kia nhận ra người khách bộ hành chính là Đức Giêsu đã chết và giờ đây sống lại.

+ “Bình an cho anh em”: Đây là lời chào thông thường của người Do Thái (Sha-lom). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người hứa là ban sự bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).

- Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,37-39):

+ Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng la thấy ma: Đây là thái độ thường tình của con người khi gặp một cuộc thần hiện. Trước đây, có lần vào lúc canh tư đêm tối, Đức Giêsu đã đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các môn đệ. Bấy giờ các ông cũng sợ hãi kêu la lớn tiếng: “Ma kìa!”. Và Đức Giêsu đã phải trấn an các ông: “Cứ yên tân, chính Thầy đây, đừng sợ!” (x. Mt 14,25-27).

+ Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!: Chân tay Đức Giêsu có những vết thương do đã bị quân lính đóng đinh tên cây thập tự (x. Lc 23,33).

+ Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?: Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Khi một người xắp chết, họ sẽ thơ hắt ra và sẽ chết hẳn khi thân xác ngừng thở (x. St 35,18). Khi thân xác thở lại là dấu họ sống lại (1 V 17,21). Linh hồn người chết hiện về được gọi là hồn ma. Ở đây, Đức Giêsu Phục Sinh chứng tỏ Người không phải la hồn ma, khi chứng minh cho các môn đệ thấy Người có xương thịt như một người bình thường.

- Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông (Lc 24,40-43):

+ Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin mừng Gioan (x Ga 20,22), Đức Giêsu Phục Sinh đã đưa ra những dấu hiệu chứng tỏ người là Đấng bị đóng đinh, đã chết trên cây thập giá, mà nay sống lại và hiện đang ở trước mặt các ông.

+ Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ ngàng: Luca hay thêm vào các câu bào chữa khuyết điểm của các môn đệ. Chẳng hạn: Khi Đức Giêsu bị bắt, Luca viết: “ Người thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền” (Lc 22,45). Ở đây, Luca viết “ Vì mừng quá” và “còn đang ngỡ ngàng” để bào chữa cho sự cứng lòng chưa tin của các ông.

+ Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Xem ra các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giêsu đã sống lại, nên Người đã cho họ thêm một bằng chứng là Người thật chứ không phải hồn ma, bằng cách Người đã cầm lấy khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông.

- Rồi Người bảo: “ Khi còn ở với các anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24,44-45):

+ Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đưc Giêsu cho các môn đệ thêm bằng chứng về việc Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời tiên báo mà giờ đây đã ứng nghiệm.

+ Sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Trước đó, khi thuật lai việc Đức Giêsu Phục Sinh giảng cho hai môn đệ làng Emmau, Luca viết: “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả các Sách Thánh” (Lc 24,27). Ở đây, Luca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh.

* Sách Luật Môsê: Năm cuốn đầu của Cựu Ước, được xếp thành bộ Ngũ Thư gồm 5 cuốn là: sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lêvi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. Người Do Thái gọi Ngũ Thư là Luật Môsê (Tôra), vì đây là nền tảng đời sống đức tin của Dân Chúa. Truyền thống Do Thái vẫn coi tác giả của Ngũ Thư là ông Môsê. Nhưng thực ra, viec biên soạn bốn cuốn đầu chủ yếu do các tư tế thuộc triều đại vua Đavít và Salomon. Riêng sách Đệ nhị luật: Gọi là “Luật thứ hai” vì Luật của Giao Ước Môsê đã được ghi trong ba cuốn Xuất hành, Lêvi, Dân số trước đó. Còn Đệ nhị luật là do các môn đệ của các Ngôn sứ và các Tư Tế biên soạn vào thời dân Do Thái đi lưu đầy ở Babylon và còn tiếp tục hoàn chỉnh sau thời lưu đầy. Nội dung sách này nhằm nhắn nhủ dân Chúa hồi tâm sám hối toi lỗi, trở về tôn thờ Một Thiên Chúa độc nhất và trung thành tuân giữ Giao Ước Xinai.

* Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến để thay Chúa mà nói với dân Người. Sứ mạng của các ngôn sứ là giúp dân Do Thái nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ trở về với Giao Ước, khuyên bảo, loan báo hình phạt. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mêsia (hay Thiên Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ Sách Ngôn Sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn Sứ lớn như Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và Đanien, và 12 Ngôn Sứ nhỏ như Hôsê, Giôen, Amốt, Ovađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi. Phân biệt Ngôn sứ lớn hay nhỏ là do độ dày của cuốn sách của các ngài.

* Thánh Vịnh: Là bộ sưu tập các bài ca vịnh được sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ thời Đavít đến thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh. Hội Thánh Công Giáo sử dụng các Thánh vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ và trong Phụng Vụ Lời Chúa.

