Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1370338

CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA

Cảm Nghiệm Ơn Chúa- Đc Ngô Quang Kiệt

 

Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đờng đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu ngời hơn? Tôi xin tha: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.

Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.

Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hớng dẫn cuộc đòi mình. Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ:

Tác động thứ nhất: sự vội vã. Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.

Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã xuất khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.

Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ. Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đờng đi thăm bà Isave. Đức mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita đợc chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã đợc Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những ngời chung quanh.

Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ. Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay. Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ nhanh chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã khôn ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.

Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gơng Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.

Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.

 

 

 

 

 

2. Chuyện Hồn Với Xác, Don Bosco Trần Đức Quý

 

Đã từng có một thời, người ta xôn xao về chuyện Nhị Nguyên, phân tách Hồn – Xác, đến mức tranh cãi và xung đột nhau gay gắt, để lại nhiều vết thương đau đớn trong Giáo Hội.

Có lẽ hôm nay, nhân đại lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, chúng ta không cần lạm bàn triết học hay thần học dài dòng thêm về thuyết Nhị Nguyên này, nhưng hay hơn và cần thiết hơn, chính là thành tâm cúi đầu thú nhận rằng: ít hay nhiều, cuộc sống Đạo của chúng ta, cho đến bây giờ, vẫn cứ còn lấn cấn chập choạng thế nào ấy, giữa Đạo với Đời, giữa cái diễn đạt nghi thức ở bên trong Nhà Thờ và cách thế nghiệm sinh ở bên ngoài Nhà Thờ, giữa chuyện của linh hồn và thân xác, cứ như thể hai đằng chẳng có gì hỗ tương hòa nhập làm một, cứ như thể có đến hai cái Tôi, một cái dành cho Nước trên Trời, và một cái dành cho Nước dưới… Đất.

Nghĩ mà khổ ! Giá cứ thẳng tuồn tuột một đường lo cho cái ăn, cái mặc, chuyện vợ chồng, chuyện con cái, làm việc và vui thú hưởng thụ như một người vô thần vô tín ngưỡng, đàng này lại chúng ta lại đã trót… làm người có Đạo, lại là Đạo độc thần nữa cơ chứ !

Cũng trong cái nhãn quan bị cận thị mù mờ ấy mà chúng ta dễ nhìn Đức Mẹ một cách lệch lạc khiếm khuyết: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cơ mà, chuyện Hồn Xác được rước vào Nước Trời là đương nhiên, miễn bàn ! Từ tâm não ấy, người ta cảm thấy an tâm hài lòng, chỉ cần tung hô ngợi khen Mẹ bằng những bài Thánh Ca bay bổng tuyệt vời, chỉ cần suy tôn Mẹ như một bà Hoàng rất Thánh, đại Thánh, vô cùng Thánh, ở trên chín tầng mây cao thẳm, thi thoảng làm như vẫn ghé mắt rủ lòng, nhìn xuống đoàn con dân khốn khổ dưới cõi trần bi ai mà… “phát chẩn” những ơn này ơn kia. Cái não trạng này, của đáng tội, tuy hơi quá lời, không khác gì người đời hàng năm cứ đến mùa lễ hội, lại nườm nượp chạy hết đền này phủ nọ để tôn sùng, cầu cạnh xin xỏ và vay nợ bà Chúa Sứ, bà Chúa Kho, bà Chúa Liễu Hạnh…

Chắc chắn không phải là như vậy đâu nhỉ ? Tín điều của Giáo Hội tuyên xưng Đức Mẹ cả Hồn lẫn Xác về Trời đâu có phải là chuyện trẻ con, mê tín dị đoan tầm phào như thế ! Hồn và Xác của Mẹ đã là một, là duy nhất trong cách thế Mẹ hiện diện trọn vẹn trước Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, đến mức được tôn vinh là Hòm Bia của Thiên Chúa, là Đền Thờ Thiên Chúa ngự, là Cửa Thiên Đàng…

Mà thôi, chúng ta chỉ cần nương dựa thật chắc vào Kinh Thánh để nhận ra nơi Mẹ có hai nhịp sống, hai mà là một: nhận đón và trao ban Tin Mừng của Thiên Chúa.

Khi nhận đón Tin Mừng, Mẹ đã nhận đón bằng cả Hồn lẫn Xác, nhờ xúc tác kỳ diệu của Chúa Thánh Thần, để Ngôi Lời được nên xương nên thịt trong dạ Mẹ kể từ ngày được truyền tin, và cứ thế mà Mẹ không ngừng thai nghén cưu mang Đức Giê-su cho Giáo Hội, cho từng người trong chúng ta, âm thầm cho cả những người chưa chịu “khẩu phục tâm phục” Đức Giê-su, cho cả những người cứng đầu cứng cổ, vẫn đang tìm cách đẩy Đức Giê-su ra khỏi đời mình !

Rồi khi trao ban Tin Mừng, Mẹ cũng đã trao ban bằng cả Xác lẫn Hồn, cũng luôn nhờ vào tác động sâu xa của Chúa Thánh Thần, để Ngôi Lời được thành Lời kêu to lên, công bố lớn tiếng lên trên thế giới, truyền đi cho đến tận cùng cõi Đất, để Tin Mừng được toàn cầu hóa (hay là toàn cầu hóa Tin Mừng?), để rồi sẽ không còn có ai trên đời này mà lại không được cơ duyên một lần nào đó nghe nói về Đức Giê-su, gặp được Đức Giê-su và được Đức Giê-su chạm đến mà chữa lành.

Hai nhịp mà là một, hòa quyện, lồng vào nhau, chan cho nhau, đổ đầy lẫn nhau như một chiếc bình thông nhau. Bởi vì nhận đón cũng chính là trao ban, nhận đón để trao ban và trao ban thì cùng lúc vẫn phải không ngừng nhận đón, để không bị vơi, không bị cạn. Mẹ là thế !

Dòng Chúa Cứu Thế được Giáo Hội chính thức ủy thác cho việc cổ súy lòng sùng mộ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (Notre Mère du Perpétuel Secours – Our Mother of Perpetual Help). Hằng cứu giúp chứ không phải lâu lâu mới cứu giúp, hay cứu giúp theo định mức chỉ tiêu, cũng chẳng đợi con người ta xin cứu thì mới giúp, hoặc lâm vào nghịch cảnh nguy tai cần giúp mới cứu. Cứu giúp ở đây mang ý nghĩa nhận đón và trao ban. Mẹ nhận đón lấy Giê-su, nhận đón lấy Tin Mừng cũng là một trật, trao ban Tin Mừng, Tin Vui, Tin Lành, trao ban Giê-su của yêu thương, của sự sống, của hy vọng cho mọi người trong một bối cảnh thế giới luôn luôn từ khước vị tha xả kỷ và dẫy đầy những Tin Buồn, Tin Xấu, Tin Chết.

Một khi cuộc sống chúng ta, thế giới chúng ta vẫn còn đó những khủng bố, tạt acid, phá thai, những hà hiếp bóc lột bất công, những bạo hành ngược đãi đối với phụ nữ và trẻ thơ, những hất hủi đối với người tật nguyền, những người phong cùi, những người nhiễm AIDS… thì dẫu Hồn Xác Mẹ đã được lên Trời, nhưng Mẹ vẫn sẽ chẳng chịu “nghỉ hưu” mà an hưởng gia nghiệp Nước Trời vinh quang. Ngược lại, Mẹ vẫn mãi cả Xác lẫn Hồn lặn lội tất tả trên mọi nẻo đường dương thế để cứu giúp con cái của Mẹ bằng chính liệu pháp Giê-su, bằng chính thuốc “trụ sinh” Tin Mừng (“Christomycine”, “Gospelcycline” theo cách nói của cha Tiến Lộc trong trại cải tạo cách đây 20 năm).

Thế nhưng, Mẹ còn muốn gì nơi lòng chúng ta? Ở Ca-na, Mẹ bảo các người giúp việc trong tiệc cưới: “Người có bảo sao, các anh cứ làm y như thế!” Chắc là Mẹ không muốn phát chẩn cho chúng ta bằng những phép lạ mang tính biểu diễn, cũng không muốn chúng ta cứ mãi ngửa tay xin bố thí từng ân huệ, nhưng là hiệp sức cộng tác với Mẹ trong khả năng và ơn gọi của mình.

