Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 80

Tổng truy cập: 1364716

CHÍNH LÀ KẺ ĐÃ THỰC THI

CHÍNH LÀ KẺ ĐÃ THỰC THI(*)- Chú giải của Noel Quession

Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người Pha-ri-sêu tin có đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những người Sa-đu-xê-ô không tin chuyện đó.

Ngày nay, những người ở xung quanh chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó. Vậy, điều này không có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định thì vấn đề đời sống vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con người có thể tự đặt ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo hiểm. Pascal đã thử đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với “sự đánh cuộc của Pascal” (Tư tường 343): “Thiên Chúa hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nhưng chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi. Điều này không cố ý bạn đã bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn “Thiên Chúa hiện hữu”, nếu bạn thắng, bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả. Vậy bạn hãy đánh cuộc Người hiện hữu không chút ngần ngại… Ở đây bạn được một cuộc sống vô cùng với hạnh phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con số hữu hạn, những khả năng mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn. Điều này loại bỏ hết mọi do dự… “

Thực vậy, hai giả thuyết (Thiên Chúa hiện hữu… Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một trọng lượng. Nếu chúng ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn lựa giữa “mặt sấp” và “mặt ngửa”: một cơ may trên một con số giới hạn các ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy ra (tất cả… hoặc không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào mà không ngần ngại chọn lựa, “Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện sự chọn lựa ấy? bạn sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một người bạn chân thành, trung thực.

Thực ra, bạn sẽ không sống trong những lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui; nhưng bạn sẽ không có những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn sẽ thu được những điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực hiện trên con đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư vô của điều mà bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho một điều chắc chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy”.

Mọi thời đại và trong mọi nền văn minh, con người đều hy vọng vào “một đời sau”. Đức Giêsu thường nói về nó. Người cũng nói rằng “đời sống vĩnh cửu” ấy đã được bắt đầu. Đối với những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa hoàn thành, dĩ nhiên rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có nó? Đó là câu hỏi của người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.

Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn người và người thân cận như chính mình” Đức Giêsu bảo ông ta: “ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

Trước hết, người thông Luật đọc lại kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma, trích ra từ sách Đệ Nhị Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày nhiều lần. Nhưng Người thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.

Để được sự sống đời đời, phải yêu thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm thấy trong hai Tin Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22, 34-40; Máccô 12, 28-31). Nhưng chính Lu ca không còn phân biệt một giới răn “thứ nhất” và một giới răn “thứ hai” lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người thân cận không thể tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế không?

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: “Nhưng ai là người nhân cận của tôi?”

Cho tới lúc này, chúng ta chưa thấy có gì độc đáo.

Giáo huấn của Đức Giêsu không khác Luật của Cựu Ước… và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.

Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho câu hỏi: “Ai là người thân của của tôi?” sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả “kẻ thù” mình.

Đức Giêsu đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi…

Một “thầy tư tế”, một “thầy Lê vi”! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai chuyên viên về sự thờ phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ mỉ Luật và các nghi thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ về việc không nên làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có một thái độ hoàn toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không phải của Kitô giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh “không giúp đỡ người đang gặp nguy hiểm”. Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và Luật Do Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được “sờ vào máu” để được ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ tại Đền thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ không muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.

Bằng việc cố ý chọn lựa hai ví dụ đó, Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng của Kinh Thánh (Ô-sê 6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không tôn trọng Luật phụng tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình yêu thương huynh đệ (Mát-thêu 9,13- 12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa. Thiên Chúa gắn cho sự “thực hành” bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền thờ nếu trước tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!

Tôi có là một Người “hành đạo” chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa nào?

Tôi có “thực hành” bác ái, có quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác không?

Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác?

Luca là thánh sử duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng nhân hậu, thương xót, của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.

Các bạn hãy đọc lại sáu hành động của lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của Thiên Chúa, đây sự thờ phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới sẽ biến đổi lịch sử cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.

Và đó là một “Người Sa-ma-ri”! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của những Người Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét không chịu “thực hành” tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao giờ đặt chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài ngày, Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức Giêsu lại lấy một người như thế để làm gương!

“Ông chạnh lòng thương xót… ” “esplanchnisthè” Động từ tiếng Hy-lạp này chứa đựng một hình ảnh: “Splanchna” chính là “ruột gan, bộ lòng”. Vậy phải dịch là: “ông xúc động đến ruột gan”. Và từ ấy trong tiếng Do Thái hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng mang cùng một ý nghĩa: “Rahamim” cũng chỉ “ruột gan”, “lòng mẹ”, “tấm lòng”, “sự dịu dàng”, “lòng tốt”, “lòng trắc ẩn sâu xa”. Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ “chạnh lòng thương” chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước những đám đông khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).

