Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 89

Tổng truy cập: 1370878

CHỦ CHIÊN ĐÍCH THỰC

Chủ Chiên đích thực

(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc)

Hình ảnh người mục tử với đàn chiên thật thân thuộc và gần gũi với người Do Thái. Tuy nhiên, đối với người Việt Nam chúng ta cũng phải được diễn tả bằng nhiều cách so sánh. Ngày nay chúng ta đã thấy thân thuộc hơn khi hình ảnh của người Kitô hữu được gọi là đoàn chiên và các giám mục, linh mục được gọi là chủ chiên. Hình ảnh này được họa lại từ chính Đức Giêsu Kitô xưng mình là “Mục tử tốt lành”, vì “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”(Ga 10,14). Vì vậy, để hiểu rõ Chúa chiên và đoàn chiên, người Việt Nam chúng ta nên nhìn thẳng vào giữa cộng đoàn dân Chúa – những người Kitô hữu hôm nay với các chủ chiên của mình.

Điều thứ nhất, Chúa Giêsu phân biệt giữa người chăn thuê và người chăn chiên đích thực. Người chăn thuê, vì lo giữ mạng sống của mình nên khi chó sói tấn công chiên thì bỏ chiên mà chạy trốn. Còn người chăn chiên đích thật thì coi chiên là chính mạng sống của mình. Do vậy, khi thấy chó sói đến, kể cả sư tử, cũng lăn xả vào chống trả để bảo vệ đàn chiên. Nhiều khi, thú dữ phải đi qua xác chủ chiên mới ăn thịt được đàn chiên. Và hình ảnh đó là một hình ảnh về tình yêu đích thực, tình yêu lớn nhất. Chúng ta nhìn vào các vị chủ chiên để chúng ta hiểu rằng, đối với các vị chủ chiên thì một tình yêu hiến tế là cả cuộc đời của các ngài hiến dâng, vì Chúa Kitô, vì nhân loại. Các ngài không sống cho mình, nhưng các ngài đã vì phần rỗi linh hồn của đàn chiên.

Thánh Phanxico Assisi quen gọi là Phanxicô khó khăn đã diễn tả một cách sâu sắc và đầy tính triết lý trong lời kinh Hòa Bình, lời kinh được diễn tả một thái độ, một tư cách của người chủ chiên trong đoạn kinh:

“…Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người,

để con đem yêu thương vào nơi oán thù.

Đem thứ tha vào nơi lăng nhuc.

Đem an hòa vào nơi tranh chấp.

Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Để con đem tin kính vào nơi nghi nan.

Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng…

Lạy Chúa, xin hãy dạy con.

Tìm an ủi người hơn được người ủi an.

Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết.

Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu…”.

Đó là những tư cách của người chủ chiên. Những chủ chiên đích thực tìm hiểu biết người nơi chính đoàn chiên, và họ làm như vậy là bởi chính Chúa Kitô đa thực hiện trước. Họ chỉ là những người đi theo sát bước Chủ chiên đích thực dám hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Thế giới hôm nay càng cần có các vị giám mục, linh mục tốt. Bởi vì trong một thế giới duy vật chất, ngươi ta muốn khước từ những gì là thiêng liêng thì sự hiện diện của các giám mục, linh mục chủ chiên là bằng chứng cho thế giới thấy Thiên Chúa đang hiện diện giữa thế giới vật chất của chúng ta.

Điều thứ hai, đoàn chiên hôm nay cần có chủ chiên để nói cho thế giới biết rằng, chúng ta phải sống trong tình yêu thương. Đoàn chiên hôm nay cần có chủ chiên để nói cho thế giới biết rằng, những người chăn chiên đích thực là những người biết bảo vệ cho đoàn chiên. Rồi từ đó, nhìn vào đoàn chiên, chúng ta cũng thấy mối tương quan giữa “Ta biết chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”.

Trong thế giới hiện nay, đàn chiên đã có nhiều những biểu hiện suy thoái, đó là nghe tiếng lạ. Tin Mừng hôm nay, Chúa cảnh báo “chiên không nghe tiếng lạ”. Nhưng thế giới hôm nay thì đàn chiên nghe theo tiếng lạ rất nhiều. Những tiếng lạ của vật chất, những tiếng lạ của tình dục, những tiếng lạ của phá thai, những tiếng lạ của hưởng thụ sống gấp, những tiếng lạ của những hận thù và oán ghét dẫn đến chiến tranh. Vì vậy, hơn bao giờ hết, mối tương quan giữa chủ chiên và đoàn chiên hôm nay cần phải luôn luôn tái lập, phải luôn luôn ý thức lại. Đó là một mối tương quan hữu cơ: “Ta biết chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”. Không những là đàn chiên hiện tại, Chúa Giê su còn nói: “Ta còn nhiều chiên khác chưa thuộc đàn này. Cả những chiên đó cũng phải đưa về, để cuối cùng chỉ có một đàn chiên và một Đấng chăn chiên đích thực” (Ga 10,16). Chỉ có một chân lý, một tình yêu đích thực mà tất cả mọi người đều phải qui về đó!

