Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1373565

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI(*) Chú giải của Noel Quession

Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê…

Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban… Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn toàn mới: Xêsarê!

Ngày nay, thành phố này không còn lạ gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ “tảng đá” dưới chân núi.

Người hỏi các món đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”

Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một câu hỏi về “căn tính” của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ.

Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì?

Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.

Dư luận của dân chúng khác nhau trong khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người bình thường?… ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ.

NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.

Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có một thái độ của bản thân.

Còn bạn, Huy Phương… Bạn, Duyên…. Bạn, Minh Hạnh… Bạn Hằng… Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu là ai?

Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”

Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V Tuy nhiên, người ta không có quyền “làm giảm nhẹ” lời tuyên xưng đức tin” của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên Chúa”, “ben Elohim”. Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel (Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 – 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).

Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là “một ngôn sứ” nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến… nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con… và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ thuộc về một mình Đức Giêsu.

Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”

“Phàm nhân”… từ ngữ rất lâu đời này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói… một công thức đẹp được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ nói: “Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều đó!”.

Để đạt đến những thực tại thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự “mạc khải”.

Trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: “Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa. Thần Khí sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra… Chúa là cùng đích của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào… Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?”

Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. “Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về “Thiên Chúa”: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên” (Gl 1,15-16).

“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh vừa nói!” Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố “thật có phúc” (đây là một mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.

Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”

Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô, đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.

Thật vậy từ “Tảng Đá” (tiếng Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời hứa này:

1/ Tảng đá: tượng trưng cho sự vững chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa…

2/ Giáo Hội: có nghĩa là “cộng đoàn”, được Thiên Chúa triệu tập.

3/ Những cánh cửa: tượng trưng cho sức mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại…

4/ Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền bính.

5/ ‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.

Những trích dẫn trong Kinh Thánh để khẳng định rằng Thiên Chúa là “Tảng Đá”. Chúng ta, chỉ cần trích dẫn: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 71,3). Chúng ta đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng một cách vững chắc như thế!

Từ “Giáo Hội” dịch chữ “Qahal” trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Cộng đoàn”, điều Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một “Cộng đoàn” những người đàn ông và đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu “lẻ loi”. Không thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.

Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…

Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình ảnh: “Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi”. Nếu chúng ta hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết… nhưng còn có khả năng tấn công vào “ngục tù của sự chết” để lôi con người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự tính điều đó: Một “cộng đoàn” những người sống lại với Người?

Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.

Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.

Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.

Ngày nay, người ta thấy có nhiều người sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không…”. Sau một thời kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những “cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành” mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan. Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.

 (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A

PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

*1) Phêrô tuyên xưng đức tin

Phải luôn lẩn tránh những địch thù quấy nhiễu Ngài, Đức Giêsu dẫn dắt môn đệ của Người đi vào một chỗ những cuộc tĩnh tâm liên tiếp. Nó đặt cột mốc -vừa về địa lý, vừa về tinh thần- trên chặng đường tìm hiểu căn tính thực của Ngài.

Vừa trải qua cuộc tranh luận với Biệt phái, những kẻ xin Người làm một dấu lạ, này đây Đức Giêsu và các môn đệ sang miền đất dân ngoại, phía nguồn sông Giođan. Césarée Philipphe là thành phố mới được xây dựng do kinh phí của hoàng tử Philipphe, con của vua Hêrôđê Cả, có ý tôn vinh hoàng đế Rôma, nên đã đặt tên là Césarée. C. Tassin chú giải: Dân ở đây là người Siri gốc Hy Lạp, họ thờ cúng thần Pan và thần Nymphe, tạo nên một khung cảnh gần giống với môi trường mà Matthêu đang sống (L’Evange le de Matthieu” (Centurion, trang 173).

Chính tại đây, trước khi khởi hành đi Giêrusalem trong cuộc hành trình cuối cùng mà Đức Giêsu đặt câu hỏi quan trọng mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay.

– Con Người- Đức Giêsu hỏi, người ta bảo Con Người là ai?

+ Chúa đã dùng hình ảnh “Con Người”, một hình ảnh mầu nhiệm (xem Danien 7,13) mà Matthêu nhắc lại tới 30 lần trong chính Tin Mừng của ông, để nói về chính mình và sứ mạng của Người: một con người thực thụ có tương quan với Thiên Chúa Đấng Cứu độ.

