Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 30

Tổng truy cập: 1373397

CHÚ GIẢI DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON

DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Các ông nghĩ sao? Một người có: hai con… “. Như ở 18, 12 và 22,42, Chúa Giêsu xin ý kiến không phải của môn đồ Người, mà là của các đối thoại viên hay địch thủ. Người này tượng trưng cho Thiên Chúa, như ta có thể diễn dịch dựa trên lời áp dụng Chúa Giêsu sẽ nói sau; hai đứa con của ông tượng trưng hai hạng làm nên dân Do thái thời đó: những “người tội lỗi” hay dửng dưng, không mấy giữ Lề luật và các qui định của giáo sĩ, và những “người công chính” hằng trung thành với tôn giáo chính thức, tức ở đây là các thủ lãnh của Israel. Hãy lưu ý là: hai hạng đều là con Thiên Chúa. Đối với cả hai, bản văn hẳn nhấn mạnh về tính chất (đạo đức, có chân lý tốt hay không), cũng như lời ăn tiếng nói của họ, mà về điều họ sắp làm hay không làm. Trên điểm này, Chúa Giêsu và đối phương người đều nhất trí với nhau (c.31b; xem thêm 23,3: các Biệt phái ngự tòa Môisen và dạy người ta làm, y như Chúa Giêsu). Ở đây cũng như mọi chỗ khác trong một, động từ làm (poiein) là căn bản.

“Hôm nay”: Chữ này quan trọng chứ chẳng phải chơi; ông cha trong dụ ngôn không muốn mất giờ giả định về tâm tính, dữ kiện khác biệt của hai con mình; ông đặt cả hai đứa trước cùng các lệnh sẽ quyết định vận mệnh của chúng.

“Về sau”: Không nên xem thành ngữ này là một ám chỉ đến lương dân, những kẻ vào Nước Trời sau người Do thái như một số nhà chú giải đã nghĩ. Lối giải thích gượng ép đó không ăn khớp với các hoàn cảnh mô tả trong dụ ngôn. Quả thế, người con thứ nhất trước tiên đã từ chối vâng lời, đó không phải là trường hợp của lương dân: sở dĩ họ vào muộn hơn trong Nước Trời, chỉ vì Nước Trời đã chưa được trình bày cho họ. Đàng khác, câu giải thích rõ ràng Chúa Giêsu thêm vào đã loại bỏ lối chú giải trên.

“Nó hối hận”: Nơi đây Matthêu không dùng động từ “thống hối” (melanoiein) nhưng dùng một động từ khác (metamelesthai); động từ này chỉ xuất hiện thêm trong Mt 27, 3, nhưng lại được dùng nhiều trong bản ‘Bảy Mươi’ theo nghĩa hoán cải, trở về với Thiên Chúa (Ed 14, 22; Tv 105, 45; Xh 13,17…). Người ta không giải thích tại sao người con ấy lúc đầu bướng bỉnh, sau cùng lại hối hận, mà chỉ khẳng định sự kiện thôi. Nhưng gương của nó đáng ra phải làm đứa thứ hai suy nghĩ: chắc hẳn đấy là lý do tại sao nó được đưa vào sân khấu đầu tiên (dù có một số thủ sao đã đảo ngược vai trò, có lẽ để gợi lên sự đối chiếu Israel dân ngoại).

“Vâng, thưa Ngài”: Tiếng “Ngài” đây, lạ lùng trên môi đứa con, có thể giải thích được dễ dàng nếu cho người cha là Thiên Chúa. Đây là một tiếng vụt qua bóng bẩy nhằm chuẩn bị cho lời áp dụng sắp tới.

“Qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa”: Động từ được dùng chỗ này là proagein; ở đây, chữ pro (trước) không có một nghĩa thời gian nhưng có một nghĩa khai trừ. Các người tội lỗi chẳng đi trước Biệt phái song sẽ chiếm chính chỗ của họ trong Nước Trời. Đây là một ngữ điệu Aram, như có một bản văn giáo sĩ đặt vào miệng Thiên Chúa những lời này: “Ai đã đi trước Ta trong việc sáng tạo?”, nghĩa là: “Ta đã sáng tạo thế gian, chứ chẳng phải một ai nào khác” (Targ. Hi 41, 3).

“Theo đàng công chính”: Thành ngữ (Cn 8, 20; 12, 28, Pr 2, 21) diễn tả việc chấp nhận không những hạnh kiểm luân lý của Gioan Tẩy giả, mà còn toàn thể sứ vụ của vị Tiền hô. Thực vậy khi công bố nước Thiên Chúa đang tới gần, Gioan Tẩy giả đã cho thấy dấu hiệu về sự công chính đích thực sắp đến, sự công chính mà Chúa Giêsu mang lại một cách sung mãn tràn đầy. Gioan và Chúa Giêsu đã không giảng dạy hai đường khác nhau, nhưng đã chỉ cùng một con đường duy nhất, con đường thống hối và quay về với Thiên Chúa: trong 3,2 và 4, 17, Matthêu đã cố công làm nổi bật sự tương đồng sứ điệp này khi đặt vào miệng hai Đấng những lời nói như nhau. Thành thử kẻ không tin Gioan (nghĩa là chẳng xem ông như người đại diện hữu quyền của Thiên Chúa) cũng sẽ không tin Chúa Giêsu, Đấng mà Gioan loan báo vậy.

KẾT LUẬN

Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn đứa con phung phá, ta thấy được mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với hàng thủ lãnh Israel đã đổi thay sắc thái đến độ nào. Đứa con nói không và về sau hối hận chắc hắn ít bị khiển trách hơn anh chàng phung phá, song đứa nói vâng rồi chẳng làm một tí mảy may thì bị lên án nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tương. Trong trường hợp sau này, thính giả dụ ngôn có cảm tưởng người cha vẫn còn trông mong lấy tình yêu bao phủ lòng ghen tương đê tiện của đứa con cả. Nhưng khi nghe dụ ngôn hai người con, người ta đoán chắc Chúa Giêsu chẳng còn hy vọng hoán cải các người Biệt phái. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy giả, lòng thống hối của những người thu thuế và tội lỗi mà rồi chẳng chút động tâm. Xem ra lòng chai đá của họ không thể biến cải được nữa.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Chúa Kitô dạy ta đừng dự đoán giá trị đạo đức của người ta theo các phạm trù chính thức cũng như theo các cam kết lý thuyết hay trên nguyên tắc. Vì cuối cùng, chính cách sống sẽ biểu lộ nhân tâm con người.
  2. Tiếng Chúa Cha mời gọi ta đi làm vườn nho hãy còn được tiếp tục gởi đến cho ta. Nó sẽ gợi lên tiếng ta câu trả lời nào? Phải chăng ta sẽ là những kẻ khéo nói cố tránh đưa vào hành động những câu trả lời đẹp đẽ dựng lên? phải chăng ta sẽ coi những ước vọng cao quí, những quyết định hay ho là những hành vi đã thực hiện.
  3. Sự thống hối cần có để vào Nước Trời chẳng bao giờ chỉ làm một lần là đủ. Phải luôn luôn làm lại, hôm nay cũng như ngày mai. Nếu không, những người thu thuế và đàng điếm (mà ngày nay vẫn còn) sẽ chiếm mất chỗ của ta trong Nước Trời, vì đức tin của họ chân thật hơn đức tin của ta, và cuối cùng sẽ mang nhiều hoa trái.
  4. Nơi người con thứ nhất, rõ ràng là cái ý thức về việc nó từ chối đã gây nên lòng hối hận và thúc đẩy nó vâng lời. Thành thử thật là lạ lùng, chính một lời từ chối thẳng thừng với Thiên Chúa, một tội lỗi quá hiển nhiên đã giúp người con kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Ngài và đã sửa đổi. Cũng vậy những người thu thuế, đàng điếm, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, đã không thể bị ảo tưởng về tình trạng của họ trước mặt Chúa, nên vì thế dễ thấy, dễ ao ước và dễ thực hiện sự công chính mà Chúa đề nghị với họ hơn. Ở đây họ trở nên chân dung của tất cả chúng ta, theo một cấp độ rõ ràng nhiều hay ít. Được Chúa yêu cầu mãi, ta khám phá ra mình đã nhiều lần thản nhiên từ chối thánh ý Ngài, ta đo lường được khoảng cách giữa cái ta đang là với cái đúng ra ta phải trở nên, và đó là một điều kiện đầu tiên để vào Nước Chúa. Không phải là cần phạm tội thêm để làm như một con đường đến cùng Chúa: từ bản chất; tội chỉ làm ta xa Ngài. Nhưng một khi đã phạm, chính tội cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. So sánh với một nhân đức giả hình, tội ít ra vẫn có cái “lợi” (nếu có thể nói được như thế) là tạo nên một ảnh trạng rõ rệt: người ta bị dồn vào chỗ phải thống hối hay tiếp tục ngoan cố trong điều dữ, trong lúc nhân đức giả tạo bên ngoài của người Biệt phái, vì bịt mắt không cho ông thấy mình xa Thiên Chúa, đã ngăn chận ông thực lòng hoán cải ăn năn.
  5. Thành thử cái quan trọng chẳng phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng dâng. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa.