Trong xúc tác của Chúa Thánh Thần, Tin Mừng Giê-su, một khi đã được đón nhận thì có sức tỏa sáng, lan tỏa rất nhanh, rất mạnh, rất sâu, rất rộng, có sức chinh phục âm thầm mà sâu xa như trong một phản ứng hạt nhân dây chuyền. Bất cứ ai, tôi và các bạn, mỗi người và mọi người, một khi đã chịu lấy, đã nhận đón Tin Mừng thì không còn có thể khoanh tay ngồi yên, có giả điếc làm ngơ, vờ ngủ mê thì Mẹ cũng lay tỉnh và thúc giục chúng ta phải mở lòng ra mà trao ban, mà chuyển giao Tin Mừng cho những người khác nữa đang ngong ngóng chờ đợi khát khao, dù họ có ý thức điều đó hay không. Để rồi ai cũng có thể thốt lên: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Gaudium et Spes, Vui Mừng và Hy Vọng là như thế đó…

Hôm Chúa Nhật 12.8, trước khi đến dâng Thánh Lễ tại nguyện đường Sainte Marie ở Hà Nội, tôi nhận được một E-Mail từ trong Nam chuyển ra, nội dung là lời cầu cứu của một gia đình nghèo ở tỉnh Đồng Nai có cháu bé bị Tim bẩm sinh đã đến hồi nguy kịch. Tiện tay tôi cầm lá thư kẹp vào trong quyển sổ soạn bài giảng. Và tôi đã mạnh dạn đọc to lá thư ấy cho cộng đoàn. Khi tan Lễ, mọi người quây lại khen tôi giảng hay quá. Bản tính tự nhiên con người khiến tôi thấy len lén một thoáng tự hãnh kiêu ngạo, nhưng ngay sau đó, tôi hiểu rằng mình đã được Chúa Thánh Thần “mượn tạm”, đã được Mẹ Hằng Cứu Giúp trưng dụng, sung công để nhận và chuyển ngay Tin Mừng của ngày hôm ấy đến cho mọi người, đích xác là cho những anh chị em đã có mặt trong Thánh Lễ ngày hôm ấy. Ngày 16.8, ngay sau khi cử hành Lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, tôi vào lại Sài-gòn, không chỉ mang theo số tiền 3.050.000 đồng mà còn là cả tấm lòng yêu thương san sẻ của những người bạn Hà Nội cho một em bé, cho một gia đình ở tít tận mền Nam. Không ai biết mặt ai, không ai đã từng quen biết ai, nhưng cũng không ai còn xa lạ nhau trong Tin Mừng Giê-su kỳ diệu.

Vậy đó, chuyện Hồn với Xác đâu có gì là tách bạch, chuyện Đạo với Đời đâu có gì là chia cách biệt phân. Mẹ về Trời nhưng không ở trên Trời xa xôi, Mẹ vẫn đang lang thang lữ hành trên cõi Đất này, vẫn đang chọn dừng chân lưu ngụ nơi mỗi tâm hồn những con cái đáng thương của Mẹ để gửi gấm và làm nở hoa Tin Mừng. Mà như vậy, đâu phải đợi đến ngày “xác phàm sẽ sống lại” để cùng với linh hồn để bay về Trời mà hạnh ngộ với Thiên Chúa và Mẹ, nhưng ngay hôm nay, đang giữa đường trần ngược xuôi tất tả, cả hồn lẫn xác chúng ta cũng đã được nếm lấy hương vị bữa tiệc Nước Trời, đã được “tạm ứng” nỗi Mừng Vui kín ẩn mà thấm thía của Tình Yêu…

Tôi tin, trong những ngày đang diễn ra Đại Hội La Vang lần này, Hồn và Xác Mẹ cũng đang chạm đến hồn và xác của nhiều con người, như đã từng chạm đến tôi, đến những anh chị em ở Sainte Marie, đến những em bé như em bé bị Tim bẩm sinh ở Đồng Nai, đến cả bạn nữa đấy.

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT

 

 

 

 

 

3. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

 

Câu hỏi gợi ý:

Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như không? Mẹ có mong muốn trở: 15/8-11

1. Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như thế không? Mẹ có mong muốn trở nên một nhân vật vĩ đại như Mẹ đang là hiện nay không? Chúng ta có thể rút ra bài học gì cho chính chúng ta?

2. Tại sao nhiều người Ki-tô hữu lại từ bỏ những điều mà người đời phấn đấu cho bằng được để có? Ai khôn ngoan hơn ai? Chiếu theo quan điểm đức tin, sự từ bỏ ấy có thật sự đáng gọi là hy sinh không?

Suy tư gợi ý:

1. Đời của Đức Ma-ri-a có nhiều đặc biệt Cuộc đời của Đức Ma-ri-a có nhiều nét đặc biệt và nghịch lý. Đặc biệt chẳng hạn như là người nữ duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, sinh con không phải do kết hợp với người nam mà bởi quyền năng Thánh Thần, sinh con mà vẫn còn đồng trinh, làm con trẻ Gio-an, con bà Ê-li-sa-bét, nhẩy mừng khi Mẹ đến thăm, v.v… Nghịch lý là vì Mẹ sống rất đơn sơ, khiêm nhường, không mong muốn gì cao sang hay đặc biệt hơn người, mà lại trở nên cao sang và đặc biệt hơn bất cứ người nào trên trần gian này.

Nghịch lý ấy là nghịch lý đối với người đời, vì họ quan niệm rằng muốn đạt được những địa vị cao sang thì phải có lý tưởng thật cao vời, nghĩa là phải nhắm những địa vị cao, những mục tiêu lớn, phải quyết tâm trở nên những nhân vật vĩ đại, rồi còn phải bon chen phấn đấu với mọi người, nhất là với những đối thủ cạnh tranh với mình. Nhưng nghịch lý ấy lại là thuận lý theo cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa suy nghĩ và hành động khác hẳn với người đời. Trong bài Ngợi Khen, Đức Ma-ri-a đã nêu lên cách hành động của Ngài: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

2. Hai cách suy nghĩ

Thực ra đó là hai cách nghĩ và hành động khác nhau, cả hai cách đều có lý, đều đúng, nhưng có lý và đúng trong hai lãnh vực khác nhau, trong hai không gian khác nhau, và trong hai loại thời gian khác nhau. Cách của người đời – không dựa vào đức tin – thì đúng trong phạm vi nhỏ hẹp của xã hội, trong đời sống vật chất, tầm thường của đời người, và trong một khoảng ngắn thời gian, chẳng hạn vài chục năm của đời người. Còn cách những người sống theo đức tin thì đúng trong phạm vi rộng lớn hơn, trong đời sống tâm linh, siêu việt, và trong thời gian rất dài, trong vĩnh cửu, có thể xuyên qua đời sống của con người, vượt qua cái chết. Cách nào cũng đúng, cũng có lý, nên cách nào cũng có những người thông minh và khôn ngoan vào bậc nhất thế giới ủng hộ, cổ võ.

Vấn đề của chúng ta là chọn cách suy nghĩ nào, cho cách nào là khôn ngoan nhất. Nếu nhắm cái lợi trước mắt và ngắn ngủi thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu thế gian, không dựa trên đức tin. Còn nếu nhắm cái lợi lâu dài và hết sức to lớn – chỉ có điều bất lợi là khó thấy và không đến ngay – thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu đức tin. Khi chúng ta đã suy nghĩ và chọn lựa dứt khoát thì chúng ta phải chấp nhận bỏ cái này để được cái kia: hoặc là bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, hoặc là ngược lại, bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn. Cách suy nghĩ nào cũng đều đòi hỏi phải từ bỏ. Suy nghĩ như thế, ta cảm thấy thoải mái hơn.

Giả sử ta lựa chọn bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, thì ta sẽ không cảm thấy việc từ bỏ ấy là một sự hy sinh. Cho rằng sự từ bỏ khôn ngoan ấy là một hy sinh thì có thể làm tâm lý chúng ta bị dồn nén, đau khổ, gây trạng thái mất quân bình về tâm lý. Xét cho cùng, sự dồn nén này quả là một dồn nén phi lý, thiếu suy nghĩ. Nếu có dùng chữ hy sinh thì đúng ra chữ đó phải dành cho những ai lựa chọn bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn, như thế thì hợp lý hơn. Chẳng hạn có ai đó cho hai người nọ hai món đồ: một món quí giá và một món rẻ tiền. Thật là phi lý khi bảo người chọn món quí giá và để lại món rẻ tiền cho người kia là đã hy sinh cái nhỏ để lấy cái lớn. Nếu nói đó là một hy sinh thì người chọn cái nhỏ và bỏ lại cái lớn không phải là đã hy sinh nhiều hơn sao?

3. Ai hy sinh hơn ai?

Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:

– “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.

– “Con đã nói phản lại sự thật rồi! – Vị bề trên trả lời – Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường. Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh.

4. Vấn đề là tin hay không tin, và ai khôn ngoan hơn ai

Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v& Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!

5. Chọn lựa của Mẹ Ma-ri-a

Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ cao cả đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giê-su nói: Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.

Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Việc Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con bắt chước Mẹ trong việc chọn lựa căn bản nhất của đời con. Xin cho con biết chọn Chúa hơn chọn bản thân con, biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, chọn vinh quang của Chúa hơn cả hạnh phúc của con, và biết quan tâm phục vụ tha nhân vì Chúa hơn quan tâm đến chính bản thân con. Xin giúp con trở nên giống Mẹ trong sự lựa chọn ấy. Amen.

JKN

 

 

 

 

 

4. Ước Vọng Lên Trời – Lm Phạm Quốc Hưng Cssr

 

Trong buổi lễ tại Tòa Bạch Ốc ngày 30/7/1994, Tổng thống Hoa Kỳ Willam Clinton đã tôn vinh cuộc đổ bộ lên mặt trăng tròn 25 năm (20/7/1969). Ông gọi biến cố ấy là “bước nhảy vĩ đại của nhân loại”. Các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11 là Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins, những người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã được ngưỡng mộ như những người hùng của nhân loại.