+ Để đáp lại câu hỏi, các môn đệ đã nêu ra một loạt các ý kiến về Người. Mọi ý kiến đều coi Người là một nhân vật đóng vai trò quan trọng, như là Gioan Tẩy Giả đã sống lại từ cõi kẻ chết, như ngôn sứ Êlia mà dân chúng trông đợi trở lại để loan báo Chúa Cứu thế đến, như ngôn sứ Giêrêmia, một vị ngôn sứ phản kháng vì bị phản kháng, như một ngôn sứ nào đó.

– Còn anh em, Đức Giêsu hỏi thẳng ý kiến các ông, anh em bảo Thầy là ai? – Simon Phêrô trả lời, tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lúc này ông không những là phát ngôn viên của nhóm môn đệ, nhưng còn là gương mẫu cho việc tuyên xưng đức tin Kitô hữu.

Lời đáp của Phêrô, theo C. Tassin, nhắc lại một mẩu tuyên tín phụng vụ của Hội Thánh thời Matthêu (sđd). Trong đó người Kitô hữu tuyên xưng đức tin cách toàn vẹn.

“Thầy là Đấng Messia” (tiếng Hy Lạp Christos) nghĩa là Đấng được xức dầu mà các ngôn sứ đã tiên báo; Đấng đáp ứng lòng mong đợi bao thế kỷ của Israel, Đấng thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa nói với dân Người.

“Con” nghĩa là Đấng liên kết với Thiên Chúa bằng một dây liên hệ có một không hai.

“Của Thiên Chúa hằng sống” nghĩa là, theo truyền thống Kinh Thánh, là Thiên Chúa ban sự sống, còn theo quan niệm Kitô giáo, là Thiên Chúa, Đấng làm cho Đức Giêsu từ trong cõi kẻ chết sống lại.

– “Con có phúc”, Đức Giêsu đã thốt lên câu đó, cũng là dạng thức Kinh Thánh của “Bát phúc” để chào mừng “con của Giona”, là người vừa nhìn nhận Người như “con của Thiên Chúa hằng sống”. Bởi vì Simon Phêrô không có thể công bố lời tuyên xưng này phát xuất từ thịt và máu, nghĩa là phát xuất từ bản tính nhân loại yếu giòn, nhưng chỉ có thể phát xuất từ cuộc mạc khải thần thiêng. “Bản văn không đề xuất cho Phêrô công lao đặc biệt nào, cũng không đề cao ông như một anh hùng của đức tin. Tác giả chỉ nhấn mạnh tính chính xác của đức tin nơi Phêrô, bởi vì nó đến từ một mạc khải thần thiêng” (C. Tassin).

*2) Sứ mạng “đá” nền tảng của Phêrô.

Những lời long trọng mà Đức Giêsu phán chỉ về Simon Phêrô chỉ có trong Tin Mừng Matthêu.

“Anh là đá, trên đá này…”.

+ Trong Kinh Thánh sự thay tên đổi họ thường chỉ rằng sứ mạng Thiên Chúa trao làm cho người nhận thành một người mới. Cũng như Abram, khi được đổi thành Abraham thì thấy mình được giao sứ mạng trở nên “tảng đá duy nhất”, từ đó phát xuất cả một dân tộc (Is 51,1-2).

+ Trong ngôn ngữ Aramê “Kê-pha” “Đá” không phải là một tên riêng, nhưng chỉ là một danh từ. Đặt cho ông cái tên mới này, nó sẽ thay thế hẳn tên cũ, Đức Giêsu tỏ cho thấy Người giao cho ông một sứ mạng: ông sẽ là đá nền, đá tảng, đá sẽ bảo đảm cho toà nhà mà Người sẽ xây dựng được vững chắc.

“Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”.

+ Trong Kinh Thánh, từ “Hội Thánh” (nguyên ngữ mang ý nghĩa mời dự hội) chỉ cộng đoàn tôn giáo của Israel, cộng đoàn mà Thiên Chúa đã quy tụ giữa loài người để trở thành dân của Giao ước, dân -dấu chỉ lòng thương xót và tình thương của Thiên Chúa-.