 

  1. Chú giải theo Fiches Dominicales

PHỤC VỤ THIÊN CHÚA KHIẾN CON NGƯỜI TỰ DO

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Ai trong hai…

Trước sự phẫn nộ của các đối thủ, Đức Giêsu, được một đám đông cuồng nhiệt chào đón bằng những tiếng: “Hosana”, đã long trọng tiến vào Giêrusalem. Trong Đền Thờ, nơi Ngài giảng dạy, Ngài thường xuyên chịu đựng sự quấy nhiễu của “các thượng tế, và kỳ lão trong dân”. Hiển nhiên họ đến chất vấn Ngài về uy quyền nào cho phép Ngài nói và làm như vậy: “Do quyền nào ông đã làm điều đó, và ai đã ban cho ông uy quyền đó” (21,33). Nhưng Đức Giêsu từ chối trả lời bao lâu họ còn né tránh câu hỏi Ngài đặt ra: “Phép rửa của Gioan từ đâu đến, từ trời hay từ con người (21,44). Chính trong bối cảnh tranh cãi này, trong đó có 3 dụ ngôn về ngày phán xét, Đức Giêsu đã cho họ 1 lời cảnh báo mạnh mẽ sau cùng: Dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho (Pâ CN 26). Dụ ngôn thợ làm vườn nho sát nhân (Pâ CN tới). Dụ ngôn khách được mời dự tiệc cưới (Pâ CN 28). Dụ ngôn đầu là của riêng Matthêu, dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho có một vẻ đạm bạc đặc biệt, bỏ đi tất cả những chi tiết phụ thuộc để làm nổi bật sự tương phải giữa hai chàng trai. Tương phản trong thái độ ban đầu.

Đối lập thái độ vụng về của đứa con thứ nhất, nó phản đối thẳng thừng: “Tôi không muốn đi!”. Với thái độ kính cẩn thái quá của đứa con thứ hai: “Vâng, thưa cha”. Nhất là tương phản trong thái độ sau cùng.

Trong khi đứa thứ nhất, sau khi đã chối từ, nghĩ lại và ra vườn làm việc.

Đứa thứ hai, sau khi đã kính cẩn vâng phục và chấp nhận, lại chẳng làm gì hết.

  1. … đã thi hành ý Cha?

Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: hai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha?”. Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: “đứa thứ nhất”. Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ. Sự ngỡ ngàng ập đến khi Đức Giêsu chuyển sang phần áp dụng dụ ngôn, đã làm họ thấy rằng họ vừa tự phán xử và tự kết án chính mình: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Vì Gioan Tẩy giả đã đến với các ngươi sống công chính và các ngươi không tin vào lời Ngài, trong khi những người thu thuế và đĩ điếm đã tin. Còn các ngươi, cả sau khi đã chứng kiến điều ấy, các người vẫn không hối chi, không tin lời Ngài. “Các thượng tế và các kỳ lão trong dân” tuyên xưng để trả lời “vâng” với Thiên Chúa bứng cách lo âu gắn bó với lề luật và mọi ghi chú từ lề luật. Thực ra, họ ẩn núp sau Lề Luật để từ chối tin sứ mệnh của Đức Giêsu, cũng như họ đã từ chối tin vào sứ mệnh của Gioan Tẩy giả. Họ né tránh ý Chúa: đón tiếp lời và con người Đức Giêsu; trở về với Chúa để tiến vào Nước Trời. Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những người “thu thuế” và “đĩ điếm”, những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường công chính”, lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã “hối cải và tin vào lời Ngài”. Cl. Tassin bình luận: “Vì trước hết đức tin không phải là một vài tư tưởng công chính, nhưng là một hành động công chính, những người tội lỗi tồi tệ đã hiểu điều này nên đã bằng mọi giá cố gắng “thi hành ý Cha”. Còn các ngươi, Đức Giêsu nói, các thượng tế, chứng nhân của các cuộc hoán cải này mà các ngươi chẳng nhúc nhích các ngươi đã lỡ cơ hội đầu tiên, thậm chí các ngươi còn để vuột mất tất cả mọi cơ hội: dụ ngôn kế tiếp sẽ minh chứng điều đó.

Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết biết lãi nhãi: “Lạy Chúa, lạy Chúa” nhưng không bao giờ thi hành ý Cha”.

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Một ví dụ khích đối với những người đối thoại với Đức Giêsu (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB).