Sau chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc sẽ có những cuộc du hành thường xuyên lên mặt trăng để tất cả những ai thích đều có thể mua vé lên nguyệt cầu. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để đặt chân lên một vệ tinh không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra không đáng làm.

Dù sao, việc con người vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu để đặt chân lên một thiên thể khác vẫn là một thành quả đáng khâm phục. Vì điều này đã nói lên một cách hùng hồn khả năng chinh phục vụ trụ của con người. Nhưng dù có vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu khi đặt chân lên nguyệt cầu, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn. Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong thế giới vật chất này vận không phải là quê thật và chung cánh của loài người. Chỉ có Thiên Đàng hay Quê Trời mới là nơi mà mọi khao khát và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn và khỏa lấp hoàn toàn.

Ước mơ Thiên Đàng không phải là ước mơ hão huyền.

Việc phi thuyền Apollo 11 đổ bộ nguyệt cầu đã cho thấy ước mơ lên thăm Chị Hằng của nhân loại từ ngàn xưa đã được thực hiện. Cũng vậy, việc Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo Hội long trọng mừng kính vào ngày 15/08 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ Thiên Đàng, là ước mơ chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi sâu thẳm nhất của lòng người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Mẹ Maria và cũng sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng ta được Chúa cho sống lại như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Không như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống và dưỡng khí, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc Mẹ lên trời được hiểu như thế, việc “lên trời” của Mẹ chẳng đáng ta ước mong, như lời của một bản tình ca nào đó:

“Lên trời hai đứa hai nơi

Thôi em chỉ muốn làm người trần gian”.

Thực ra, đặc ân Đức Mẹ được “lên trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác. Mẹ đã được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế giới tự nhiên hữu hạn nầy để đi vào thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó, Mẹ được hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình Yêu và Hạnh Phúc viên mãn của chính Chúa.

Tại sai Mẹ được phúc trọng như thế? Tin Mừng theo thánh Luca trong phụng vụ hôm nay cho ta biết Mẹ được phúc trọng vì Mẹ đã tin, tin tất cả những gì Chúa phán cùng Mẹ. Mẹ đã tin với tất cả xác hồn của Mẹ, với tất cả sự sống và tình yêu của Mẹ, Mẹ đã tin trọn vẹn nên Mẹ đã được phúc trọn vẹn.

Chúng ta cũng được Chúa mời gọi bước vào cuộc hành trình đức tin như Mẹ. Chúng ta tin rằng Chúa yêu thương ta từ đời đời. Người dựng nên ta theo giống hình ảnh Người. Người đã ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sinh ra làm người để chia sẻ thân phận chúng ta, đã chết và sống lại để chuộc lại cho chúng ta địa vị làm nghĩa tử của Chúa, và đã lên trời vinh hiển để cho chúng ta hy vọng sẽ được lên trời chia sẻ vinh quang với Người.

Việc Mẹ Maria được lên trời cả hồn cả xác cho thấy Mẹ là người đầu tiên trong nhân loại đã được tận hưởng cách trọn vẹn và hoàn hảo ơn cứu độ do công nghiệp của Chúa Kitô. Đó còn là một mạc khải cho ta thấy trước phần phúc chung cánh Thiên Chúa dành sẵn cho mỗi người chúng ta.

Thực tại đức tin của ta đẹp như thế đấy!

Ta có dám tin và sống trọn vẹn với niềm tin đó không?

Có lẽ sẽ chẳng bao giờ chúng ta có cơ hội đặt chân lên mặt trăng như các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11. Nhưng nếu chúng ta tin như Mẹ đã tin và sống như Mẹ đã sống, chắc chắn chúng ta sẽ được phúc lên trời như Mẹ đã được.

Lạy Mẹ Maria là Mẹ đầy ơn phúc của chúng con. Cùng với Mẹ chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Mẹ ơn được lên trời cả hồn cả xác. Trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa của Tình Yêu, Mẹ không ở xa chúng con nhưng lại càng gần chúng con và yêu thương chúng con hơn. Vậy xin Mẹ hãy giúp chúng con nhận biết sự hiện diện thật thân thiết của Mẹ trong cuộc đời chúng con, để chúng con hằng sống gắn bó với Mẹ trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế. Nhờ vậy, chúng con sẽ luôn tìm được ý nghĩa đích thực và bình an trong cuộc sống hiện tại và đầy tràn hy vọng sẽ được hưởng phúc Thiên Đàng cùng Mẹ trong cuộc sống đời đời. Amen.

Lm Phạm Quốc Hưng CSsR

 

 

 

 

 

5. Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Thiên Chúa

 

Mừng Kính Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay chúng ta hãy nhìn lại cuộc đời của mình, tại sao không là cuộc đời ngợi khen Thiên Chúa?

Đặt ra câu hỏi này cho tôi, để tôi cần được thấy những điều trọng đại mà Thiên Chúa đã thực hiện cho tôi qua lịch sử dân tộc và lịch sử đời thường cá nhân của tôi.

“Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người”. (Lc 11,54).

Hoàn cảnh của lịch sử một dân tộc.

Với cách nhìn lịch sử của Đức Maria, cuộc đời dân tộc của Mẹ đã trở thành lời ca tụng Thiên Chúa. Đây là điều quan trọng trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống này dù thế nào chăng nữa vẫn là một cuộc sống được thừa hưởng, thừa hưởng gia sản quý báu mà cha ông để lại, là một dân tộc được hiến thánh. Một dân tộc nhỏ bé giữa triều đại Đế quốc Roma rộng lớn, cường thịnh. Một dân tộc được hiến thánh cho Thiên Chúa giữa muôn dân được tuyển chọn từ một cụ già gần đất xa trời là Abraham mà vẫn chưa có một đứa con nối dõi tông đường. Thiên Chúa đã khởi đi từ những gì là mong manh ấy để chuẩn bị cho cho một dân riêng để thờ phượng Thiên Chúa. Giữa muôn ngàn nghịch cảnh của lịch sử, Thiên Chúa đã cho dân tộc Israel được thấy, họ là “con số còn sót lại” để thờ kính Thiên Chúa. Thiên Chúa, Người thích đi con đường nhỏ.

Tại sao một lịch sử nhỏ bé của một dân tộc Việt Nam lại không đọc thấy con đường nhỏ này. Một quốc gia nhỏ bé giữa vùng Châu Á. Một quốc gia biết tôn trọng sự sống được biểu lộ ra bằng hình thức “cầu tự” trong truyền thống dân gian. Một dân tộc đã trải qua một ngàn năm chịu đô hộ giặc Tàu, một trăm năm dưới ách giặc Tây và nhiều năm trong những thử thách của chiến tranh, mà vẫn mang trong mình gióng máu Việt. Từ lòng Âu Cơ, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân tộc Việt Nam một dân được hiến thánh cho Thiên Chúa. Từ một con người rất bình thường của một gia đình nông thôn nghèo khó, Thiên Chúa đã biểu lộ quyền năng của Người nơi gia đình bà Annê Lê Thị Thành, một phụ nữ Việt Nam. Từ một lịch sử đức tin của đời thường ấy Thiên Chúa đã làm bao điều cao trọng. Máu bà đã đổ cũng như máu các Thánh Tử Đạo đã đổ, các vị là một “con số nhỏ” mà Thiên Chúa đã thực hiện Lịch sử Cứu độ của Người cho dân tộc Việt Nam. Giống như từ cung lòng héo hắt của bà Sara, Thiên Chúa đã gầy dựng một dân. Đức tin của dân tộc Việt ấy đã mọc lên từ máu Tử Đạo, kết trái đơm hoa bằng những con người tử đạo, trong đó có máu tử đạo của một người nữ. Trong giai đoạn lịch sử tử đạo này, tôi thích đọc lại hình ảnh của nhà văn H.Sienkievich trong tác phẩm “Quo vadis”, diễn tả khi Phêrô trốn ra khỏi thành Roma trở về và nhận ra:“Hoàng đế cùng tất cả các đạo quân của y cũng không thể thắng được chân lý đầy sức sống kia, cả nước mắt lẫn máu tươi đều không thể nhận chìm nổi chân lý đó, giờ đây mới là lúc chân lý bắt đầu chiến thắng. ông cũng hiểu được tại sao ông được gọi quay trở lại giữa đường trốn chạy: Chính cái thành phố của xa hoa, tội ác, truỵ lạc và bạo tàn này đã biến thành thành phố của ông, trở thành thủ đô hai lần thủ đô, từ thủ đô ấy sẽ trào tuôn ra thế giới sự ngự trị của thể xác lẫn linh hồn”. Suy nghĩ này dẫn dắt tôi đến với lịch sử dân tộc tôi hôm nay: “Cho dù có cả triệu thai nhi bị giết chết trong một năm, nơi đây vẫn còn từ những cung lòng của bao bà mẹ khác vẫn không ngừng đón nhận con cái là hồng ân Chúa ban, để sinh ra những người con cho trần thế và cho Nước Trời”. Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu trong lịch sử và còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử của nhân loại.