+ Từ ngữ này được dùng ở đây, lần đầu tiên trong Tin Mừng Matthêu, ở trên đất ngoại giáo, để chỉ cộng đồng những người mà Đức Giêsu quy tụ, giữa các dân tộc tràn qua mọi biên giới để làm nên một dân của Giao ước mới, dân -dấu chỉ ơn cứu độ cho mọi người-.

Nếu cộng đồng này đứng trên tảng đá Phêrô thì quyền lực của sự chết cũng không thể phá đổ được.

“Thầy ban cho con chìa khá Nước Trời”.

+ Không nên nghĩ đến những chiếc chìa khóa hiện đại thời chúng ta, mà phải nghĩ đến những chìa khóa của những thành phố cổ, những lâu đài vua chúa. Loại chìa khóa giống như những thanh sắt khổng lồ mà người ta mang trên vai. Trao chìa khóa cho ai là trao cho người đó nhiệm vụ thủ tướng.

+ Trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, Đức Giêsu làm cho Phêrô thành thủ tướng. Người trao cho ông quyền lực chính Người nắm giữ, như sách Khải Huyền diễn tả: “Đấng Chân Thật, Đấng Thánh, Đấng giữ chìa khóa của Đavit. Người mở ra thì không ai đóng lại được. Người đóng lại thì không ai mở ra được” (đoạn văn có liên quan với 22 trong bài đọc I).

Chức vụ trao cho ông ở đây là ở dưới đất; ông không phải người canh giữ cửa thiên đàng (C.Tassin): Phêrô là người bảo lãnh, là thông dịch viên của sứ điệp cứu rỗi của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.

“Sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”.

‘Cầm buộc’, ‘Cởi mở’ là những thuật ngữ vùng Palestine chỉ ý nghĩa đại khái: toàn bộ quyền lực, như thiết lập luật pháp, như loại trừ một ai ra khỏi cộng đoàn hoặc cho phép một ai gia nhập cộng đoàn.

+ Trong Mt 18,18 quyền cầm buộc cởi mở được hứa ban cho các môn đệ (ở số nhiều) như vậy không chỉ dành riêng cho Phêrô, nhưng Phêrô chia sẻ quyền đó với những người phụ trách khác.

* Dặn dò giữ im lặng

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kết thúc bằng một lời khuyến dụ ngược đời: “đừng nói với ai Người là Đấng Messia”. Tại sao có lời khuyến cáo này sau cuộc tuyên xưng đức tin cảm động như vậy? Chắc hẳn danh xưng “Messia” còn mang ý nghĩa mơ hồ, còn mang nhiều trông đợi có tính dân tộc quá khích, đi ngược lại sứ mạng mà Người nhận được từ Chúa Cha – phản ứng của Phêrô mà ta sẽ đọc trong Chúa nhật tới minh chứng điều đó.

Chỉ những ai mở tâm hồn đón nhận mạc khải thập giá mới hiểu chính xác danh xưng ấy. Thật vậy, chỉ dưới ánh sáng của cuộc Khổ nạn – Phục sinh, danh xưng Messia mới tìm thấy ý nghĩa đích thực, và mọi ngộ nhận sẽ vĩnh viễn bị dẹp tan.

BÀI ĐỌC THÊM:

*1) “Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mgr. Daloz, trong cuốn “Le règne de Dieu est approché” Desclée de Brouwer 1993, trang 237-238).