Các Giáo phụ, vốn gắn với những phương thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ ngôn này bằng cách áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng thế, trước tiên không phải là một sách bàn về đạo đức những là sự “công bố”, sự “mạc khải” về tình yêu thương của Thiên Chúa: người Sa-ma-ri tốt lành, trước hết chính là Đức Giêsu… người đi đường bị thương gần chết, chính là nhân loại bị sự ác quất ngã… quán trọ, chính là Giáo Hội nơi Đức Giêsu đưa con người đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng tuyệt diệu này thành một bài học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng này nói với chúng ta “Thiên Chúa làm điều gì cho con người”. Người không ngừng “sinh ra” con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”, thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ hiền của Thiên Chúa, và chúng ta, đối với người “thân cận” của mình chúng ta phải chia sẻ lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên không phải là một “khoa đạo đức” điều đó không có nghĩa là Tin Mừng không chứa đựng những yêu sách đạo đức… vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi nguyên tắc.

Hãy yêu thương! phải, bạn hãy yêu thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là “sự thờ phụng” thật. Tại sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu, và ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!” (1 Gioan 4,8). Hỡi thầy tư tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên Chúa không thích lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp mặt Người thân cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. “Bạn có yêu không? Bạn có yêu thương tôi không?” Và không chỉ bằng lời chứ?

Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay lũ cướp?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” Đức Giêsu bảo ông ta: “ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.

Đức Giêsu lật ngược hoàn toàn ý niệm về người thân cận. Người thông luật đã hỏi: “Ai là người thân cận của tôi? (theo nghĩa thụ động)… trong ý nghĩa này, chính ” những người khác” là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông: “Bạn tỏ ra mình là người thân cận của ai?” (theo nghĩa chủ động)… trong nghĩa này, chính chúng ta phải là người thân cận” của những người khác, hoặc là không. Người, “thân cận”, nghịch lý siêu phàm của Đức Giêsu, lại chính là “tôi” khi tôi đến gần những người khác với lòng yêu thương Người tạ không c.ăn tự hỏi “ai” là người thân cận của tôi… nhưng “tôi” sẽ là người thân cận của mọi người, không phân biệt như thế nào?..ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN – C

TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Một giới luật yêu thương

Đức Giêsu đã lên đường đi Giêrusalem, nơi Người sẽ tự ý dâng hiến mạng sống vì yêu anh em mình. Lúc đó có môt người thông luật đặt câu hỏi này để thử Người: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? “. Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: “Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? “. Giống như một cậu học sinh trả lời cho “người mà ông ta muốn thử tầm hiểu biết và tính chính thống về đạo lý, vị thông luật bắt đầu trích dẫn lệnh truyền của sách Đệ Nhị Luật 6,4, mà mọi người Do Thái đạo đức đọc mỗi ngày hai lần trong kinh Shema: “ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi”. Và ông liền đọc tiếp Luật của sách Lêvi 19,l8: “Và người thân cận như chính mình “. Trích dẫn câu Kinh Thánh ấy hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Người vừa “khen ngợi câu trả lời, lại vừa khuyên nhủ vị thông luật hãy thực thi giới luật yêu thương theo hai chiều kích ấy. “Làm” như vậy sẽ cho phép ông nhận được “sự sống đời đời ” làm gia nghiệp, điều ông đã thắc mắc qua câu hỏi ban đầu.

  1. Để đem ra thực hành

” Cuộc đối thoại ngay sau đó được chuyển sang một câu hỏi mới của vị thông luật, “muốn chứng tỏ mình là người công chính “: “Những ai là người thân cận của tôi? “. Ta càng hiểu rõ hơn tại sao có câu hỏi đó, nếu ta biết rằng có một vài khoản trong Lề Luật tương phản với nhau; trong một vài trường hợp – như phần tiếp theo của bản văn Tin Mừng sẽ cho thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu người thân cận xem ra loại trừ nhau.

Đức Giêsu tránh trả lời trực tiếp, để khỏi sa vào cái “mớ bòng bong ” của khoa giải các nố luật. Người nêu ra cho nhà thông luật ấy một dụ ngôn… mở ra cho giới luật yêu thương tha nhân một lãnh vực không giới hạn.

Sự kiện xảy ra trên quãng đường dốc rất thuận lợi cho đạo tặc phục kích; con đường sa mạc (dài 25 cây số) từ Giêrusalem đến Giêricô là nơi thấp hơn kinh đô đến 1090 mét.