Với một góc nhìn ấy về sự kiện của ngày Đại Hội giới Trẻ lần thứ 17 tại Toronto, tôi tin rằng Thiên Chúa vẫn đang bày tỏ uy quyền của Người qua những con số nhỏ dám chấp nhận đang lội ngược dòng thế gian này và hình ảnh Giáo Hoàng giữa các bạn trẻ tại Toronto, giống như môn đệ Phêrô, qua dáng người bước ra pháp trường của ngày hôm ấy mà tác phẩm “Quo Vadis” diễn tả: “Vị lão ngư thường ngày vẫn nhẫn nhục còng lưng, lúc này bước thẳng người , tầm vóc hơn đám binh lính, đầy vẻ trang trọng. chưa bao giờ người ta thấy ở ông ấy ngần ấy vẻ uy nghi. ngỡ như đó là một vị quốc vương đang đi giữa dân chúng và binh lính”.

Tôi tin rằng những con người đang bênh vực cho chân lý của sự sống vẫn mang một dáng người như thế giữa ngàn trùng sự dữ, đang bước đi hiên ngang đi về phía trước.

Trong một nhãn quan lịch sử như thế, tôi đang được thừa hưởng sự sống, tôi không thể nào mà không thấy được trong mọi hoàn cảnh của ngày hôm nay lời tán tụng Thiên Chúa, mang nỗi lòng mừng vui của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” khi lịch sử cứu độ còn đang vận hành trong những người mẹ đón nhận những đứa con là hồng ân Thiên Chúa.

“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới”.

Ơ xứ Palestine thời Chúa Giêsu người nữ không có thế giá, thế giới của họ là gia đình và những việc nội trợ. Họ không được đi học cả việc đạo cũng như đời. Họ không được mời làm chứng tại toà án cũng như không được lên tiếng trong nghi thức phụng tự.

Đức Maria là một thiếu nữ nông thôn, mộc mạc, chất phác và nghèo như các thôn nữ miền quê khác. Cái nghèo không thể khuất phục được một tâm hồn chất đầy lời tạ ơn Thiên Chúa. Có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa trong cuộc đời của Đức Maria, và trong kho tàng ân sủng ấy Đức Maria đã trở thành Lời Ngợi Khen Thiên Chúa.

Hoàn cảnh của Đức Maria từ sau tiếng “Xin Vâng”, cũng không dễ dàng gì khi để cho Thiên Chúa bày tỏ quyền năng của Người. Bất lợi và nhiều đau khổ nhưng vẫn không làm người cúi đầu. Điều đặc biệt trong tư thế đón nhận mà Đức Maria đã đón nhận “tất cả là hồng ân”. Thấy được Hồng Ân mới thấy được quyền năng của Thiên Chúa và từ ấy nhận ra cuộc đời đầy ân phúc của mình.

Đã là người, ai cũng là những người nghèo khó, nghèo khó đủ mặt trong cuộc sống, nhưng được vươn cao đến vô hạn nhờ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Tại sao không thấy được điều Đức Maria đã thấy: “Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Đây có lẽ phải là hình ảnh của người nữ mẫu gương cho mọi người nữ đang đấu tranh cho phẩm giá của mình.

Tại sao lại có thể tự ty mặc cảm trước hồng ân của Thiên Chúa? bởi vì nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, lòng trí đã trở nên lu mờ theo những tính toán ích kỷ. Đức Maria nhận ra mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, nhưng đây là một nữ tỳ chỉ một phận nhỏ được Thiên Chúa đoái thương. Người nhận ra được Thiên Chúa đoái thương là người ngẩng cao đầu cất tiếng ngợi khen: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” thay cho mặc cảm, tự ty. Lời tán dương ấy, tại sao lại không cất lên được trong cuộc sống đời thường của tôi? Bởi vì, tôi đã không dành thời gian để nhìn lại những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho tôi. Nếu nhìn thấy cánh tay uy quyền của Thiên Chúa thực hiện trong thân phận đầy giới hạn và nghèo túng của tôi thì với nhãn quan ấy tôi đã khám phá ra cuộc đời “Đầy ơn phúc” của tôi.

Những lời tạ ơn trong cuộc sống vẫn cứ như chìm mất trong thái độ cầu xin, phạt tạ, đền tội của tôi. Tại sao lại cúi mặt trước Thiên Chúa? Tại sao tôi không sống đúng với tư thế của người con mà cứ sống thái độ ăn xin nơi ân phúc của Cha?

Tại sao tôi chỉ có biết xin mà chưa biết dùng ân huệ của Người trong cuộc sống của tôi? Một điều đơn giản tôi khám phá ra vì thiếu lời tạ ơn. Thiếu lời tạ ơn, cho nên, dù tôi có nhận được ân sủng từ nơi Thiên Chúa tôi vẫn là những con người chôn giấu những nén bạc. Ân sủng được trao ban là để sinh hoa kết trái và từ hoa trái ấy nên lời tạ ơn trong cuộc sống. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống vẫn đầy những u mê và tính toán, ích kỷ và kiêu căng, tội ác và bóng tối. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống của tôi vẫn là cuộc sống người ăn xin trong nhà Cha. Lời tạ ơn làm nên thái độ sống xứng đáng của con người. Thiên Chúa được vinh Danh nơi những con người sống và biết sống xứng đáng là một con người.

Lời tạ ơn làm nên sức năng động: Đức Maria, trong lời tán dương, tôi đã thấy Mẹ là người năng động và rất năng động trong ân sủng của Thiên Chúa. Mẹ là người không chịu khuất phục dưới những đè nặng của khó khăn: Khi biết người chị em của mình đã mang thai, Đức maia đã vội vã lên đường đi tới vùng sơn cước. Khi trở về Nazareth hai ông bà nhận ra thiếu người con là Giêsu, hai ông bà đã vội vã trở lại Giêrusalem. Khi bàn tiệc cưới hết rượu, Đức Maria đã nói với Đức Giêsu “Họ hết rượu rồi” và nói với những người giúp việc “Ngài bảo gì, cứ làm theo”. Khi nghe người ta nói về con mình mất trí, Đức Maria vội đi tìm kiếm con để rồi thấy rằng sự mất trí ấy cũng giống như Mẹ là để cuộc đời này thực hành theo Ý muốn của Chúa Cha. Khi đứng dưới chân Thập Giá, Đức Maria đã biết rằng “mọi sự đã hoàn tất”. Cuộc đời đâu thiếu những sóng gió, nhưng những sóng gió đấy lại bình an trong lời tạ ơn, như Đức Maria đã đắm chìm trong Lời tạ ơn của những ngày Phục Sinh.

Cuộc đời tôi tất nhiên là không tránh khỏi những lúc đen tối, thử thách, gian nan, nhưng điều quan trọng, tôi hãy học cùng với Đức Maria sống cuộc sống này là cuộc đời “Đầy ân Phúc” mà Đức Maria đã sống trong Lời tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa …”.

Biến cuộc đời này thành lời tạ ơn, tôi nhận thấy rằng: Ngay cả những lúc thống hối nhất, giữa những lúc mây đen bao phủ dữ dằn nhất, vẫn là những lúc để Vinh Danh Thiên Chúa được hiển trị nhất trong tâm hồn con người biết tạ ơn.

Hãy tạ ơn và hãy làm cho cuộc đời này trở thành “Đầy ân Phúc” nhất, tôi tin rằng cuộc sống con người sẽ trở thành bất tử ngay cả khi còn dưới thế và Lời Xin cho Danh Cha được hiển trị thành sự thật.

Và cuối cùng tôi vẫn tin rằng: Cả hồn và xác Mẹ lên trời là bảo đảm cho cuộc đời nỗ lực làm cho cuộc sống đầy ân sủng này sinh hoa kết trái và trở thành Lời tạ ơn Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi.

LM Giuse Hoàng Kim Toan.

 

 

 

 

 

6. Niềm Hy Vọng

 

Lễ Mẹ hồn xác lên trời không phải chỉ đem đến cho chúng ta niềm an ủi, mà còn thắp lên trong chúng ta niềm hy vọng tuyệt vời. Đó chính là điều Đức thánh cha Piô XII đã nhắn nhủ khi công bố tín điều này.

Anh em Tin lành có một bài hát với những lời lẽ như sau:

– Tôi chỉ muốn xây dựng sự lên trời của tôi dựa vào Đức Kitô mà thôi.

Là người Công giáo, chúng ta hoàn toàn đồng ý với những anh em Tin lành:

– Niềm hy vọng về trời của chúng ta phải được đặt nền tảng nơi Đức Kitô.

Thế nhưng, trước mặt chúng ta sự lên trời của Mẹ Maria hôm nay đã thắp lên một ánh lửa dạt dào hy vọng. Với biến cố này, một tia sáng đã chiếu tỏa trên vùng đất tăm tối của sự chết.

Mục đích cuộc hành trình dương thế của chúng ta đã được bảo đảm nơi Mẹ Maria, bởi vì Mẹ là tạo vật đầu tiên đã được bước vào chốn vinh quang.

Án phạt của  tội lỗi là sự chết. Thế nhưng với sự phục sinh của Đức Kitô và sự lên trời của Mẹ Maria, chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:

– Hỡi thần chết, sự chiến thắng của ngươi ở đâu và nọc độc của ngươi ở đâu ?