Mối tương quan giữa chủ chiên và đàn chiên được đảm bảo bằng chân lý, đảm bảo bằng tình yêu đích thực thì chỉ có một. Thế giới hôm nay cũng chỉ có một, nếu người ta coi trọng chân lý, coi trọng tình yêu. Sự hiện diện của chủ chiên là tiếng nói quen thuoc đối với đàn chiên thì không bao giờ là tiếng lạ. Tiếng nói quen thuộc đó kêu gọi mọi người hãy yêu thương, hãy phục vụ, hãy quên mình, hãy quảng đại, hãy dấn thân. Nếu chúng ta nghe được tiếng của tình yêu Thiên Chua, tiếng của Giáo Hội thì hôm nay gia đình của chúng ta đã hạnh phúc, xã hội của chúng ta đã bằng yên, không có khủng bố, không có hận thù chiến tranh, không có phá thai. Nhưng thế giới của chúng ta hôm nay đã có nhiều tiếng lạ xuất hiện khiến cho khoa học cũng phải lên án, triết học cũng phải lên án và hòa bình cũng phải lên án.

Một lần nữa, ngày lễ Chúa chiên lành hôm nay. Khi chúng ta nhìn vào Chúa Chiên Lành, chúng ta nhìn vào giáo phận của chúng ta với các tân chức linh mục vừa được phong. Nhìn lại mối tương quan giữa Chúa chiên và đoàn chiên, chúng ta thấy vang âm lại Lời Chúa. Lời Chúa vẫn luôn luôn là kim chỉ nam cho cả chủ chiên và đoàn chiên, rằng: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”.

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa là mục tử tốt lành.

Xin cho chúng con cũng là những đoàn chiên tốt lành

và là những đàn chiên thuộc về quyền của Chúa,

để cuối cùng chúng con chỉ nghe một tiếng

là tiếng của chân lý.

Chúng con chỉ sống trong một tiếng gọi,

là tiếng gọi của tình yêu.

Xin cho hôm nay,

chủ chiên biết đi sát những gì

mà người mục tử tốt lành duy nhat

là chính Chúa đã chỉ rõ những tư cách của người mục tử

cho các linh mục noi theo,

đồng thời đàn chiên cũng ý thức

đi theo tiếng của Chúa chiên

mà không nghe theo tiếng lạ

để sống trong yêu thương,

trong an bình và trong hanh phúc.

Xin cho chúng con ở trong một đoàn chiên duy nhất

dưới quyền một Đấng chăn chiên duy nhất

là chính Chúa, Amen.

 

 

 

 

 

77. Người mục tử nhân hậu

(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)

 

Đối với những người sống ở các miền quê có chăn nuôi những đàn súc vật lớn, như: Bò, chiên, cừu, v.v… thì hình ảnh “người mục đồng và đoàn vật” hay nói theo danh từ Kinh Thánh thường dùng: “Người mục tử và đoàn chiên”, “chủ chăn và đoàn chiên”, là một hình anh hoàn toàn quen thuộc, gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Cách đây chưa lâu, có một bạn thanh niên đã phát biểu trong giờ chia sẻ Kinh Thánh ở hội đường giáo xứ nọ như sau: “Theo thiển ý, tôi nhận thấy bài Phúc Âm nói về chủ chăn và đoàn chiên là không đúng. Vì trong đó tôi, một người giáo dân, được coi như là một chú chiên. Thành thực mà nói, tôi không bao giờ chấp nhận được điều đó!”

Người bạn trẻ của chúng ta đã có cảm nghĩ như vậy, và có lẽ trong chúng ta cũng có người nghĩ như vậy, bởi vì một hình ảnh quá đẹp và thân thương như thế trải qua bao thế kỷ đã bị làm lệch lạc méo mó đi, do người ta chỉ trinh bày và đề cập tới một vài khía cạnh nào đó của nó. Và sự hiểu làm thật tai hại: Những người giáo dân bị hạ thấp xuống thành đoàn chiên gia súc, còn các cha xứ lại được đề cao là mục tử, là chủ chăn! Theo cách đơn giản hóa như thế, người ta có the nêu ra một câu hỏi châm biếm: Tại sao Đức Giêsu được gọi là “mục tử”, còn các Đức Giám Mục trong các Giáo phận lại được gọi là “mục tử thượng cấp”?

Dĩ nhiên, không một vị Linh mục Quản xứ nào, không một vị Giám mục hay một vị Giáo Hoàng nào còn nghi ngờ về sự thật: chỉ một mình Đức Giêsu mới là người “Mục Tử Nhân Lành”, Đấng vượt trên mọi “mục tử thượng cấp” cũng như mọi “mục tử hạ cấp”, và là mẫu mực cho mọi mục tử khác phai noi theo, phải học hỏi!

Hình ảnh “Người chủ chăn” hay “Người chăn chiên” là một hình ảnh kỳ cựu, đã có từ lâu đời như chính nền văn hóa nhân loại vậy. Trước khi con người biết sống định cư, biết cày cấy và biết họp thanh làng mạc, con người đã sống đời du mục nay đây mai đó với đoàn vật, như bò, chiên, cừu. Bổn phận chính của người chăn đoàn vật là phải tìm kiếm bãi cỏ xanh và suối nước cho đoàn vật của mình. Anh phải biết thật rõ các miền có bãi cỏ xanh tốt và phải luôn luôn tiếp tục tìm kiếm và khám phá ra các bãi cỏ như thế mãi, chứ không được giam hãm đoàn vật lại trong một bãi cỏ quá lâu được. Điều đó thường khiến người chăn chiên phải đi vào những vùng đất xa lạ hẻo lánh và nguy hiểm. Dĩ nhiên, tất cả chỉ vì lo tìm kiếm thức ăn cho đoàn vật mà thôi!