“Đức Giêsu không chỉ là một tôn sư khởi xướng một trào lưu tâm linh; Người không phải một ngôn sứ được sai đến để cảnh tỉnh hoặc kêu gọi người ta trưởng thành với giao ước. Sự nhận biết Đức Giêsu vượt quá điều đó. Với những kẻ Chúa gọi và đã đi theo Người, Chúa đặt câu hỏi: Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai? Người cũng hỏi chúng ta câu đó. Người muốn chúng ta tiến tới, phát huy trong việc khám phá ra bản ngã đích thực của Người. Ta không thể tự thoả mãn khoác cho Người những mong ước của ta, hoặc phóng lên Người những ước vọng của ta. Cần phải đi xa hơn những ý kiến của những con người, cần lột bỏ những ấn tượng hời hợt, cần chấp nhận rằng không thể nắm bắt và không thể tóm gọn Người vào những ý tưởng và những ước muốn của ta. Như ta đã thấy đó, có một hiểu biết về Đức Giêsu theo cách loài người “Người ta bảo Thầy là ai?”. Từ thời Thượng cổ, trải qua giai đoạn lịch sử đã có rất nhiều câu giải đáp. Những giải đáp ấy vừa không vô nghĩa, vừa không đáng coi thường. Nhưng sự hiểu biết đích thực không chỉ của loài người đâu – Nó là do Thiên Chúa ban cho: “Không ai có thể biết Chúa Con chỉ trừ Chúa Cha” (11,27). Bởi vậy Đức Giêsu nói cho Phêrô biết do đâu ông có sức lực nhận biết và tuyên xưng đức tin của ông: “Simon con Giona, phúc cho con, vì không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con điều đó, nhưng là chính Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Một con người, con người rặt, chính miệng Simon con ông Giona, nhận quyền do Thiên Chúa; quyền kêu đích danh xác thật của Đức Giêsu – Lời tuyên xưng của ông đã trở thành tiêu chuẩn cho các môn đệ Chúa mọi thời đại. Nhưng lời tuyên xưng nó đã không tránh cho ông chối Chúa 3 lần. Ông vẫn còn là con người phàm tục – còn mang tính người với những ưu và khuyết điểm của con người. Tuy nhiên ông được chọn để đáp câu hỏi của Đức Giêsu và để làm điều đó ông nhận được mạc khải do Chúa Cha ban – Từ đó ông trở nên tiêu chuẩn về sự chính xác cho mọi lời tuyên xưng đức tin và cho sự nhận biết chính xác về Thiên Chúa. Nhờ ông mà người tín hữu có thể vượt xa ngoài tầm vóc những lời người ta dư luận. Đức tin của ông nâng đỡ đức tin của chúng ta”.

*2) “Con là Đá” (J.Potin trong cuốn “Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, 1994, trang 322).

Hội Thánh của Đức Giêsu, ở đây Người kêu là “Hội Thánh của Người”, được xây dựng trên nền tảng là đức tin vào thiên tính của Người. Hội Thánh đó chỉ một mảng dân Israel chấp nhận đi vào giao ước mới. Simon, do việc tuyên xưng, đã trở nên viên đá tảng, trên đó Đức Giêsu xây “Hội Thánh của Người” bởi vì Hội Thánh đó là cộng đoàn những kẻ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ông nhận được tên mới: Kêpha, Đá – Quyền lực của tử thần (dịch theo chữ: quyền lực hoả ngục), nghĩa là mọi thế lực nhằm chống lại sự thiết lập vương quốc, không có sức phá đổ Hội Thánh đó. Mà ngược lại, Đức Giêsu sẽ ban cho Hội Thánh của Người quyền và thế mà Ngài thi hành ở trong tay Người. Thiên Chúa công nhận Hội Thánh của Con của Người chính thức là dụng cụ đặc trưng để điều hành vương quốc của Người giữa loài người. Những phát quyết và nghị định của Hội Thánh này được Thiên Chúa công nhận là do Chúa ban hành.

Phải chăng Đức Giêsu phán những lời này trong khi đi đường lên Giêrusalem? Có nhiều nhà chú giải đặt những lời này sau biến cố Phục sinh, trong một cuộc hiện ra. Thật vậy, trước khi Chúa chết, từ “Hội Thánh chỉ thấy xuất hiện có một lần duy nhất ở Mt 18,17 nói về đời sống của cộng đồng Kitô hữu.

Lời tuyên bố với Phêrô xem ra diễn tả cách Hội Thánh sơ khai hiểu về chính mình: Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Simon Phêrô đã là phát ngôn viên của lời tuyên xưng. Lời tuyên bố cũng có liên hệ với việc đổi tên Simon ra Kêpha: Đá. Trong tiếng Aramê, Đá không phải là một tên riêng. Tên mới này chí tính cách vững bền của đá tảng mà người ta có thể xây an tâm trên đó… Phêrô là đá tảng mà Đức Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người. Do đó Người sẽ trao ông địa vị ưu tiên trên nhóm Mười Hai. Ông được Hội Thánh nhìn nhận dưới cái tên mới và coi như quên hẳn cái tên cũ kia”.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A

TRAO BAN QUYỀN LÃNH ĐẠO(*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này có thể được gọi là trao ban quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

Is 22: 19-23

Bản văn I-sai-a gợi lên lễ tấn phong “tổng giám quản hoàng cung” của vương quốc Giu-đa, viên quan nầy sẽ thực hiện quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

Rm 11: 33-36

Trong đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Rô-ma, bài thánh thi ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa kết thúc phần đạo lý của thư gởi tín hữu Rô-ma.