Kể từ nay, cái chết không còn quyền hành gì nữa đối với chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta lo lắng nhưng không sợ hãi trước cái chết. Thánh Benoit đã chết trong khi còn đang tay cầu nguyện. Thánh Phanxicô thành Assie đã gọi cái chết là người chị yêu dấu. Còn thánh Louis de Gonzague đã nói:

– Chúng ta vui mừng cất bước ra đi…

Người ta kể lại rằng: có một ông bố, đặt khẩu súng đã lên đạn của mình ở đầu giường trong lúc hấp hối và nói với các con của mình rằng:

– Các con hãy yên tâm ra đồng gặt lúa. Bao giờ các con nghe thấy một tiếng súng nổ thì các con biết rằng ba các con đã chết.

Hay như một cụ già khác đã gọi con cháu đến bên giường bệnh và giảng giải cho con cháu biết về sự quan trọng của cái chết.

Cái chết và sự lên trời của Mẹ Maria đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì dù chúng ta sẽ chết cách nào, điều đó không quan trọng, chúng ta sẽ hấp hối làm sao, điều đó cũng không quan trọng. Điều quan trọng đích thực, đó là chúng ta phải chiến thắng trong giờ sau hết.

Với ngày lễ hôm nay, chúng ta không phải chỉ nhìn về dĩ vãng bằng cách cảm tạ những hồng ân Chúa đã ban cho Mẹ, mà còn hướng tới tương lại bằng cách xác định con đường chúng ta sẽ phải đi qua.

Khi lần hạt và suy gẫm về sự ân thưởng và vinh thăng của Mẹ, một chân trời mới đầy hy vọng đã mở ra trước mắt chúng ta, bởi vì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi, trái lại nhờ nó mà chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước trời, nhờ nó mà chúng ta được trở về nhà Cha, nhờ nó mà chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu.

Vì thế, từ chốn khổ đau này chúng ta luôn cầu khẩn Mẹ giúp chúng ta trong cuộc chiến cam go ấy.

Bên Thụy sĩ, cứ năm năm người ta lại trình diễn vở kịch  “Sân khấu thế giới” ngay trước mặt nhà thờ Đức Bà. Đời sống mỗi người là một cảnh tượng diễn ra trước mặt Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả. Mỗi người phải thủ một vai trò nào đó, nhưng sau cùng đều phải xuất hiện trước ngai tòa Thiên Chúa để được xét xử về vai trò mình đã đóng có được trọn vẹn hay không. Giữa lúc mọi người lo lắng thì Đức Maria xuất hiện. Mẹ tiến đến trước mặt Thiên Chúa, bầu cử cho họ và mời họ vào dự tiệc vĩnh cửu. Và rồi tất cả cùng hát vang:

– Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ mà chẳng được nhận lời.

Với tình thương của người mẹ, Đức Maria sẵn sàng trợ giúp chúng ta với uy quyền của một bậc Nữ Vương ngài có thể thực hiện những gì chúng ta muốn.

Bởi đó, trong ngày hôm nay chúng ta hãy thân thưa với Mẹ:

Lạy Nữ Vương trời đất, xin bầu cử chúng con trước ngai tòa Chúa.

 

 

 

 

 

7. Mẹ Lên Trời Hồn Xác

Bài Giảng của Đức Tổng Giám Mục Huế trong Thánh Lễ Hành Hương kính Đức Mẹ Lên Trời Hồn Xác tại Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang (15.8.2003)

 

Kính thưa Cộng Đoàn Phụng Vụ,

Anh Chị Em hành hương thân mến,

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, trong niềm hiếu thảo và tri ân sâu xa, chúng ta hân hoan cử hành Thánh Lễ mừng Mẹ Lên Trời Hồn Xác tại Đất Mẹ La Vang yêu dấu. Chúng ta nô nức chạy đến cùng Mẹ vì chúng ta tin rằng giờ đây Mẹ đã lên trời và đã trở thành “Đấng Cầu Bầu Toàn Năng” bên ngai toà Đức Giêsu Kitô, Con của Mẹ. Chắc hẳn đến với Mẹ, mỗi người chúng ta có nhiều điều để nói cùng Mẹ và chia sẻ với nhau, tuy nhiên, trong năm 2003 nầy, năm mà Giáo Hội Việt Nam muốn cho con cái mình ý thức mãnh liệt hơn về các giá trị của đời sống gia đình nhằm bảo vệ và thăng tiến tình yêu hôn nhân, tôi muốn cùng anh chị em nhìn lại con đường đã dẫn Mẹ lên trời: đó chính là con đường chu toàn thiên chức làm mẹ.Thiên chức làm mẹ là bảo vệ và phục vụ sự sống

Anh Chị Em thân mến,

Trước hết, thiên chức làm mẹ là vô cùng cao cả vì đó chính là sứ mạng phục vụ và bảo vệ sự sống ngay từ khi mới được tượng thai trong lòng mẹ. Việc có con cái, dĩ nhiên, là việc chung của cả cha lẫn mẹ, nhưng chính người mẹ là người phải trực tiếp trả giá cho việc sinh con, trong đó, người mẹ đã tiêu hao rất nhiều năng lực thể xác và tinh thần để mang nặng đẻ đau và dưỡng dục con cái nên người. Ngày nay, những khám phá khoa học đã chứng minh cho thấy khi trao cho người phụ nữ trọng trách làm mẹ, Đấng Tạo Hoá đã chuẩn bị cho họ hết sức chu đáo về mọi mặt: từ thể lý, tâm lý đến tâm linh. Đặc biệt, nhờ có một trực giác riêng, tất cả mọi người mẹ đều “hiểu” được điều gì đang diễn ra nơi bản thân mình, đón nhận và yêu thương đứa con mình đang cưu mang như một ngôi vị. Cảm nghiệm làm mẹ kỳ diệu nầy đã được ghi lại ngay trong những trang đầu của Sách Sáng Thế: “Nhờ Đức Chúa, tôi đã sinh được một người” (St 4,1). Tiếng reo mừng đó của Bà Eva, mẹ chúng sinh, đã được tiếp tục vang vọng lên mãi mỗi lần có tiếng khóc của một trẻ thơ vừa mở mắt chào đời trên thế gian. Tiếng reo mừng đó diễn tả niềm vui của người phụ nữ khi chợt ý thức rằng, qua thiên chức làm mẹ, họ được tham dự vào quyền năng sáng tạo của chính Thiên Chúa (x. Tông Thư về Phẩm Giá Của Người Phụ Nữ, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 18).

Tin Mừng không viết nhiều về Mẹ Maria, nhưng những gì Tin Mừng ghi lại cũng đủ giúp chúng ta nhận ra nơi Mẹ tấm gương ngời sáng trong sứ mạng phục vụ và bảo vệ sự sống. Thực vậy, ngay từ tiếng Xin Vâng của Mẹ ngày Truyền Tin, Mẹ đã vui mừng đón nhận sự sống mới, vì Mẹ tin rắng sự sống đó đến từ Thiên Chúa và đứa con mà Mẹ đang cưu mang, chính là Con Đấng Tối Cao (x. Lc 1,26-38). Và để bảo vệ sự sống của người con yêu dấu vừa tượng thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã sẵn sàng trả mọi giá: Mẹ đã không bị xáo động trước vẻ lúng túng khó xử của Thánh Giuse (x. Mt 1,18-25), đã không chùn bước trước thử thách của cảnh khó nghèo ở Bêlem (x. Lc 2,1-21) và ở Nadarét (x. Lc, 39-40), đã không ngần ngại gian khổ khi phải tỵ nạn qua Ai Cập (x. Mt 2,13-18). Trong biến cố Lên Đền để dâng con đầu lòng, Mẹ đã sẵn sàng tiếp nhận lời tiên báo đầy thách đố của Ông Ximêon về “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Bà” (x. Lc 2,33-35). Và qua biến cố trẻ Giêsu ở lại trong Đền Thờ lúc lên 12 tuổi (x. Lc 2,41-50), chúng ta cũng thấy được phần nào công lao khó nghọc của một người Mẹ luôn kiên trì trong trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ, chăm sóc con mình, can đảm đồng hành với Con cho tới tận chân thập giá, để rồi, từ chính dưới thập giá của Con mình, Mẹ đã lãnh nhận thiên chức làm Mẹ của một nhân loại mới: “Thưa Bà, nầy là con Bà!” (Ga 19,26).Thiên chức làm mẹ là bảo vệ hạnh phúc gia đình

Anh Chị Em thân mến,

Đặc biệt, qua tiệc cưới Cana được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Gioan (x. Ga 2,1-12), chúng ta còn có thể khám phá thấy nơi Đức Maria hình ảnh một người mẹ biết đánh giá cao hạnh phúc của tình yêu lứa đôi. Chính Mẹ đã cầu bầu cho tiệc cưới có đủ rượu ngon và bảo đảm cho gia đình đôi tân hôn có được niềm vui trọn vẹn. Ngay sự hiện diện thánh thiện của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria và của các Tông Đồ tại bàn tiệc Cana, cũng đã cho thấy ý định muốn thánh hoá và thăng hoa hạnh phúc của tình yêu lứa đôi, muốn nâng hôn nhân lên bí tích thánh, nhằm bảo đảm ơn thiêng giúp cho hạnh phúc gia đình được vững bền.