Nhưng ở trong một vùng đất hẻo lánh như thế, những người chăn chiên cần phải luôn tĩnh thức để canh giữ đoàn vật, đặc biệt vào ban đêm. Đoàn vật dù đang ở trong chuồng chỉ cảm thấy được an thân yên ổn, khi biết chắc chằn rằng người chăn chúng luôn tĩnh thức canh phòng chống lại tất cả những kẻ trộm cướp hay các thú dữ. Chính trong đêm tối mới chứng minh được sự trung thành của người chăn chiên với đoàn vật của anh. Nếu chính người chăn đoàn vật lại nhát đảm yếu nhược thì đoàn vật cũng luôn trong tình trạng bất an sợ hãi. Một bổn phận thứ ba của người chăn trong thời kỳ du mục là đi tìm kiếm những con chiên bị thất lạc và những con chiên đang gặp khó khăn hoạn nạn.

Trong Tân Ước hình ảnh “Người chăn chiên nhân hậu” ám chỉ Đức Giêsu. Vì trong thực tế, chính Người là Đấng đã hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, cho loài người chúng ta. Đức Giêsu là “Đấng Chăn Chiên”, vì Người là hiện thân của sự săn sóc và thương yêu của Chủ Chăn đích thực là Chúa Cha đối với nhân loại.

Đồng thời Đức Giêsu muốn rằng tâm tình Người Mục Tử Nhân Hậu của Người phải được tiếp tục chuyển ban từ người này đến người kia trong suốt dòng lịch sử. Do đó Người đã trao ban sứ mệnh Mục Tử cho thánh Phêrô và các thánh Tông Đồ khác. Nhưng điều quan trọng ở đây là đoàn chiên phải nhận biết được tiếng của Đức Giêsu. Tiếp đến, một điều quan trọng khác nữa là đoàn chiên phải cảm nhận được là người chăn của mình luôn đi tìm cho mình đồng cỏ xanh tốt, bảo vệ mình trước mọi nguy hiểm và luôn đi tìm kiếm những con chiên bị thất lạc.

Nói tóm lại, theo gương sáng của người chăn chiên nhân hậu của Chúa Cứu Thế, Giáo Hội và con người hôm nay cần đến những vị Linh mục, các Thầy Phó tế, các Nam Nữ Tu Sĩ và các cộng tác viên đắc lực trong công tác Mục Vụ cho nhân loại. Cũng vì thế, hằng năm Giáo Hội đã tổ chức các khánh nhật cầu nguyện cho ơn gọi, xin Thiên Chúa đánh động và chọn lựa các thanh thiếu niên biết hy sinh hiến thân cho việc mở rộng Nước Trời trong các tâm hồn.

 

 

 

 

 

78. Biết Chúa khác việc biết về Chúa

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

 

Đọc Thánh kinh người ta có thể nhận ra được rằng dân Do Thái cổ xưa là dân du mục. Vì thế văn chương của họ, nghĩa là Thánh kinh Cựu ước, cũng mang sắc thái đời sống chăn nuôi. Đức Giêsu và các tông đồ cũng chịu ảnh hưởng của môi trường chăn nuôi.. Chúa dùng nhieu hình ảnh về đồng áng và chăn nuôi quen thuộc như lúa mì, cây nho, hạt giống, chiên cừu, chim chóc, hoa cỏ đồng nội để nói lên mối liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người và dạy họ bài học về đạo giáo. Những hình ảnh như người mục tử thổi sáo, hoặc vác chiên trên vai còn được tìm thấy trên tường vách những hang toại đạo.

Trong Phúc âm hôm nay Chúa nói với ta: Ta biết chiên ta (Ga 10: 14). Cũng như người mục tử xưa kia biết đàn chiên của mình, biết con nào khoẻ mạnh, con nào đau yếu, con nào có đặc điểm gì, con nào bị thất lạc, Chúa cũng biết từng người. Chúa biết tư tưởng, ước muốn, cảm tình, hành động, tính nết – cả tính tốt và tính xấu – và nhu cầu của mỗi người. Đó chính là điều Chúa nói với ta qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: Trước khi tác thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi (Gr 1:5).

Để được thuộc về đàn chiên của Chúa, Chúa muốn ta biết Chúa như con chiên nhận biết tiếng người chăn và đi theo chủ chăn, mà không theo người lạ: Chiên Ta thì nhận biết Ta (Ga 10:14). Vậy biết Chúa có nghĩa là gì? Biết Chúa theo nghĩa Thánh kinh, không có nghĩa là chỉ nghe biết về Chúa qua việc đọc Thanh kinh. Biết Chúa theo ngôn ngữ Thánh kinh là mối liên hệ cá biệt giữa Thiên Chúa và dân Người do ơn thần linh khởi sự và việc ban tặng Lề luật và Thần trí khôn ngoan cho dân Người (Kn 7:7; 9) để họ có thể nhận biết đươc đường lối của Chúa. Biết Chúa là kinh nghiệm được những điều Chúa nói và những việc Chúa thực hiện trong thế giới và trong đời sống của họ. Đến thời Tân ước thì việc biết Chúa được hiểu là sự hiệp thông (1Ga 1:3) với Thiên Chúa nhờ đức tin và Phép Rửa tội.