Mt 16: 13-20

Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su trao quyền lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)

Bài Đọc I hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan nầy quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a đề cập đến chắc chắn được định vị vào cuối thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của đạo quân Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa.

Chính Thiên Chúa truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” vào lúc đó mà trao cho ông En-gia-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài.

“Đức Chúa phán: ‘Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ,

Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.

Ngày ấy Ta sẽ gọi tôi tớ Ta

là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu’”.

Câu chuyện nầy có hai đặc trưng:

-Mô tả lễ tấn phong.

-Hậu cảnh Mê-si-a.

*1.Mô tả lễ tấn phong:

“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó;

cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y;

quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó”

Xem ra vị quyền cao chức trọng nầy mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định địa vị và quyền hành của ông.

“Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”. Chắc chắn, ở đây, muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình.

“Chìa khóa nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày vua đăng quang. Chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền lãnh đạo của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích thiên sai.

*2.Hậu cảnh thiên sai:

Phần cuối bài thơ được giải thích trong ánh sáng thiên sai:

“Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai nó.

Nó mở ra thì không ai đóng được,

nó đóng lại thì không ai mở được.

Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột,

nó sẽ làm nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó”

Những biểu thức nầy được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một vị hoàng tử. Nhưng nếu như phải chăng đây thật sự là một vị “hoàng tử của vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích đấng giữ “chìa khóa nhà Đa-vít” theo nghĩa Mê-si-a. Quả thật, sách Khải Huyền đã giải thích bản văn theo truyền thống nầy, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Tiếp theo sách Khải Huyền, các Giáo Phụ đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh Mê-si-a nầy.

BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)

Bài thánh thi nầy tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma.

*1.Ơn Cứu Độ cho người Do thái:

Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định nầy đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: việc dân Ít-ra-en bất phục tùng lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, kế hoạch dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.

*2.Niềm cảm tạ tri ân:

Từ đó, làm thế nào không cất lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi được chứ? Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phao-lô diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình. Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị âm vang trong tâm trí của thánh nhân:

“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi?

Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13).

Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa:

“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,

quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!

Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,

tính chung lại, ôi nhiều vô kể.” (Tv 139: 6, 17).

*3.Lời chúc tụng:

Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca nầy với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men”. Câu “Vinh  Tụng Ca” nầy với những thuật ngữ riêng chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xu‎yết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca nầy cũng có thể được kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi gợi hứng cho thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)

Vì các Biệt phái và Kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực, và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tỉnh để được sống riêng tư mật thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền cai trị của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị mực thước và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp nầy đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gu-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố nầy được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp-phê”.

Trong lãnh địa nầy, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình nầy, Ngài bắt chuyện với các ông. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện nầy vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.

*1.Thăm dò dư luận.

Trước khi đề cập chi tiết cuộc chuyện trò giữa Thầy và trò, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện đã xảy ra trước đó ngõ hầu hiểu rõ tầm quan trọng lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ở đây. Sự kiện thứ nhất được thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6: 67-69).

Sự kiện thứ hai đặc biệt chỉ dành riêng cho các môn đệ thân tính của Ngài khi Ngài đi trên mặt biển và dẹp yên phong ba bảo tố. Trong sự kiện này, thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và lao mình xuống mặt biển sóng to gió lớn để gặp Ngài. Sau cùng, tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33).

Liệu đức tin mà các ông tuyên xưng trong những giây phút cảm kích này còn động lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Đức Giê-su sắp dò xét tâm tư tình cảm của họ. Nhưng trước tiên, Ngài thăm dò tâm tư tình cảm của đám đông dân chúng đối với Ngài, vừa để tạo cơ hội cho các ông trả lời cách chân thật cho câu hỏi thiết yếu của Ngài, đồng thời giúp các môn đệ hiểu biết sâu xa hơn đức tin của họ phải thoát khỏi thế kềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào.