Tại Cana, Mẹ đã tỏ ra cảm thông với niềm hạnh phúc mong manh của đôi bạn trẻ, phải chăng là vì Mẹ cũng đã nếm trải những cay đắng của một cuộc hôn nhân bất trắc. Và trong đêm tối đức tin, từng ngày sống của Mẹ chắc hẳn cũng đã chất chứa nhiều âu lo và băn khoăn cho hạnh phúc của gia đình Mẹ: Mẹ đã đau niềm đau sinh con nơi hang lừa máng cỏ, Mẹ đã phải sớm bồng con chạy loạn tha phương cầu thực nơi đất khách quê người, Mẹ đã đầu tắt mặt tối suốt 30 năm sống khó nghèo giữa những anh chị em nghèo khó tại Nadarét, Mẹ cũng đã phải sống những ngày tháng phập phồng lo sợ cho tính mạng của đứa con yêu dấu trong những năm rao giảng công khai, và phải chăng Mẹ đã khóc niềm đau làm mẹ khi phải chứng kiến cơn hấp hối kéo dài của đứa con bị án tử đóng đinh trên thập giá?

Nhưng trong tất cả mọi nỗi đau thương đó, Mẹ đã luôn bảo vệ được hạnh phúc gia đình bằng tâm hồn của một người mẹ biết yêu thương và biết sống đức tin cách sâu xa. Tiếp theo hai tiếng Xin Vâng, Tin Mừng đã tóm tắt thái độ sống đức tin căn bản ấy của Mẹ: “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).Noi gương Mẹ và nhờ Mẹ, hãy biết phục vụ sự sống và bảo vệ hạnh phúc gia đình

Anh Chị Em thân mến, Khi tạo dựng con người là nam là nữ theo hình ảnh mình, Thiên Chúa muốn mời gọi họ dự phần đặc biệt vào tình yêu cũng như quyền năng của Ngài là Đấng Tạo Hoá và là Cha, cho họ được cộng tác cách tự do và có trách nhiệm để lưu truyền hồng ân sự sống con người. Chính vì thế, mục tiêu căn bản của gia đình là phục vụ sự sống (x. Tông huấn về Gia Đình, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 28). Ơn sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người, đòi hỏi con người phải ý thức về giá trị vô song của nó và phải biết lãnh nhận trách nhiệm.

Và lãnh nhận trách nhiệm về sự sống, chính là phục vụ, bảo vệ và thăng tiến sự sống xứng với phẩm giá và ơn gọi toàn diện của con người (x. Huấn Thị “Hồng An Sự Sống”, Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 22.02.1987).

Giáo Hội tin tưởng mạnh mẽ rằng sự sống con người, dù có yếu ớt và đầy đau khổ, vẫn luôn là một hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa tốt lành. Đối nghịch với não trạng chống lại sự sống của nền văn minh sự chết đang tràn ngập, có nguy cơ nhận chìm thế giới hôm nay trong bầu khí ảm đạm, Giáo Hội muốn cổ súy một nền văn minh tình thương và sự sống nhằm bênh vực con người và các gia đình chống lại những kẻ đe doạ sự sống và làm hại sự sống (x. Tông huấn về Gia Đình, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 30).

Vấn đề gia đình hôm nay không còn là một vấn đề của riêng ai, mà là vấn đề của xã hội, của thế giới. Muốn bảo đảm được quyền lợi và hạnh phúc đích thực của gia đình, cần phải có một sự cộng tác chặt chẽ giữa cá nhân, gia đình, xã hội và tôn giáo. Hôn nhân và gia đình là những định chế có liên quan mật thiết đến sự sống con người, nên luôn mang chiều kích tôn giáo và cần được tôn trọng và bảo vệ cách xứng hợp (x. Tông huấn về Gia Đình, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 45).

Anh Chị Em thân mến,

Ngày 04.04.1995, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã phong Chân Phước cho hai người mẹ ở Ý và ca ngợi họ là “mẫu mực cho sự hoàn hảo của Thiên Chúa”.

Bà Gianna Berretta Molla, một bác sĩ khoa nhi, chết vì bị ung thư năm 1962 vì đã chọn mang thai đứa con thứ tư cho đến lúc chào đời để cứu sống con, chứ không chấp nhận nạo phá thai.

Người kia là bà Elisabeth Mora, vẫn trung thành chung thủy với chồng, dù ông ta xử sự vũ phu và bỏ rơi vợ con.

Đức Thánh Cha đã ghi nhận “lòng trung thành hoàn toàn đối với lời thề hôn nhân giữa vô số những khó khăn của đời sống vợ chồng”. Phải chăng Vị Cha Chung của Giáo Hội đã muốn dành tặng những lời tôn vinh cao cả nầy cho tất cả những người làm mẹ, bởi vì người mẹ luôn đóng một vai trò quan trọng, quyết định trong việc xây đắp hạnh phúc gia đình và tương lai con cái. Người ta nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Người mẹ trao cho con sự sống và vốn sống từ trái tim mình.

Lạy Mẹ La Vang, hôm nay chúng con hành hương về bên Mẹ với tất cả tấm lòng yêu mến cậy trông.

Xin Mẹ cho chúng con hăng hái tiếp tục học hỏi để tái khám phá những giá trị cao cả của hôn nhân và gia đình.

Xin Mẹ thương giúp các bậc làm cha làm mẹ hôm nay đang đến với Mẹ tại Thánh Địa La Vang nầy, trên vai trĩu nặng gánh gia đình con cái.

Xin Mẹ giúp các bà mẹ chu toàn thiên chức làm mẹ, vì đó chính là con đường đã dẫn đưa Mẹ về trời. Xin thương giúp chúng con noi gương Mẹ và nhờ Mẹ, quyết tâm đón nhận tất cả, trả giá tất cả để phục vụ sự sống con người và bảo vệ hạnh phúc gia đình chúng con. Amen.

La Vang, 15.8.2003 Lễ Đức Mẹ Lên Trời Hồn Xác

+ Têphanô Nguyễn Như Thể, Tổng Giám Mục Huế

 

 

 

 

 

8. Đức Maria Lên Trời, Niềm Hy Vọng Của Chúng Ta

 

Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng Lễ Đức Maria vinh hiển hồn xác về trời. Từ sau tín điều Đức Maria hồn xác lên trời được Đức giáo hoàng Piô XII định tín ngày 1.11.1950, niềm vui mừng và hy vọng hướng về tương lai, hướng về cuộc sống mai sau của tất cả chúng ta lại có thêm cơ sở để tin tưởng và phó thác trong tình yêu Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá vì sao Đức Maria lại được Thiên Chúa ưu tuyển và ban muôn đặc ân tuyệt vời như thế.

Bước chân vội vã lên đường của Đức Maria đến miền sơn cước Giêrusalem – có lẽ là miền Ain Carim hiện nay, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía tây- thăm người chị họ không chỉ nhằm loan báo mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa hay chỉ hát lên bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa (bài ca Magnificat), nhưng đó còn là hình ảnh gợi nhớ điều mà Ngôn sứ Isaia loan báo ngày xưa về Đấng Thiên Sai sẽ đến. Thật vậy, trong bối cảnh thời đại Isaia, lúc Batư tiến đánh Babylon, Ngôn sứ Isaia cũng như nhiều người Dothái lưu đày khác đang ở Babylon. Chính trong hoàn cảnh ấy, ông ước mơ làm sao có thể chạy về Giêrusalem để báo tin rằng Thiên Chúa sắp giải phóng dân Người. Ong đã nhảy lên vui sướng và reo vang: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria với sự hiện diện của Ngôi Hai Thiên Chúa mà Mẹ đang cưu mang, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh mà khi xưa Isaia đã loan báo. Hơn thế nữa, đó còn là hình ảnh của Giáo hội “ra khơi” (Duc in altum) mang Chúa đến cho muôn dân.

Nhìn từ bên ngoài, chúng ta chỉ thấy được sự kiện hai bà mẹ gặp nhau, vui vẻ hàn huyên; thế nhưng, thực chất lại là sự gặp gỡ của hai hài nhi. Bằng chứng là với lời chào thăm của Đức Maria, hài nhi Gioan – mà đúng theo nguyên ngữ Hylạp- là đã “nhảy cẫng lên”, “nhảy tung lên” vui sướng. Như thế, hài nhi Gioan ngay từ khi còn trong lòng mẹ đã tiên báo về Đấng Cứu thế – Đấng mà mình sẽ là tiền hô sau này. Có điều chúng ta thấy, điều tiên báo đó không thực hiện bằng lời nói mà bằng ngôn ngữ của thân xác.

Bà Elisabét – qua Thánh Thần- đọc được ý nghĩa mà người con trong lòng bà “nhảy cẫng” lên cũng như ý nghĩa của cuộc gặp gỡ với Mẹ Thiên Chúa, bà đã thốt lên lời tụng ca ca ngợi Mẹ Maria như là người phụ nữ có phúc hơn hết mọi phụ nữ. Chúng ta thấy, lời tụng ca của bà Elisabét trước hết chịu ảnh hưởng của ca vịnh Debora trong Cựu ước. Đây là ca vịnh dùng để tụng ca bà Giaên, vợ ông Kheve người Kêni. Chúng ta biết, khi thủ lãnh Canaan là Xixơra chạy trốn vì thua trận, ông chạy vào lều bà Giaên. Bà đã dùng cọc để đóng vào tai Xixơra giết chết kẻ thù. Nhờ đó, bà được ca ngợi là người phụ nữ trổi vượt hơn muôn ngàn phụ nữ (x. Tl 5,24).