Biết khác với việc biết về hay biết đến. Ta biết về người khác là do được kể lại hay biết đến họ là do đọc tiểu sử của họ. Còn nếu đã biết một người thì không cần nghe ai nói hoặc viết về họ, nghĩa là không cần trung gian của người thứ ba. Vợ chồng biết nhau thì không cần ai nói về vợ hay chồng mình, vì mối liên hệ vợ chồng là một thứ liên hệ thân mật và gần gũi nhất trong các thứ liên hệ của loài người. Hai người bạn cùng ăn một mâm, cùng nằm một chiếu cũng không cần nghe ai giới thiệu về bạn, vì bạn thân thường đi guốc trong bụng của nhau: biết ưu điểm cũng như khuyết điểm, khả năng, giới hạn và tình trạng sức khoẻ của bạn. Việc Đức Giêsu gọi ta là bạn hữu qua việc gọi các tông đồ là bạn, bao hàm việc Chúa muốn ta biết Chúa một cách gần gũi và thân mật, vì Người đã tỏ cho ta, qua các tông đồ, biết những điều Người đã nghe được nơi Chúa Cha (Ga 15:15).

Biết Chúa cũng khác với việc biết về Chúa. Người ta có thể biết nhiều về Thánh kinh và giáo lý của đạo Chúa qua việc học hỏi và đọc sách, nhưng không nhất thiết người ta đã biết Chúa và tin Chúa. Có những người là giáo sư hay học giả Thánh kinh, nhưng họ không phải là những người tin Chúa. Họ biết về Thánh kinh, biết về đạo Chúa, nhưng thực ra không biết Chúa.

Bước khởi đầu đưa đến việc biết Chúa là việc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn. Chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu như kiêu căng, tự phụ, ham danh, ích kỷ, gian tham, xảo trá, nhục dục, bỏ vạ, cáo gian, bịa đặt, vu khống… Một tâm hồn đầy ắp những chướng ngại vật thì không có lối cho Chúa đi vào và không còn chỗ cho Chúa ở lại. Chướng ngại vật trong tâm hồn làm cản trở tác động của ơn thánh Chúa. Kết quả nội tại của việc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là lòng ăn năn sám hối tội lỗi và nhu cầu cần Chúa. Và đó là bước khởi đầu cho tiến trình của việc biết Chúa. Tham dự và dấn thân vào những phong trào hay hội đoàn canh tân đời sống thiêng liêng cũng giúp dễ dàng hoá cho tiến trình của sự nhận biết này.

Ta biết Chúa khi ta xác tín rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người trên thập giá đem lại cho cá nhân ơn tha thứ và cứu độ. Cũng vì xác tín như vậy nên thánh Phêrô mới có thể quả quyết: Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4:12). Ta nhận biết Chúa qua những công trình sáng tạo của Người trong vũ trụ, những kỳ công của tạo hoá, những vẻ đep của thiên nhiên. Ta biết Chúa khi ta tin trong lòng rằng Thiên Chúa Ba ngôi là Đấng tạo dựng, cứu độ và thánh hoá và yêu thương ta như con thảo. Đó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người mà thánh Gioan muốn ngươi tín hữu cảm nghiệm được: Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho ta được gọi là con Thiên Chúa (1Ga 3:1). Ta nhận biết Chúa qua những biến cố xẩy ra trong đời sống cá nhân. Ta nhận biết Chúa khi ta cảm nhận được rằng Người biến đổi cuộc sống ta, cho ta được thoát khỏi tội lỗi, được tự do làm con cái Chúa. Ta nhận biết Chúa khi ta xác tín trong con tim rằng chính Người đã đưa dẫn ta qua những nẻo đường của cuộc sống, những hiểm nguy và những cạm bẫy của đời.

Biết Chúa là việc cảm nghiệm được rằng những đường đi nước bước của đời mình nằm trong chương trình quan phòng của Chúa. Trước khi đi tới giai đoạn biết Chúa, ta có thể trải qua những giai đoạn như khắc khoải, phàn nàn, bất mãn, than thân trách phận. Nếu như vậy, ta nguyện xin Chúa giải thoát mình khỏi thế này, thế nọ; hoặc xin Chúa cho mình được thế nọ, thế kia. Có khi Chúa dìm ta xuống bùn đen, vực thẳm để rồi lại cất nhắc ta lên, để dạy ta bài học khiêm tốn. Đó là cách Chúa bảo ta: đừng có lên mặt huênh hoang, hách xì xằng, nhưng phải biết khiêm hạ, tuỳ thuộc vào Chúa.

Đến thời điểm nào đó, ta sẽ thấy mình ngoan ngoãn đầu hàng, không muốn kháng cự nữa, nhưng dâng lên Chúa ngay cả những điều mà trước kia mình đã phấn đấu, khắc khoải, phàn nàn, bất mãn, than thân trách phận để cho Chúa làm chủ. Bây giờ thì ta dâng lên Chúa tất cả: thân xác, ngũ quan, tâm trí, linh hồn cùng với quan năng, khiếm khuyết, ngay cả những tự ti mặc cảm và tính nết khó chịu, để xin Chúa sửa sang và uốn nắn theo đường hướng của Người. Lúc này ta cảm nghiệm được rằng có bàn tay Chúa hướng dẫn đời mình từng bước và từng bước đường. Cảm nghiệm của việc biết Chúa giống như cảm nghiệm của hai người yêu, dù có cách mặt mà không xa lòng: vẫn nhớ nhung nhau, nhớ bóng dáng người yêu, ánh mắt người yêu, tiếng thì thầm của người yêu. Biết Chúa, yêu Chúa và cảm thấy được Chúa yêu, ta cũng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, bóng dáng của Chúa, tiếng thì thầm của Chúa, cùng với sự bao bọc, ấp u và che chở của Chúa.