Đức Giêsu đã nói: Không phải những kẻ kêu rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa! mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha. Hôm nay Ngài còn đi xa hơn: Ngài nói con người có khả năng thay đổi ý kiến, thái độ, từ vâng lời có thể trở thành bất tuân, ngược lại từ chống đối có thể hoán cải. Ví dụ Ngài đưa ra quả là khiêu khích những người đối thoại: Thật, Ta bảo các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi. Ngài chỉ cho thấy chìa khoá mở cửa Nước Trời: đó không phải là vị trí người ta chiếm giữ, cũng không phải địa vị đắc thủ, càng không phải là một lần đồng ý với Lời Thiên Chúa. Đó là tình trạng của các thầy thượng tế, các kỳ lão, các luật sĩ và các tiến sĩ luật. Họ có một nhiệm vụ chính thức trong dân; đó cũng là sự tự hào của bọn biệt phái, họ khoe khoang sự trung tín không hề lơi lỏng đối với Lề Luật và truyền thống. Khốn nỗi lối vào Nước Trời đâu mở ra cho giá trị, công phúc, trọn lành. Đó là món quà Thiên Chúa tặng không cho những ai tiếp nhận lời Ngài và hoán cải. Chìa khoá lối vào Nước Trời là sự hoán cải: hãy hoán cải, vì Nước Trời đã gần” (3,2) Gioan Tẩy Giả đã la lên như thế. Hoán cải là nhận biết những giới hạn của bản thân, là phó mình cho Thiên Chúa và ý định của Ngài. Đức Giêsu phân biệt những người khẳng định sự trung tín nhưng không hề nhúc nhích, với những người không sống “theo luật tắc”, nhưng nhận biết Người và thay đổi theo tiếng gọi của Thiên Chúa: Hoán cải là đi đến nơi. Để giải thích rõ, Đức Giêsu đưa ra một ví dụ cực kỳ, gây phẫn nộ nhất: những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Chứng cớ mà Ngài trưng dẫn là sự rao giảng của Gioan Tẩy Giả: “Thật vậy, Gioan đã đến vớt các ngươi trong đường công chính và các ngươi đã không tin, trái lại những người thu thuế và đĩ điếm đã tin ông. Sau đó, đã nhìn thấy như vậy, các ngươi vẫn không hoán cải mà tin ông”. Đâu có những người tin, đón nhận lời của Gioan và dấn thân thay đổi đời sống. Đức Giêsu nhận thấy đó là những người không tự hào, chẳng có đặc quyền đặc lợi gì, nhưng bị khinh miệt, coi thường. Họ chẳng có gì để bảo vệ, họ không sợ bị mất mặt hay bị nghi ngờ. Ai có “danh dự ” cần bảo vệ, ai tự tin mình công chính, người ấy khó mà nhận mình tội lỗi, khó mà ăn năn hối cải, khó mà nhận mình cần thay đổi, khó chấp nhận rằng mình sẽ vào nước Trời không do công phúc của mình… Ta không ngừng cầu xin Chúa ban cho ta một trái tim nghèo, xin Ngài tẩy sạch thói tự mãn, cho ta ý thức sự yếu hèn, tội lỗi của mình. Khi giảng dạy, Đức Giêsu đã ban một chìa khoá “chung” để vào Nước Trời: đó là sự hoán cải, thống hối, ai cũng làm được cho dù họ có những phẩm chất nào, khuyết điểm nào, thuộc dòng chủng tộc nào, dân tộc nào đi nữa. Ơn cứu độ ban cho tất cả những ai chấp nhận mở lòng ra và tin tưởng.

  1. Chúng tôi chấp nhận bị Phúc Âm làm phiền (M. Hubaut, Prier les paraboles, DDB).

Lạy Chúa

Mỗi buổi sáng, Chúa nhắc lại lời mời:

“Hãy đi làm vườn nho cho Ta!”

Nhưng lời Chúa

Con đã nghe hằng trăm lần

Giờ thì còn là một âm thanh quen thuộc

Mỗi Chúa nhật ru ngủ cộng đoàn

Tuy vậy chúng con vẫn máy móc trả lời

“Vâng, vâng lạy Chúa

Rồi chúng con lặng lẽ trở lại

với những công việc thường lệ.

Chúng con đã thuần hoá sự mãnh liệt của Phúc Âm Chúa để chỉ còn nghe những lời lẽ dịu êm những công thức rất tế nhị. Chúng con đã làm giảm cường độ ánh sáng Phúc Âm qua lăng kính của quan niệm về trật tự, của Giáo Hội và xã hội. Và Phúc Âm của Chúa sẽ chẳng còn phiền nhiễu chúng con nữa.

 

  1. Suy niệm của Noel Quession

Đức Giêsu nói với các thượng tế vằ kỳ mục: ”Các ông nghĩ sao?..”

Dụ ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi đến các từng lớp lãnh đạo của thời đại Người, “các thượng tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17), rồi một cách tượng trưng Người đã làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22). Những “kẻ cầm quyền” ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có quyền gì để làm những hành động khiêu khích ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu, Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai người con, những tá điền sát nhân, những khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28 – 22,14). Cuộc khổ nạn đến rất gần. Đức Giêsu thật sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người sẽ bị loại trừ bởi chính những người lẽ ra phải tiếp đón Người.

Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách giải thích lịch sử” về cuộc khổ nạn.

Nếu chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng ‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày nay, các dụ ngôn được nói với mỗi người chúng ta.

Lời kêu gọi tối hậu của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta: “Bạn, X, Y,…., bạn nghĩ gì về điều đó?”