Mười thế kỷ sau, dân Thiên Chúa cũng hát bài ca đó để ca ngợi bà Giuđitha. Đứng trước tình cảnh bi đát mà dân Thiên Chúa sắp phải chịu là trao tất cả dân chúng và thành thánh vào tay quân Atsua, bà Giuđitha – một phụ nữ đạo đức và kính sợ Thiên Chúa- đã sẵn sàng ra đi vào hang ổ của kẻ thù. Với nhan sắc tuyệt mỹ, bà đã lọt vào doanh trại của quân Atsua và sau đó được gặp tướng Atsua là Hôlôphécnê để rồi dùng mưu chặt đầu tướng giặc mang vinh quang cho dân Israel. Bởi đó, Giuđitha cũng được ngợi ca là người phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (x. Gđt 8-13)

Như thế, khi bà Elisabét ca ngợi Đức Maria là người “được chúc phúc hơn hết mọi người phụ nữ”, thánh Luca muốn ám chỉ việc Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc của Người nơi Mẹ. Nơi Mẹ, không chỉ thay thế bà Giaên, bà Giuđitha mà Mẹ còn vượt xa họ về mọi phương diện, đặc biệt là vì dòng dõi Mẹ sẽ là dòng dõi “đạp nát đầu con rắn” vốn được xem là kẻ thù của dân Thiên Chúa (x. St 3,15).

Việc bà Elisabét được Thánh Thần soi sáng để nhận ra Đức Maria là “thân mẫu Thiên Chúa” không chỉ là nền tảng kinh thánh để đi đến tín điều Mẹ Thiên Chúa (Theolokos) vốn được công đồng Ephêxô tuyên tín vào ngày 22.6.431, mà theo Luca, đó còn là mối liên hệ giữa Đức Maria với Hòm bia Thiên Chúa. Thật vậy, nhìn vào trình thuật Truyền tin và Thăm viếng, chúng ta thấy có một sự tương đồng cách nào đó giữa Mẹ với Hòm bia Giao ước thời Vua Đavít. Nếu như trước kia, Hòm bia Giao ước luôn được đám mây che phủ thì nay Đức Maria được “Thánh Thần rợp bóng” khi cưu mang Con Thiên Chúa; ngày xưa Vua Đavít nhảy mừng khi gặp Hòm bia thì nay, chính Gioan cũng nhảy lên vui sướng khi gặp Mẹ viếng thăm; Hòm bia Giao ước được rước lên Giêsusalem để muôn dân chiêm ngưỡng và thờ lạy thì nay Đức Maria cũng băng rừng vượt suối để lên miền núi Giêrusalem để gia đình Dacaria tán tụng Thiên Chúa; và cuối cùng, ngày xưa, Hòm bia Giáo ước đã ở lại nhà của ông Ôvết Êđôm 3 tháng thì nay, Đức Maria cũng đã ở lại nhà ông Dacaria 3 tháng để phục vụ cho bà Elisabét (x. 2Sm 6,9-11).

Đức Maria là niềm tin và là mẫu gương cho hết mọi người chúng ta. Hành trình đức tin của Mẹ cũng chính là hành trình đức tin của chúng ta. Chúng ta học hỏi nơi Mẹ để có thể trở nên người có niềm tin vững vàng. Qua Mẹ, chúng ta sẽ tìm gặp được Thiên Chúa, sẽ được thấy Chúa Giêsu – người con yêu dấu của Mẹ. Nói như thánh Grignon de Monfort: “Nếu chúng ta kêu đến danh thánh Maria, thì tiếng vọng trả lời chúng ta sẽ là Đức Giêsu”. Thánh Don Bosco còn mạnh bạo hơn khi quả quyết với con cái của người về niềm tin tưởng phó thác trong tình yêu của Mẹ: “Hãy đến với Đức Maria, các con sẽ thấy phép lạ là gì”.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

 

 

 

 

 

9. Đức Maria: Địa Chỉ Trên Cao – Đgm. Vũ Duy Thống

 

Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.

Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.

1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin.

Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.

Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.

Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.

Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.

2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu.

Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?

Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.

Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.

Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.

3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời.

Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.

Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng?

Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.

Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn.

Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.

Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.

 

 

 

 

 

10. Suy Niệm Lời Chúa  Lm Giuse Đinh Lập Liễm

 

Các sách Phúc âm không nói gì đến việc Đức Mẹ lên trời, Hội thánh dựa theo Thánh truyền và lòng sùng kính của giáo dân qua bao thế kỷ mà xác tín về điều đó.  Theo Thánh truyền, sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Mẹ còn ở lại yên ủi và giúp đỡ các Tông đồ. Sau lễ Hiện xuống, tuy đã chia tay nhau đến các nơi giảng đạo, song các Tông đồ cũng thường có liên lạc với Đức Mẹ, và Đức Mẹ chia vui sẻ buồn với các ông, nhất là hằng cầu nguyện cho.

Lúc Đức Mẹ lên 64 tuổi (có người cho là 72 tuổi), Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày hội ngộ với Con trên thiên đàng đã gần đến, thì  Ngài đã cho thánh Gioan biết và nhắn cho các Tông đồ trở về. Nhận được tin, các Tông đồ vội vàng trở về Giêrusalem, và được gặp Đức Mẹ trước khi thở hơi cuối cùng, duy chỉ có ông Tôma chậm chạp không về kịp.

Tắt hơi đoạn, phòng để xác Đức Mẹ liền sáng và có mùi thơm tho lạ. Sau ba ngày kính viếng, các Tông đồ và bổn đạo Giêrusalem tẩm liệm và đưa táng trong một phần mộ khoét trong đá ở trong vườn Cây dầu.

Ông Tôma về muộn, muốn xem mặt Đức Mẹ lần cuối cùng, nể ông, các Tông đồ và giáo hữu đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ đâu cả.

Giáo hội tin rằng Đức Mẹ đã được Thiên Chúa rước về Thiên đàng cả hồn cả xác.  Nên từ thế kỷ thứ 6 Giáo hội đã mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời ngày 15 thánh 8 hàng năm và còn giữ mãi đến ngày nay. Trong suốt 20 thế kỷ, vấn đề Đức Mẹ hồn xác lên trời đã bỏ ngỏ cho các nhà thần học tranh luận.  Đến ngày 1.11.1950 Đức Giáo hoàng Piô XII với tông huấn Munificentissimus Deus mới định tín việc Đức Mẹ hồn xác lên trời: “Sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, vô nhiễm và trọn đời đồng trinh, đã được đưa lên  hưởng vinh quang Thiên đàng cả hồn lẫn xác”.

MỘT HỒNG ÂN CAO QÚI TUYỆT VỜI.

Được lên trời là một hồng ân Chúa ban cho chúng ta vì ta không có quyền đòi hỏi.  Được lên trời cả hồn cả xác như Đức Maria thì cả là một hồng ân vô tiền khoáng hậu.  Là loài người, chúng ta làm gì thường cũng có đủ lý do, phương chi là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu để suy nghĩ về lý do  mà Chúa ban cho Đức Mẹ được hồng ân cao qúi tuyệt vời này, nhưng không bao giờ chúng ta có thể hiểu thấu được lý do hành động của Chúa. Chúng ta chỉ có thể nói rằng Chúa ban cho ai là do lòng thương xót của Chúa.

Trong kinh ‘Ngợi khen” Đức Maria đã nói lên tâm tình đó: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ… vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại”.

Theo Đức Giáo hoàng Piô XII, một số các thánh và các nhà thần học cho rằng nguyên do chính của việc Đức Mẹ được  đặc ân hồn xác lên trời là do thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Đức đồng trinh trọn đời của Mẹ. Mẹ được lãnh nhận những hồng ân  thật trọng đại từ nơi Chúa, nhưng Mẹ không ngừng ở đó. Mẹ đã dùng cả cuộc đời dương thế của Mẹ sống sao cho phù hợp với những đặc ân Mẹ được lãnh nhận.

 Theo Thánh Kinh ai cũng phải công nhận rằng: Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu là Chúa Cứu thế (Lc 2,6,11) Chúa Cứu thế là chính Con Thiên Chúa và cũng là chính Thiên Chúa (Lc 1,35). Vậy để chọn Đức Maria làm Mẹ sinh ra mình, Thiên Chúa đã phải làm một phép lạ cho đến nay phải kể là duy nhất, là làm cho Đức Mẹ thụ thai sinh Con mà còn đồng trinh, thì tại sao Thiên Chúa lại không đưa linh hồn và xác Đức Mẹ  lên trời để một đàng xứng hợp với tình mẫu tử, đàng khác thưởng công cho Đấng đã sinh ra mình, mà đều răn thứ 4 chính Thiên Chúa đã ban hành là phải thảo kính cha mẹ (Đnl 5,16; Mt 19,19).