- Và Người bảo: “Có Lời Kinh Thánh chép rằng:Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này (Lc 24,46-48):

+ Các câu 46-48: Trình bày tất cả các chủ đề về Đức Giêsu đã được tông đồ Phêrô và các tông đồ rao giảng trong Công Vụ Tông Đồ: Trưng dẫn Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, rao giảng sự sám hối và ơn tha tội, Nhóm Mười Hai được trao sứ mạng làm chứng nhân cho Đức Giêsu (x. Cv 2,14-41; 3,12-26; 13,16-43).

+ Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”: Khi Đức Giêsu giảng cho hai môn đệ trên đường Emmau, Luca cũng viết: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,25-27).

+ Rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem: Hoạt động truyền giáo của các tông đồ vừa theo một tiến trình ưu tiên nhất định là bắt đầu từ dân Do Thái, vưa có tính phổ quát. Từ đây, Giêrusalem trở thành điểm xuất phát để loan truyền Tin Mừng đi khắp nơi cho mọi dân tộc.

+ Kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội: Sám hối (tiếng Hy lạp là Me-ta-noe-ô), nói chung nghĩa là đổi ý, thay đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Theo ngôn sứ Giêrêmia, sám hối là thay đổi hướng đi, quay về với Thiên Chúa của Giao Ước, dấn thân bước vào đời sống mới. Sám hối là điều kiện để được ơn tha tội hay được hương ơn cứu độ.

+ Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là rao giảng Tin Mừng, là chứng thực về tất cả những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, từ khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt các ông phải sẳn sàng chịu chết để làm chứng những điều mình rao giảng là trung thực.

HỌC SỐNG LỜI CHÚA

1) Chính anh em là chứng nhân của những điều này:

- Câu chuyện: Một chứng nhân sống động:

Trong quyển sách “Tôi tin” của tác giả Găng Típ (Grant Teaff), có thuật lại một câu chuyện về một cựu lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới tên là Biăng Tonbéc (Brian Sternberg) đã trở nên chứng nhân sống động của Đức Giêsu như thế nào.

Vào năm 1963, Biăng (Brian) lúc đó đang là sinh viên năm thứ hai trường đại học Washington. Anh vừa là lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới, lại vừa đoạt chức quán quân về nhào lộn của Mỹ châu. Tác giả đã kể chuyện về nhà vô địch Biăng như sau: “Khắp trường đua, ai cũng biết Biăng là một lực sĩ trẻ đầy tài năng, nhưng phong cách của anh ta vừa có tính tự mãn lại vừa ích kỷ. Trong ngày đạt thành tích phá kỷ lục thế giới, khi tiến ra lãnh huy chương vàng, anh ta tỏ thái độ ngạo mạn khi cố ra vẻ nghiêm nghị và không thèm mỉm cười đáp lễ nhiều người đang hoan hô anh. Nhưng ngày hôm sau, báo chí đã đăng hàng tít lớn: “Nhà vô địch nhảy sào Biăng đã bị chấn thương!”. Số là hôm ấy, đang lúc một mình tập nhào lộn ba nhịp trên sàn tập, Biăng đã bị mất phương hướng để cho mình rơi ngay vào khung căng. Cổ anh bị va vào bờ khung căng làm cây gỗ khung căng bị gãy và Biăng té văng ra ngoài đệm mút, bị tê liệt hoàn toàn do chấn thương sọ não. Thân thể anh bây giờ chỉ có đôi mắt và cái miệng là còn cử động được thôi. Từ ngày đó, Biăng trở nên một phế nhân. Anh không thể tự mình làm điều gì, ngay cả những việc riêng cá nhân như ăn uống vệ sinh cũng phải nhờ người giúp đỡ. Anh cảm thấy chán nản và đau khổ. Từ đó, người ta không còn nhắc đến Biăng nữa. Năm năm sau, tác giả có cơ hội gặp Biăng trong một hội nghị gồm các huấn luyện viên và lực sĩ đã đạt huy chương vàng, tại hội trường lớn của nhà thi đấu trong tiểu bang Côlôrađô.Hôm ấy, trước khi khai mạc hội nghị, đột nhiên hội trường bị tắt điện tối thui, rồi máy đèn chiếu lên màn ảnh một đoạn phim trong đó người ta thấy lực sĩ Biăng đang chạy trên đường băng và thực hiện cú nhảy sào phá kỷ lục thế giới. Rồi trên sân khấu ánh đèn tròn lại chiếu sáng tap trung vào một người cao lớn đang từ hậu trường bước ra sân khấu. Đó là cầu thủ bóng đá nổi tiếng Uet Uynmơ (Wes Wilmer). Anh ta đang cõng theo một hình nhân gầy đét với đôi tay rũ rượi và đôi chân dài, đu đưa hai bên sườn của Uynmơ. Hình nhân này không ai khác hơn là anh chàng cựu vô địch nhảy sào Biăng, cao 1,9 mét, nhưng chỉ nặng không tới 38 kilô. Sau đó, Uynmơ đặt anh chàng hình nhân ngồi trên ghế. Rồi hình nhân Biăng bắt đầu phát biểu vơi cử tọa như sau:

“Thưa các bạn, hôm nay tôi vui mừng được mời đến đây tham dự hội nghị các huấn luyện viên và các nhà vô địch. Ôi! Tôi cầu xin Chúa để những gì xảy đến cho tôi sẽ không bao giờ xảy đến cho bất cứ người nào trong các bạn. Tôi cầu xin để các bạn không bao giờ phải nếm mùi nhục nhã hổ thẹn vì không thể tự làm lấy các việc của một người bình thường như ăn uống, vệ sinh, đi lại…Ôi! Tôi cầu xin Chúa để các bạn sẽ không bao giờ phải nếm mùi thương đau mà tôi đang phải chịu đựng từng ngày. Trừ phi, đó là điều cần thiết để giúp các bạn chấp nhận Thiên Chúa là trọng tâm cuộc đời của các bạn giống như hoàn cảnh của tôi hôm nay”.

Những lời của Biăng đã gây chấn động mạnh nơi cử tọa đang hiện diện trong hội trường. Ai nấy đều xúc động và cảm thông với một tài năng đã sớm lụi tàn. Nhưng đồng thời cũng khâm phục về một con người tuy tàn nhưng không phe. Anh đã dành những hơi sức còn lại để làm chứng cho tình yêu của mình vào Đức Kitô.

- Suy nghĩ: Phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu?

+ Làm chứng cho Đức Kitô trước hết là thuật lại cho người khác biết về cuộc đời va lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này ai cũng có thể làm được!

+ Làm chứng cho Đức Giêsu là khẳng định rằng Đức Giêsu đã sống lại từ trong cõi chết như Maria Mácđala và một số phụ nữ viếng mồ Người đã làm. Nhưng thực tế cho thấy lời chứng ấy đã không đem lại kết quả bao nhiêu (x. Lc 24,8-11).

+ Làm chứng cho Đức Giêsu là dùng chính cuộc sống đã được đổi mới của mình để chứng tỏ quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh đã tác động và bien đổi chúng ta nên mới cách lạ lùng. Đó là điều mà Biăng đã làm trong câu chuyện trên.

+ Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người ngỏ lời với tha nhân qua con người đã được đổi mới của chúng ta. Là làm chứng rằng Đức Giêsu vẫn đang sống và hiện diện cụ thể nơi bản thân mình, và ta phải chia sẻ sự xác tín, niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được tông đồ Phêrô và nhóm mười một tông đồ áp dụng. Nhờ được Thánh Thần biến đổi nên Phêrô đã rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của Phêrô đã có kết quả là 3 ngàn người xin theo đạo (x. Cv 2,1-41).

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giêsu là sẵn sàng chịu chết vì đức tin, chứ không chịu bỏ đạo bước qua thập giá để được thả. Do đó, các vị tử đạo được gọi là các chứng nhân Đức Giêsu. Téc-tuy-li-a-nô nói: “Máu của các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh ra các Kitô hữu”.

Vậy mỗi tín hữu chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu?

2) Hãy đi rao giảng Tin Mừng:

- Câu chuyện: Bác tài xế Tắc xi làm tông đồ:

Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một tài xế tắc xi như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy hàng chữ như sau: “Bạn có thể tìm thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy độ một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân công giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường như the nào…

Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế, cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:

- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

- Ồ có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn cầm mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc các sách do bác giới thiệu?

- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời!

Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn Thượng Lộ Bình An”.

- Suy nghĩ và quyết tâm: Bạn nhận xét thế nào về phương cách tặng sách truyện tranh ảnh Kinh Thánh, truyện của các thánh và những truyện sống đức tin trong đời thường của bác tài xế tắc xi trong câu chuyện trên? Bạn sẽ chọn cách truyền giảng Tin Mừng nào đối với bạn học cùng trường hay cùng làm trong một cơ quan xí nghiệp hay nhà máy?

HIEP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) Lạy Chúa Giêsu, Hầu như trong mọi lần hiện ra, Chúa cũng đều dùng Kinh Thánh để giúp các môn đệ hiểu biết Thánh Ý Chúa Cha, giải thích cho các ông về mầu nhiệm “vào vinh quang ngang qua đau khổ”. Đồng thời cũng chứng minh Chúa đã thực sự sống lại đúng như các ngôn sứ đã tiên báo. Xin Chúa giúp chúng con hiểu biết giá trị của Kinh Thánh, hầu trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, chúng con biết tìm ra Thánh Ý Chúa. Xin cho chúng con siêng năng hiệp sống Lời Chúa, cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, chúng con sẽ ngày một sống tử tế tốt lành hơn và làm đẹp lòng Chúa hơn.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2) Lạy Mẹ Maria. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin của các tông đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh, ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại đòi họ phải làm chứng nhân cho Người. Xin Mẹ giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa, bằng việc sám hối và xa lánh dịp tội, làm nhiều việc lành như chia sẻ cơm áo tiền bạc cho nhưng người nghèo, thăm viếng những người đau liệt…để chúng con nên nhân chứng tình thương của Chúa Giêsu.

X) Hiệp cùng mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

home Mục lục Lưu trữ