Truyện kể lại, vào dịp lễ Giáng sinh, khi thánh Hiêrônimô đang cầu nguyện, suy gẫm về mầu nhiệm Nhập thể, Chúa hiện ra hỏi xem thánh nhân có gì làm quà dâng cho Chúa không? Thánh Hiêrônimô thưa: xin dâng lên Chúa trái tim của thánh nhân. Chúa hỏi: Còn gì nữa không? Hiêrônimô thưa là xin dâng lên Chúa bản dịch Thánh kinh từ nguyên văn Hi lạp sang La ngữ được gọi là bản phổ thông Vulgata. Chúa lại hỏi: còn gì nữa chứ? Thánh nhân thưa: đâu còn gì nữa. Chúa bảo còn tội lỗi của con thì sao? Thánh Hiêrônimô đáp: đâu dám dâng lên Chúa của xấu đó. Chúa bảo cứ dâng lên Chúa để xin được luyện lọc, thanh tẩy và tha thứ. Tội gì của thanh Hiêrônimô, thì ta không biết và không cần biết. Còn tội nóng tính của thánh Hiêrônimô thì giới học giả Thánh kinh và ai đọc lịch sử thánh nhân thì đều biết cả. Dễ nóng tính, thánh Hiêrônimô cũng dễ hối hận và mau mắn làm việc đền tội. Có vị giáo hoàng thời Phục hưng, khi thấy hình thánh Hiêrônimô cầm hòn đá đấm vào ngực ăn năn tội với nhận xét: Cầm hòn đá là việc làm tốt cho ông để tỏ lòng sám hối, nếu không, Giáo hội khong bao giờ phong thánh cho ông đâu. (Farmer, D. H. The Oxford Dictionary of Saints, second Edition. Oxford, New York. Oxford University Press, 1987, p. 225.)

Biết về Chúa, về Thánh kinh hay về đạo Chúa, người ta vẫn có thể là người ngoại cuộc. Còn biết Chúa là khi nào ta mời Chúa đi vào đời ta, để ta được ở trong cuộc, nghĩa là ở trong nội cung và nội thất của nhà Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn nhận biết Chúa:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn cho người môn đệ Chúa

được nhận biết Chúa như con chiên biết chủ chăn.

Xin cho con biết loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn

và tìm sống theo thánh ý Chúa

để con nhận biết tiếng Chúa nói với con.

Xin cho con cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa,

cùng với tình yêu của Chúa,

trong đời sống con và xung quanh con. Amen.

 

 

 

 

 

79. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

 

NGÀY CẦU NGUYỆN ĐẶC BIỆT CHO CÁC CHỦ CHĂN TRONG GIÁO HỘI.

NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (World Day of Prayer for Vocation).

KINH CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH MỤC ĐƯỢC ƠN THÁNH HÓA.

KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (Vocation Prayer).

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): “Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta!” Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan: 10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).

Trong các bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn chiên, và cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ những chủ chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).

Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời suy niệm sau đây:

“Mọi công việc trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành, đều đơn giản là những công việc của tình thương xót đối với đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn “hấp hối” tại vườn “Cây Dầu” và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.

“Mọi khổ đau của những người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại xa lạ với Chúa Kitô. Ngươi thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được. Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến tuyệt đỉnh!

“Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có thể cứu vớt mọi người; phải dám ‘tự hủy ra không’ để có thể chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường hơn hết mọi người!

Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã, mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa. Như vậy, long Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm đến để giúp đỡ những người yếu đuối, mà còn ở chỗ, như một người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chư không phải kéo họ lên; Người đã vác con chiên lạc lên vai và đưa về đoàn, đưa về lại cuộc sống).

Tự hạ mình xuống sâu thẳm, Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả Babara (Mat-theu 27,16…), như một kẻ tội phạm công khai, như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta che mắt không dam nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái tim.

“Như vậy, Tình thương xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người, không một chi thể nào trong thân thể của Người không bị thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).

Hy lễ thập giá thật là một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới.” (Dịch theo bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của người dịch).

Đọc những dòng trên đây, chúng ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu, Đấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào, đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục “nuôi sống đoàn con” bằng chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn chiên bằng các “phép Bí tích nhiệm mầu.”

Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở vơi Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế!”(Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Đoàn chiên Chúa.

Chúa chọn ai?

“Chúa chọn những người mà Chúa muốn (Mc 3,13) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị và giảng dạy… (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và cắt đặt.

“Nhưng tại sao Chúa chọn con?”

Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: “Tại sao Chúa chọn con?”… Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ “Mở Tay” (Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: “Không phải vì con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!.