Ngoài tên đạo tặc và người chủ quán, ba nhân vật hết sức điển hình là một “thầy tư tế’, rồi một “thầy Lêvi “. Cả hai là khách qua đường, sau cùng là “người Samaria “. Cả ba người đều bất ngờ gặp “người bị kẻ cướp trấn lột đánh nhừ tử, rồi bỏ lại nửa sống nữa chết ở bên đường”; ta không biết thân thế trong đạo ngoài đời của người đó ra sao. Lối hành văn theo một khuôn mẫu định sẵn của dụ ngôn càng làm nổi bật nét giống nhau và khác nhau trong cách xử sự của các nhân vật.

– Người đầu tiên đi trên đường này là một “thầy tư tế”, người của phụng tự, người của Đền Thờ. Ông trông thấy kẻ bị thương, nhưng ông cũng nhớ đến lệnh cấm trong sách Dân Số 19, 11 – 13, 16: “Ai chạm vào xác chết… vào một người bị ám sát…một người chết, sẽ mắc dơ trong cả ngày, ông quên mất lời Chúa trong sách ngôn sứ Ôsê 6,6: ” Ta muốn lòng nhân từ chứ.không muốn hy lễ “. Ông “tránh qua bên kia mà đi “.

– Sau đó tình cờ có thầy Lêvi, một nhân vật tượng trưng cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, ông “cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi “, chắc hẳn cũng vì những lý do vừa nói.

– Sau cùng, “một người Samaria đi đường ” cũng tới chỗ ấy H. Cousin nêu rõ: “Người này là một người lạc giáo, chỉ cộng nhận bộ Luật viết, là Ngũ Kinh, mà phi bác Luật truyền khẩu. Dưới con mắt của vị thông luật, hẳn đó là người hoàn toàn đối chọi với hai vị tôi tớ đáng kính của Đền Thờ.” (“L’evangile de Luc”, Centurion, tr. 158).

“Vậy trong khi hai vị kia tránh xa người mà họ coi như một xác chết, và có thể khiến họ thành ra dơ, thì người Samaria “chạnh lòng thương ” – giống như chính Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của bà goá Naim ở 7,13 – khi thấy bà đau khổ. Trong khi hai vị giáo sĩ kia, vì tôn trọng luật về thanh tẩy đã tách rời lòng mến Thiên Chúa với lòng yêu tha nhân, và… đã tránh qua bên kia đường, thì người Samaria lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc “. Bằng hành động, ông đã chứng tỏ, ông hiểu rõ ý Thiên Chúa mà ngôn sứ Ôsê đã diễn tả, hơn những vị đại diện Do Thái giáo chính thống kia nhiều.

  1. Meynet còn lưu ý thêm: “Không ai là người ngoại” trong số ba ứng viên cứu nạn kia, nhưng cả ba đều có đạo và tuân giữ luật. Nhưng thầy tư tế, và thầy Lêvi đứng về phía quân cướp…; vì cũng như bọn đó, các ông bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết, các ông còn mang tội không cứu giúp người bị nạn. Còn người Samaria, là quân lạc đạo bị người Do Thái khinh miệt và khai trừ, thì lại yêu người bị thương như chính mình: ông hy sinh bản thân, hy sinh vật cỡi, hy sinh tiền bạc ” (“L’Evangile de Luc. ánalyse rhétorique”, cuốn 2, trg 126).
  2. Trở nên người thân cận với bất cứ ai gặp nạn.

Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đổi ngược lại câu hỏi, mà vị thông luật đã đặt ra hồi nảy: “Vậy ai là người thân cận của tôi?”. Đức Giêsu hỏi lại ông ta: “Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? “

Không do dự, vị tiến sĩ luật đáp rất chính xác: ” Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy “. Như vậy, theo ông, không cần biết ai là người thân cận của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách nào để trở nên người thân cận, người gần gũi với bất cứ ai đang cần giúp đỡ. H. Cousin giải thích: “Hỏi ai là người thân cận của mình, vị thông luật tự đặt mình làm trung tâm thế giới, và nhìn mọi người như những vệ tinh quay chung quanh mình. Đức Giêsu đảo ngược vấn đề. Người thân cận là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải người hưởng thụ lòng xót thương”.

– Đến lúc này, Đức Giêsu chỉ cần kêu mời người đối thoại, hãy chứng tỏ tình thương huynh đệ nhưng-không, vô vị lợi, thực tế, giống như người Samaria lạc đạo ” ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy! “

Chúa nhật XIII, chúng ta đã theo chân Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Hôm nay, chúng ta hiểu rằng con đường lên Giêrusalem phải qua tình thương huynh đệ, là luật vượt trên mọi luật.