Một người kia có hai con trai. ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Nó đáp: “Con không muốn đâu!”. Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi

Bạn nghĩ gì về điều này?.

Phản ứng đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.

Đức Giêsu, khi đưa ra câu chuyện đơn sơ này đã không cho một lời giải thích nào về mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con người ‘thay đổi’, “hoán cải “. Và đó là một mạc khải củng cố chúng ta. Thế giới hiện đại với những dòng tư tưởng hiện nay, các phương tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng rằng con người bị điều kiện hóa và như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất định, lấy đi của chúng ta mọi trách nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách nhiệm của xã hội của tính khí người khác quả là có lợi! Trái lại, Đức Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ được chọn trước. Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất.

Như thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta “đông cứng” nhưng “đang trở thành”.

Trong những khó khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy con người mới có lẽ sắp được sinh ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm đông cứng người khác, đừng dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí óc Người. Tại sao Người đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói’ tiếng không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.

Ông đến gặp người thứ hai và cũng bảo như vậy nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?

Rõ ràng người con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý muốn. Và trong văn cảnh bút chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng đặt ra cho chính chúng ta. Bạn nghĩ gì về vấn đề đó? Người nào trong hai người con đã làm theo ý muốn của người cha?

Họ trả lời: “Người thứ nhất”

Thật vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chớ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tốc độ. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.

Nhưng chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là những ‘tín hữu’ nhưng ‘không hành đạo’. Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động.

Hoặc giả, chúng ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện…” mà thái độ của chúng ta có tương ứng với những lời tuyên bố cao đẹp ấy không? Nhưng chúng ta đã được cảnh báo: “nói” không quan trọng bằng “làm”. Người ta không đánh lừa được Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn tả: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Gioan 3,18).

Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.

Đức Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức long trọng. “Tôi bảo thật các ông!”. Khi Đức Giêsu sử dụng công thức này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều gì rất quan trọng. Vả lại ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh ngạc và gần như gây vấp ngã.

Bằng cách nào? Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về ‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’, những người tội lỗi bởi tình trạng đời sống, những người tội lỗi công khai chăng? những người thu thuế là những người thỏa hiệp với tiền bạc? Những cô gái điếm là những người thỏa hiệp về xác thịt?

Tuy nhiên, thật tệ hại khi tưởng tượng rằng Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự hoán cải.

Tội lỗi tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần đến Thiên Chúa! bất chấp đến Người. Và chúng ta biết rằng vào thời của Đức Giêsu những người tin rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho họ. Nhưng những người tội lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.

Nhà văn Péguy đã diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của tội lỗi, vốn là một điều xấu tự bản chất trở thành một điểm hút thấm đối với ân sủng. “Người ta đã thấy ân sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những gì đã bị hư mất’. Nhưng người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không “thấm nước”. Những con người tử tế lương thiện hoặc sau cùng những con người mang danh như thế mà tấm áo giáp của họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại cho họ điều gì”.

Phải chăng như những người tội lỗi mà Đức Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm để mong ước ân sủng cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?

Phải chăng tôi hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ hội chưa từng có, theo đường lối của Tin Mừng. “Những kẻ tội lỗi công khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Đức Giêsu nói về hạng người nào? Người nói với ai bằng “các ông”? Những hạng người tin rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào hạng người đó không?

Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con!

Vì ông Gioan Tẩy Giả đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.

Trong lúc dụ ngôn “hai người con” nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói” và ‘làm’ ‘giữa nói “có” trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác (Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi chút ít để đặt câu ấy ở đây để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra ở trước bài Tin Mừng này: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do trời hay do người ta?” (Mt 21,25).

Một lần nữa, qua những người đồng thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.

Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.

Đức tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: “Hôm nay con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy!”. Hoặc là người ta đáp ứng với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là qua những sự kiện cụ thể, người ta không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một từ không được dịch ra bất cứ ngôn ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu, đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các hành động” mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa: “Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi”. Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu lần?