Vâng, “không phải vì con Chúa chọn con” nhưng Chúa chọn “những ai mà Chúa muốn” (Matcô 3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt đêm (Luca 6,12). Đó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã “chối Chúa tới ba lần dù Chúa đã cảnh cáo Ông trước!” và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những “yếu đuối” của mình ‘Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!’… (2 Cor. 11,29) Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó” như Đức Đương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên ngôi Giáo Hoàng, trong “Lời Tâm Tình Đầu Tiên của Ngài” cũng chia sẻ kinh nghiệm đó: “Tôi cảm thấy bất xứng và… thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó…” nhưng “Ơn Chúa đủ cho tôi!” (2Cor. 12,9…); nên Đức Giáo Hoàng cũng nói tiếp: “Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: “Con đừng sợ!”. Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn như Mẹ Maria để thưa lời “Xin Vâng!”.

Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu đã “lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện” (Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ trong khiêm tốn và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện thiết tha với Đức Chúa Cha cho các Tông đồ đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại; đặc biệt trong câu “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!” (Gioan, 17,15).

Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình “Thank you Father for being a priest!” (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!”. Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta.

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Đoàn chiên Chúa. Chúng ta cũng cầu xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng ta.

KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC.

Lạy Chúa Giêsu/ là linh mục cao trọng, là Đấng tế lễ đời đời. Bởi lòng quá yêu dấu loài người là anh em của Chúa, nên Chúa đã mở kho tàng Trái Tin cực thánh Chúa, mà lập ra chức vị linh mục, thì nay chúng tôi cũng xin Chúa khan đổ vào lòng các linh mục / nhửng dòng nước trường sinh / bởi lòng thương yêu vô cùng Trái Tim Chúa.

Xin Chúa sống trong mình các linh mục/ và dùng các Ngài, mà ban phát ơn lành của lòng thương xót Chúa. Xin Chúa hành động với các linh mục, và dùng các Ngài/ mà hành động trong thế gian.

Lại xin Chúa làm cho các linh mục được hoàn toàn giống Chúa, mà trung thành bắt chước các nhân đức cao trọng của Chúa, để nhân danh Chúa/ và nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, các Đấng ấy nhiệt thành/ làm những việc xưa Chúa đã làm/ mà cứu người ta cho được rỗi.

Lạy Đấng Cứu Chuộc loài người! Xin Chúa nhìn xem biết bao nhiêu kẻ /đang nằm trong bóng tối tăm lầm lạc. Xin Chúa xem đến vô số giáo hữu theo đường tội lỗi/ hòng sa xuống vực sâu.

Xin Chúa trông đến biết bao người bần cùng đói khát, những người dốt nát mê muội, và nhửng kẻ yếu đuối nhát hèn/ đang rên rỉ than khóc/ vì không có linh mục coi sóc, giữ gìn.

Xin Chúa dùng các linh mục mà ở lại với chúng con. Xin Chúa sống trong mình các linh mục, và dùng các Ngài mà hành động, và trở lại dưới thế gian này/ mà dạy dỗ, tha thứ, yên ủi, tế lễ/ và ket hợp mối tình yêu mến, ràng buộc lòng Chúa với loài người chúng con cho đến trọn đời. Amen

KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI

Lạy Thiên Chúa chí ái, Giáo Hội Chúa đã được Chúa thương ban cho những linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, các thành viên tu hội đời, các tông đồ giáo dân / luôn tận hiến để hằng ngày đem Chúa đến cho mọi ngừơi trên khắp thế giới. Xin Chúa giúp các vị đó luôn kiên cường trong sứ vụ. Xin Chúa cũng kêu gọi thêm nhiều người cùng tham gia trong công cuộc phục vụ dân Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

80. Chúa Chiên Lành

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

 

Trong Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh (năm B), bài Phúc Âm (Gioan 10,11-18), Bài Đọc I (Cv. 4,8-12), và Bài Đọc II (1 Gioan 3,1-2) đều gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân Lành. Bài Phúc Âm và các Bài Đọc trong năm A và C cũng vậy; vì thế, Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Nhân Lành.

Chúa Giêsu Kitô chính là CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH. Ngài đã vâng lời Đức Chúa Cha, và xuống thế làm người, mặc lấy thân phận một người hèn mọn, sống khiêm nhường trong gia đình nghèo khó Nagiaret. Trong thời gian ra đi rao giảng, Ngài đã luôn tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương, chấp nhận mọi khó khăn, mệt nhọc, mọi phản ứng chống đối, và sẵn sàng chấp nhận cả cái chết nhục nhã trên Thánh Giá để cứu chuộc đoàn chiên: “Ngài đã vâng phục cho đến chết, và chết trên Thánh Giá…” (Phillip 2,6-8).

Cuộc đời và những lời rao giảng của Chúa Giêsu phác họa cho chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân lành:

Người Chăn Chiên Nhận Lành hy sinh tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người.

Người Chăn Chiên Nhân Lành săn sóc đoàn chiên với lòng yêu thương, nhân hậu; biết lưu ý đến từng con chiên một, tìm hiểu hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi người, lắng nghe tiếng nói của mọi người, và yêu thương, khiêm tốn phục vụ mọi người trong những hoàn cảnh khác nhau. Với những con chiên xa lạc, Người Chăn Chiên Nhân Lành hy sinh đi tìm, và vui mừng khi tìm thấy, không giận dữ, không la mắng, nhưng âu yếm vác lên vai và mang trở về đoàn.

Người Chăn Chiên Nhân Lành cũng luôn là ngọn đèn cháy sáng để chiếu soi ánh sáng chân lý tình thương của Chúa cho mọi người.

Đời sống đạo đức sâu xa, âm thầm cầu nguyện và lòng nhiệt thành của vị Chủ Chăn luôn như muối men ướp cho đời sống Dân Chúa được mặn nồng sốt sáng.

Trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, cũng như trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy cùng nhau dâng nhiều hy sinh, hãm mình để xin Chúa ban ơn thánh hóa Đức Giáo Hoàng và các vị Chủ Chăn trong toàn thể Giáo Hội, trong đó có các vị Chủ Chăn tại quê hương Việt Nam, nhất là các vị đang bị tù đày, các vị đang gặp nhiều khó khăn thử thách tại những nơi mà Giáo Hội đang bị bách hại dưới nhiều hình thức khác nhau.

Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn hăng hái nhiệt thành cộng tác với các Chủ Chăn trong công việc chăn dắt đoàn chiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ cũng là ‘các chủ chăn’ của đoàn chiên trong các gia đình của mình, nên cũng cần cầu nguyện nhiều để xin Chúa giúp chúng ta biết sống làm gương sáng và dẫn dắt con cháu chúng ta trung thành giữ vững Đức Tin trong sự hòa hợp yêu thương phục vụ lẫn nhau.

Hôm nay cũng là ngày “Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục và Tu Sĩ.” Chúng ta cũng hãy hy sinh, hãm mình, dâng lời cầu nguyện xin Chúa ban cho giới trẻ, con cháu chúng ta, được Chúa thương gọi và chọn để dâng hiến cuộc đời làm Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ phục vụ trên cánh đồng truyền giáo bao la và đa dạng trong thế giới ngày nay.

 

 

 

 

 

81. Ai là mục tử? Đàn chiên thuộc về ai?

(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Minh Thông)

 

Chăn cừu trong hoang mạc Giu-đê

Bản văn (Lê Minh Thông dịch sát bản văn Hy Lạp)

Đức Giêsu nói với những người Pha-ri-sêu:

11 Chính Tôi là mục tử tốt. Mục tử tốt hy sinh mạng sống của mình vì đàn chiên.

12 Người làm thuê không phải là mục tử, đàn chiên không thuộc về mình. Thấy sói đến, anh ta bỏ đàn chiên mà chạy – và sói vồ lấy chúng và làm tán loạn -.

13 Vì là kẻ làm thuê, anh ta không lo lắng cho đàn chiên.

14 Chính Tôi là mục tử tốt. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi,

15 như Cha biết Tôi, và Tôi biết Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên.

16 Tôi còn có những chiên khác, chúng không thuộc ràn này. Tôi cũng phải dẫn dắt chúng và chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ làm thành một đàn chiên, một mục tử.

17 Vì điều này mà Cha yêu mến Tôi: Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại nó.

18 Không ai lấy nó khỏi Tôi, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyen lấy lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.”

***

Đức Giêsu là mục tử tốt, Người là mục tử duy nhất của đàn chiên. Khi tham gia nhiệm vụ chăn dắt trên nhiều cấp độ khác nhau trong Hội Thánh, chúng ta de quên là chỉ có một mục tử duy nhất là Đức Giêsu. Những người có nhiệm vụ chăn dắt trong cộng đoàn là những người được Đức Giêsu giao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người. Đàn chiên đó thuộc về Đức Giêsu. Sở hữu đàn chiên là Đức Giêsu, vì chỉ một mình Người là mục tử tốt, chỉ một mình Người có khả năng “hy sinh và lấy lại mạng sống mình” vì yêu mến đàn chiên. Xin chia sẻ đôi nét về tư cách mục tử của Đức Giêsu và về vai trò người chăn dắt trong cộng đoàn Hội Thánh.

Trước hết, người ta thường gọi Đức Giêsu là “Mục tử nhân lành” cách nói này chưa diễn tả hết ý nghĩa, vì có thể chỉ dừng lại ở nghĩa “hiền lành”, “tốt lành”. Trong khi, bản van Hy Lạp dùng tính từ “tốt” (kalos). “Mục tử tốt” không chỉ là “tốt lành”, “hiền lành”, mà điều quan trọng hơn là “tốt” về phẩm chất. Người mục tử tốt là người có khả năng đáp ứng những đòi hỏi của nhiệm vụ chăn dắt và chu toàn tốt đẹp vai trò mục tử.

Khẳng định của Đức Giêsu: “Chính Tôi là mục tử tốt” là kiểu nói đặc trưng của thần học Gio-an. Đức Giêsu là ánh sáng, là bánh, là cây nho đích thực, là cửa ràn chiên, là mục tử tot. Tính từ “tốt” cho phép phân biệt với tất cả các mục tử khác trong Cựu Ước. Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu không so sánh mình với các mục tử khác, bởi vì Người là mục tử duy nhất của đàn chiên.

Đức Giêsu là mục tư tốt, vì Người hy sinh mạng sống của mình vì đàn chiên (10,11). Lời này lạ lùng và nghịch lý. Nếu mục tử chết, đàn chiên cũng chết. Vì không có ai bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói dữ. Trên thực tế, người muc tử phải tìm mọi cách để sống còn. Dù phải đối diện với nguy hiểm, người mục tử khôn ngoan là người bảo toàn được mạng sống của mình, như thế mới có thể bảo vệ đàn chiên. Bởi vì, sự sống còn của đàn chiên lệ thuộc vào sự sống còn của mục tử. Người mục tử tốt là người “sống vì đàn chiên”, chứ không phải là người “hy sinh mạng sống mình”, theo nghĩa “chết vì đàn chiên” như Đức Giêsu nói.