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Hãy là người thân cận của mọi người.

Mọi người đều biết dụ ngôn người Samaria cho ta chứng kiến một sự đảo ngược. Câu hỏi được đặt ra lúc đầu là: “Ai là người thân cận của tôi? ” Cuối cùng lại trở thành “Ai đã là người thân cân với kẻ bị rơi vào tay bọn cướp? “.

Sự đảo ngược này mang đầy ý nghĩa và nhiều đòi buộc mới mẻ. Thật vậy, chỉ định trước ai, là đối tượng của lòng xót thương nơi ta, thiết tưởng là thuận tiện hơn đấy. Hãy để ý xem sinh tử sở hữu: “của tôi ” (thân cận của tôi) được đặt ở chỗ nào. Người ta đã chỉ trích khá nhiều công việc từ thiện của một vài mệnh phụ, chuyên làm việc từ thiện, các bà ấy có khách hàng của các bà (xin tạm gọi vậy). Người thân cận không phải’ một khách hàng, cũng không phải cơ hội để ta thực hành nhân đức. Người thân cận là người cải hoá ta, người bắt ta trở về với mình để kiến tạo ta nên một người thực sự gần gũi.

Trở nên gần gũi không dễ dàng đâu. Cần phải có trái tim, nếu không sẽ trở thành giả tạo. Cũng cần phải có sự sáng suốt và nhất là sự tế nhị cao độ đến nỗi có thể cho đó là một chút nhẹ dạ. Điều đẹp đẽ nhất trong cử chỉ của người Samaria là tính vô-vị-lợi của ông; ông không màng tới một lời cám ơn.

Có những người khiến người khác phải mang nặng quyền lực của họ. Nhưng kẻ đặt trên vai người khác gánh nặng bác ái từ thiện của họ, thiết tưởng còn trầm trọng hơn. Chỉ có bác thật sự khi nó giải thoát, khi nó khiến tôi trở nên người gần gũi, nên người anh em vì vốn chẳng ai mắc nợ ai điều gì. Hoàn toàn nhưng không.

  1. Được mời gọi “hãy làm như vậy”, cùng với vị thông luật.

Sao lại trách cứ vị tư tế thánh thiện và vị “phó tế” nhiệt thành này? Họ là những người có trách nhiệm phục vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết mọi sự. Hai người tôi tớ trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong sạch theo luật định, bởi vì “ai chạm vào xác chết (…), hoặc một người bị ám sát, một người chết (….) sẽ mắc dơ trong 7 ngày ” (Ds 19, 11-13. 16)… Trong trường hợp đó vị tư tế hoặc thầy Lêvi không được làm việc phượng tự.

Những người giữ luật như vậy lầm rồi. Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng tôn kính Thiên Chúa, họ lại xúc phạm đến Người. Thiên Chúa ở đó kìa, Người ẩn mình dưới dạng một người bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường.

Đấy không phải lúc tra ván xem nạn nhân thuộc tôn giáo nào, quốc tịch nào, chủng tộc hoặc ngôn ngữ nào, cũng không phải là lúc nhút nhát ẩn mình sau tấm bình phong truyền thống để được an toàn. Việc đạo đức và lòng sùng kính chỉ là những phương tiện non yếu và tạm thời phải nhường chỗ cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định. Đức ái bày tỏ ra trong tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể tình yêu chân thành của ta đối với Chúa.

Kết cục có hậu, cái bẫy đã không hoạt động và viên tiến sĩ luật đã hiểu ra bài học thực hành. Ông ấy, và sau ông, cả chúng ta nữa, đều được mời gọi hãy làm như vậy. Không phải Lề Luật có thể cứu độ, cũng không phải các nghi thức và việc tuân hành luật, nhưng chính là việc hoán cải tâm hồn và Tình Yêu được phục vụ trước hết.

Hiểu Luật theo cách của Đức Giêsu, không cần tìm xem ai là người thân cận, nhưng đúng là làm thế nào để “trở nên người thân cận của ai đó? “, là biết “chạnh lòng thương” biết gạt bỏ mọi thành kiến về giai cấp và chủng tộc, về địa vị và tôn giáo.

Khi cử hành tiệc Thánh Thể, ta đã nhận biết và tiếp đón Chúa (Lời Chúa và Bánh), thì khi ra về, hãy cố gắng đừng giả bộ không nhận ra hoặc lẩn tránh Chúa khi ta gặp Người bên vệ đường.

home Mục lục Lưu trữ