Vì Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên Chúa (lCr 1,19).

 

  1. Chúa Nhật 26 TN A

Thưa quí vị. Xin ý tứ kẻo chúng ta mắc bẫy chống người Do thái trong Tin mừng hôm nay và hai Chúa nhật nữa, những tá điền độc ác và đám cưới nhà vua bị khước từ (Mt 22, 14). Trong đó Chúa Giêsu tuyên bố: “Kẻ được gọi thì nhiều kẻ được chọn thì ít”. Ám chỉ các đầu mục Do thái từ chối ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Phụng vụ cho chúng ta hay Chúa phải đối đầu với cấp lãnh đạo Do thái về sứ mệnh, giáo lý của Ngài. Giọng điệu bài đọc rất gay gắt, kể truyện hai người con trai, một người không vâng lời nhưng lại làm theo ý cha truyền, người khác mau mắn thuận theo nhưng lại từ chối công việc. Thánh Mattheo mở đầu bài đọc: “Đức Giêsu nói với thượng tế và kỳ mục trong dân…”Rồi ngài mượn lời Chúa Giêsu kết luận: “Phần các ông khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” Các tuần tiếp theo cũng tương tự. Nó là chứng cớ xung đột giữa Chúa Giêsu và quyền bính Do thái. Xung đột này phần nào vẫn tồn tại nơi cộng đoàn thánh Mattheo, nên thánh nhân ghi lại để giáo dục.

Ngày nay, hoàn cảnh có khác đi, nhưng não trạng thì vẫn vậy. Nói cho cùng không phải những lãnh đạo giết Chúa Giêsu, nhưng giáo lý của họ, cho nên có tác giả đã gọi giáo lý ấy là thủ phạm chủ yếu giết con Đức Chúa Trời (murderous theology = giáo lý giết người). Não trạng này vẫn tồn tại trong các tôn giáo suốt dòng lịch sử nhân loại. Cho nên chúng ta phải tránh những bất công, biến các lãnh đạo Do thái thành đao phủ, dùng họ như những thí dụ xấu cho một đức tin bảo thủ, từ chối thông điệp và con người Chúa Giêsu. Tốt hơn, chúng ta nên phân biệt rõ tội lỗi và tội nhân trong sứ điệp của bài đọc hôm nay, và tìm ra chân lý liên hệ với thời hiện tại. Người ta thường nói bản tính con người không thay đổi từ khi sa ngã, nếu có thay đổi thì cũng chẳng đáng kể. Tuy nhiên tuyên bố không áp dụng cho văn minh vật chất. Những người làm tôn giáo luôn có khuynh hướng biến việc tuân thủ lề luật và vâng lời thành hình thức biểu diễn như đóng kịch mà không có thực chất nâng đỡ. Hay dùng lời Chúa Giêsu: Họ nói mà không làm. Tức giảng dạy mà không thi hành. Ca tụng nghèo khó mà không thấy dấu chỉ nào trong cuộc sống của mình, dù tập thể hay cá nhân. Lúc này chúng ta nhìn vào bối cảnh của câu truyện: Quyền bính đền thờ thách thức Chúa Giêsu và Ngài phản ứng lại, hỏi xem phép rửa của Gioan Tẩy giả bởi đâu mà ra, bởi Thiên Chúa hay bởi nhân loại? (21, 25). Các lãnh đạo Do thái ương ngạnh không trả lời. Họ chỉ nói gọn nhẹ: Chúng tôi không biết. Bởi nếu công nhận nguồn gốc phép rửa ấy là Thần linh, họ cũng phải chấp nhận tính “bởi trời” của các việc Ngài làm. Vì thánh Gioan đã nói về Chúa Giêsu cho dân chúng nghe bên sông Giodanô: Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa (3, 11).