Thực ra, cuối đoạn Tin Mừng, sự sống của Đức Giêsu được đề cao. Người khẳng định: “Tôi có quyền hy sinh mạng sống mình và có quyền lấy lại nó”. Lời này ám chỉ Đức Giêsu sẽ chiến thắng sự chết. Biến cố Phục Sinh làm cho Người trở thành mục tử duy nhất. Người đang sống. Chính Người bảo vệ đàn chiên, ban sự sống đích thực cho đàn chiên và làm cho đàn chiên được sống dồi dào (10,10).

Nhưng tại sao Đức Giêsu lại hướng về sự chết khi khẳng định ngay từ đầu đoạn Tin Mừng: “Mục tử tốt hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên” (10,11)? Trong bối cảnh văn chương của Tin Mừng thứ tư, đoạn văn 10,11-18 ở vào cuối sứ vụ công khai, những kẻ chống đối Đức Giêsu đã và đang tìm cách giết Người; sứ vụ công khai của Đức Giêsu đang dần dần khép lại. Vì thế, đoạn văn 10,11-18 nhằm xác định vai trò của Đức Giêsu đối với những ai tin vào Người. Người là mục tử tốt, Người tự ý hy sinh mạng sống mình và Người có quyền lấy lại nó. Nhờ đó, Người có khả năng ban sự sống cho đàn chiên.

Bầu khí xung đột bộc lộ trong cách Đức Giêsu dùng hình ảnh “người làm thuê”. Ai là những kẻ làm thuê? Tin Mừng cho phép hiểu Đức Giêsu ám chỉ giới lãnh đạo Do Thái đang tìm cách giết Người, đó là những người Do Thái, những người Pha-ri-sêu, các thượng tế, họ là những người được giao nhiệm vụ chăn dắt dân. Các sách Cựu Ước gọi họ là mục tử, nhưng Đức Giêsu tước mất quyền đó khi nói: “Người làm thuê không phải là mục tử, đàn chiên không thuộc về mình… Vì là kẻ làm thuê, anh ta không lo lắng cho đàn chiên” (10,12-13).

Chính trong bối cảnh những kẻ chống đối đang tìm cách giết Đức Giêsu mà Người nói đến việc “hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên”. Hoa trái của sự “hy sinh và lấy lại mạng sống” này là phổ quát. Vì qua đó, Đức Giêsu quy tụ tất cả con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi về thành một đàn chiên, một mục tử (10,16; 11,52).

“Một đàn chiên, một mục tử” (10,16) là khẳng định thần học quan trọng, mà nhiều lúc những người có nhiệm vụ chăn dắt xem nhẹ. Cuối Tin Mừng Gio-an (21,15-17), ba lần Đức Giêsu hỏi Phê-rô: “Anh có yêu mến Thầy không?”, chỉ sau khi Phê-rô trả lời “Thầy biết con yêu mến Thầy”, Đức Giêsu mới trao sứ vụ chăn dắt: “Anh hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”.

Kiểu hành văn này cho thấy: Đàn chiên, bao gồm mọi người tin, là của Đức Giêsu. Các chủ chăn trong Hội Thánh là những người được Đức Giêsu giao phó nhiệm vụ chăn dắt và chăm sóc đàn chiên của Người. Đàn chiên là của Đức Giêsu chứ không phải của bất kỳ ai khác.

Câu hỏi đặt ra: Để có thể chăn dắt đàn chiên của Đức Giêsu phải có điều kiện nào? Ngoài những đòi hỏi mang tính pháp lý như được huấn luyện, lãnh tác vụ, điều cốt lõi là “tình yêu dành cho Đức Giêsu”. Ba lần, Phê-rô tuyên xưng tình yêu dành cho Đức Giêsu trước, sau đó mới được Người giao sứ vụ chăn dắt. Như thế, tình yêu dành cho Đức Giêsu là nền tảng làm nên bản chất của người chăn dắt. Có thể nói, khi người chăn dắt không thực sự yêu mến Đức Giêsu nữa, thì ngay lúc đó, người ấy không còn tư cách để chăn dắt đàn chiên của Đức Giêsu nữa. Bởi vì, chính tình yêu dành cho Đức Giêsu là bản chất và là căn tính của sứ vụ chăn dắt.

Thánh Augustinô diễn giải lời Đức Giêsu nói với Phê-ro ở Ga 21,15-17 như sau: “Nếu anh yêu mến Thầy, anh đừng nghĩ anh là mục tử; nhưng anh hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy, như chúng là của Thầy chứ không phải như chúng là của anh; anh hãy tìm kiếm nơi đàn chiên vinh quang của Thầy chứ không phải vinh quang của anh; sở hữu của Thầy, chứ không phải sở hữu của anh, lợi ích của Thầy, chứ không phải lợi ích của anh.”

Xin cho sứ điệp của bài Tin Mừng giúp chúng ta sống đúng vị trí và vai trò của mình khi tham gia vào nhiệm vụ chăn dắt ở nhiều cấp độ khác nhau trong cộng đoàn Hội Thánh. Điều quan trọng hơn cả là “yêu mến Đức Giêsu” và từ đó chăn dắt đàn chiên được giao phó bằng chính tình yêu mà Đức Giêsu là vị muc tử duy nhất đã dành cho mình và dành cho đàn chiên của Người.

home Mục lục Lưu trữ