Kẻ thì nói Ngài là ông Gio-an Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc nhớ tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ông Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin nầy dựa trên Ml 4: 5: “Đây Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Ta đến, ngày vĩ đại và kinh hoàng.” Có người lại cho Ngài là ông   Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất trong ba thánh ký nhất lãm nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện nầy (x. Mt 16: 14; Mc 8: 28: Lc 9: 19). 2Mcb 15: 13-16 chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (Xh 32: 11).

*2.Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô.

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Đây mới thật sự là câu hỏi cốt yếu Đức Giê-su nhắm đến trong cuộc trò chuyện thân mật này. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, nhân danh các bạn thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là danh xưng phiên âm từ Hy-ngữ: “Christos” xuất xứ từ nguyên ngữ Híp-ri: “Mesiah” có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là cách nói tiêu biểu Cựu Ước, nhắc nhở rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng bất động của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng nầy, thánh Phê-rô nhận ra vừa “tước vị Mê-si-a” vừa “tử hệ thần linh” của Đức Giê-su: Ngài không đơn giản chỉ là một con người được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Mê-si-a có nguồn gốc thần linh.

Đức Giê-su tán dương đức tin nầy và ơn linh ứng siêu nhiên mà thánh Phê-rô đón nhận: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói: “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu hèn của kiếp người. Như vậy, việc thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đức Ki tô, Con Thiên Chúa hằng sống không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải.

Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được Đức Giê-su xác nhận. Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài. Vài ngày sau đó, Ngài sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự vào biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp-phê.

*3.Tấn phong thánh Phê-rô:

Phần cuối của câu chuyện nầy, được gọi là việc tấn phong Phê-rô, chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội. Khoa chú giải Công Giáo giải thích cuộc tấn phong của thánh Phê-rô có hiệu lực không chỉ riêng đối với vị lãnh đạo của các Tông Đồ, nhưng còn đối với những người kế vị thánh nhân: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Képha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Képha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng. Khi nâng danh từ “képha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Képha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên ông từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên của một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy và trao quan cho người ấy một sứ mạng mới, như vậy, một con người  mới và một vận mệnh mới: Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay của Giáo Hội Ngài.

Khi tuyên bố: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”, Đức Giê-su khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.

“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”: Hình ảnh nầy chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao phó cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng gia, ông có nhiệm vụ coi sóc và điều hành dinh thự hoàng gia. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và điều hành Giáo Hội của Đức Kitô.

 “Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”: “Ngăn cấm” và “cho phép” được dịch theo sát từ là “buộc” và “tháo”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” khi áp dụng chúng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.

*4.Ba truyền thống Tin Mừng về quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô:

Ba bản văn Tin Mừng thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô dựa trên lòng tin, niềm hy vọng và lòng mến của thánh Phê-rô:

1-Bản văn của thánh Mát-thêu mà chúng ta vừa mới đọc nhấn mạnh lòng tin, trong đó, Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô: “Anh là Đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy…”căn cứ trên lời tuyên xưng đức tin của thánh nhân: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15).

2-Bản văn của thánh Lu-ca nêu bật niềm hy vọng, trong đó Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô trước khi bước vào con đường thương khó, khi căn dặn với chỉ một mình thánh nhân cách long trọng: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 31-32). Qua lời này, Đức Giê-su nhắc nhở thánh nhân không bao giờ được mất đi niềm hy vọng ở nơi mình, nhưng còn phải là động lực khơi lên niềm hy vọng của anh em mình.

3-Bản văn của thánh Gioan thắp sáng lòng mến, trong đó Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền lãnh đạo của Phê-rô trên toàn thể Giáo Hội của Ngài: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21: 15, 16, 17) dựa trên ba lần lời cam kết tràn đầy lòng mến của thánh Phê-rô đối với Ngài: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21: 15-17).

Cả ba truyền thống: đức tin, đức cậy và đức mến, bổ túc cho nhau hội đủ ba đức tính của nhà lãnh đạo Giáo Hội. Đó cũng là nền tảng vững chắc của toàn thể Giáo Hội Đức Giê-su Ki-tô mà không thế lực trần thế nào có thể làm lay chuyển được.

home Mục lục Lưu trữ