 Thánh Gioan Damascenô hạch hỏi một mình: “Đức Mẹ đồng trinh không vướng vít chút chi bụi trần dưới đất, cớ sao lại trả Người về đất”? Thánh nhân còn quả quyết: “Đức Mẹ chẳng chết như người thế gian, nhưng đã chết vì áp lực tình yêu – chết để về gặp gỡ Con cực thánh Người đang mong đợi”. Vậy nếu Đức Mẹ không lên trời, thì cuộc mong đợi ấy còn có nghĩa lý gì ?

(Lm Nguyễn duy Tôn,  Phụ trương Lời Chúa,t 1, tr 59-60)

Ngoài ra Đức Maria còn có nhiều nhân đức khác làm cho Thiên Chúa được vui lòng:

1. Nhân đức Khiêm nhường:

 Mẹ Maria luôn coi mình là con người nhỏ bé trước mặt Chúa, không dám nhận những đặc ân của Thiên Chúa ban. Khi sứ thần báo tin cho biết  là Thiên Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu thế, Mẹ đã từ chối không dám nhận. Nhưng sau khi hiểu biết được thánh ý của Thiên Chúa thì Mẹ đã thưa: “Này tôi là tớ nữ của Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.  Tuy biết mình đã là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, một chức vị lớn lao tuyệt vời, mà Ngài luôn kín đáo, không hé mở cho ai biết điều đó để cho mình được đón rước, cung phụng, chiều chuộng, kính nể… mà cứ âm thầm và đành để cho mình và Chúa Giêsu phải thiếu thốn, khinh dể, bị gạt ra ngoài.

2. Tin tưởng phó thác cho Chúa.

 Ngài còn là người biết tin tưởng phó thác cho Chúa một cách trọn vẹn.  Một cô gái đẹp chưa về nhà chồng mà đã có bầu, tự nhiên người chồng tương lai phát chán, và tụi thanh niên làm sao chẳng chế nhạo và có thể bị ném đá nữa.  Song Đức Mẹ chẳng nói ra, cũng không làm gì để ngăn ngừa sự dữ và tiếng tăm, cứ bình tĩnh, thản nhiên, phó thác mọi sự cho Chúa. Ở trong hoàn cảnh thế này mới biết Đức Mẹ nhân đức dường nào.

3. Hiền lành nhịn nhục.

Ngài cũng rất hiền lành và nhịn nhục. Khi Chúa Giêsu Con Mẹ bị người ta khinh bỉ,  hành hạ, Ngài không có nói gì hay là có thái độ nào như trách móc người thành Bêlem không cho trọ, chửi vua Hêrôđê toan giết Con, trách móc và nguyền rủa bọn quân dữ đánh đòn, đội mũ gai và đóng đinh Chúa.  Chắc chắn Ngài đau buồn khôn xiết kể, nhưng không có một cử chỉ nào nóng nảy, giận dữ hay nói năng quá lời như người ta bình thương.

Bài đọc 1 trong thánh lễ hôm nay, thánh Gioan tông đồ đã nhìn thấy cảnh huy hoàng  của một phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, trên đầu có 12 nôi sao sáng.Người phụ nữ ấy là ai ? Theo các thánh Giáo phụ và lòng tin của Giáo hội, người đó chính là Đức Maria được Chúa đưa về trời.

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 lại nói lên cho chúng ta môt lý do nữa: Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại là hoa quả đầu mùa. Đức Mẹ là người đầu tiên và xứng đáng nhất để được ơn cứu rỗi, thì Đức Mẹ cũng là người đầu tiên được hưởng sự vinh quang sống lại ấy.

ƯỚC MƠ CỦA CHÚNG TA.

Con người có khuynh hướng luôn vươn lên, vươn lên mãi, vươn tới chân, thiện, mỹ vì con người chưa bao giờ được thỏa mãn với những ước vọng đó.

Trước đây văn sĩ Jules Verne đã tưởng tượng ra những chiếc tầu bay trong vũ trụ đến những hành tinh xa lạ, làm cho trẻ con thích thú vô cùng. Với khoa học tân tiến ngày nay, những cảnh tưởng tượng như xa thực tế của Jules Verne đã được thực hiện.  Ngày 20.07.1969 phi thuyền Apollo 11 với phi hành gia Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins đã đặt chân lên mặt trăng. Một bước nhảy vọt trong chương trình thám hiểm vũ trụ.

Sau chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc có những cuộc du hành thường xuyên lên mặt trăng. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để được đặt chân lên một vệ tinh không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra không đáng làm.

 Nếu sau này người ta có thể thực hiện được những chuyền du ngoạn nguyệt cầu thường xuyên đi nữa, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn.  Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong thế giới vật chất này vẫn không phải là quê thật và chung cục của loài người. Chỉ có Thiên đàng hay Quê Trời mới là nơi  mà mọi khát vọng và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn hoàn toàn.

 Khát vọng của con người là# muốn vươn lên tới Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, hay nói theo kiểu chúng ta là Hạnh phúc Thiên đàng.  Nhưng có Thiên đàng thật không và ước mơ thiên đàng là chân thực  hay chỉ là ước mơ hão huyền ? Thưa, việc Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo hội long trọng mừng vào ngày 15 tháng 8 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ thiên đàng, là ước mơ chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi thâm sâu nhất của lòng người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Đức Maria và cũng sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng ta  được Chúa cho sống lại như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu phục sinh.

Chúng ta chỉ biết là có Thiên đàng, nơi quê hương vĩnh phúc của chúng ta: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau” (Kinh Tin kính), nhưng chúng ta không biết hạnh phúc thiên đàng thế nào, đến ngay việc thánh Phaolô đã được nâng đến tầng trời thứ chín mà cũng không có thể tả được.

Không như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra cho khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi  nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc Đức Mẹ lên trời được hiểu như thế thì việc lên trời của Đức Mẹ chẳng đáng ta ước mong, như lời của một bài tình ca nào đó:

Lên trời hai đứa hai nơi

Thôi em chỉ muốn làm người trần gian.

Có người hiểu thiên đàng hoàn toàn theo nghĩa vật chất, họ sẵn sàng ôm bom tự sát để rồi được lên thiên đàng, vì theo họ, thiên đàng là nơi có nhà cao cửca rộng, có vợ đẹp con khôn, có nhiều mỹ nữ kiều diễm và có đủ mọi thứ làm cho mình được sung sướng. Nhưng chúng ta phải có cái nhìn cao hơn: đặc ân Đức Mẹ được “lên trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác.  Mẹ được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế gian tự nhiên hữu hạn này để đi vào thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó Mẹ được hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình yêu và Hạnh phúc viên mãn của chính Chúa.

(Viết theo LM Phạm quốc Hưng)

Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn cả xác, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Nếu ngày xưa Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy đi dọn chỗ cho các con và sẽ trở lại đón nhận các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy” (Ga 14,2). Đó là lời Chúa phán với các môn đệ khi Ngài về trời, thì nay cũng là lời Đức Mẹ hứa với mỗi người chúng ta khi Ngài về trời.

Muốn được về trời cùng Mẹ, chúng ta cũng phải học đòi bắt chước Mẹ mà sống một đời lành thánh, trong sạch xác hồn để sau này cũng có cái chết tốt đẹm như Ngài.  Ta có thể ví đời người như một câu văn mà cái chết là dấu chấm hết tròn đầy:

 Có cái chết như một dấu phẩy (‘) tức tưởi không trọn vẹn.

 Có cái chết như một dấu chấm than (!) buồn hiu hắt.

 Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt.

 Có cái chết như dấu 3 chấm (…) còn bỏ ngỏ.

 Và có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.

cái chết của Đúc Mẹ chính là dấu chấm tròn. Còn cái chết của chúng ta sẽ là gì ?

(Lm Carôlô, Lễ trọng và lễ đặc biệt, tr  89)

KẾT LUẬN

Hôm nay chúng ta họp nhau mừng lễ để cảm tạ Chúa vì đã cho Mẹ chúng ta được hồn xác về trời, một hồng ân lớn lao chưa từng có và sẽ không bao giờ có. Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời là một niềm hân hoan, một nguồn hy vọng cho chúng ta. Mẹ lên trời, một ngày kia chúng ta cũng về trời. Chúng ta phải ăn ở làm sao để một ngày kia cũng được như Mẹ. Mẹ ở đâu, con ở đó, Mẹ nơi nào, con ở nơi ấy. Cuộc sống trần gian phải là con đường  đưa con người chúng ta về Thiên đàng.

Vì thế, trên ngôi mộ của Đức Mẹ ở Giêrusalem ngày nay du khách còn đọc được mấy dòng thi văn do một văn sĩ và điêu khắc thời Trung cổ để lại như sau:

Đây là thung lũng Josaphat,

Nơi con đường về Thiên cung xuất phát

Maria trong sạch được chôn cất nơi đây,

Nhưng cũng từ đây được đưa về trời.

Mẹ là nguồn hy vọng kẻ tù đầy,

Là đường hướng dẫn kẻ lòng ngay,

Là Ánh sáng, là Mẹ chúng con. Amen.

Ngày nay Đức Mẹ lên trời,

Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.

 Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Giáo xứ Kim Phát

 

 

home Mục lục Lưu trữ