Tiếp tục Ngài kể cho họ dụ ngôn hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Ngài giữ họ trong câu truyện để tỏ rõ tính cứng đầu, cứng cổ của họ đối với giáo lý của Ngài. “Các ông nghĩ sao?” là câu hỏi Chúa đặt ra cho họ, rồi Ngài kết luận: “Ai trong hai người con đó làm theo ý cha mình?” Nói cách khác, ai trong hai hạng người của nhân loại thực hiện ý Đức Chúa Trời? Đĩ điếm hay thế lực đền thờ? Thật khó trả lời, bởi lẽ lương tâm là quan toà không dễ lừa dối. Giả dụ quyền bính đền thờ diễn lại câu truyện, hẳn họ phải từ bỏ lối sống hiện thời mà tin nhận Chúa Giêsu. Việc mà trong hoàn cảnh lúc ấy và cho đến muôn đời họ không làm được. Ngày nay cũng vậy thôi, nếu chúng ta không chịu đổi thay con tim và khối óc theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần, sự thật và lẽ phải. Rõ ràng thay đổi một cái nhìn khó biết bao! Chúa Giêsu mong đợi quyền bính đền thờ đổi thay não trạng từ nói “không” sang “có” với thông điệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời, như người con cả trong dụ ngôn. Ước mong của Ngài chẳng bao giờ thành hiện thực. Liệu chúng ta là thính giả ngày nay có làm Chúa vui lòng không? Chúng ta có giám từ bỏ giáo lý giết người, để ôm ấp quan điểm của Chúa Giêsu nhân ái và tốt bụng không? Người Do thái đã làm lỡ mất cơ hội, liệu chúng ta có khôn hơn họ mà mở lòng ra cho Lời Chúa thâm nhập? Chúng ta thường công khai tuyên xưng đức tin, nhưng ít khi thực hành đức tin ấy cho thiên hạ xem thấy, tương tự như thắp đèn rồi lấy thùng đậy lại. Trong bản tiếng Anh và nhiều thứ ngôn ngữ khác, dịch câu trả lời của người con dễ đưa đến hiểu lầm: “yes, sir” thưa ông vâng. Chính xác phải dịch là “Thưa Chúa, vâng” (kyrie). Tiếng Việt Nam khá hơn: “Thưa ngài, con đây”. Bởi lẽ câu này vang vọng lời Chúa trong một dịp khác: “Qủa thật, quả thật ta nói cho anh em hay, không phải bất cứ ai thưa với Thày “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thày, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (7, 21). Hai bản văn ăn khớp với nhau để nhấn mạnh tuyên bố của Chúa Giêsu và thánh ý của Đức Chúa Trời.

Nghĩa là Chúa mong đợi những ai theo Ngài, tuyên xưng đức tin vào Ngài, gọi Ngài là “Chúa”, thì phải thi hành những điều Ngài chỉ bảo. Dịp khác Chúa nói rõ hơn: Yêu mến Thày là tuân giữ các giới răn của thày. Cho nên vấn đề không phải của lãnh đạo Do thái mà thôi, mà mọi nơi, mọi thời. Tiên tri Ezechiel sau khi đã trưng ra sự trừng phạt Gierusalem và thời đi đầy, đã nói đến trách nhiệm cá nhân trong bài đọc một: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình, và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó làm mà nó phải chết”. Trách nhiệm chúng ta là phải làm theo ý Đức Chúa trời. Chúng ta phải phản ánh Lời Chúa trong cuộc sống mình. Khi cử hành Phụng vụ, cầu nguyện, làm việc thiện, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu bằng danh hiệu “Chúa”, thì phải thực hành những nội dung của lời kêu xin. Nhưng thường khi quyên lãng, vì vậy trước Thánh lễ hôm nay, chúng ta kêu xin Chúa: Lord have mercy, Christ have mercy, Lord have mercy: Xin Chúa thương xót, xin Chúa Kitô thương xót, xin Chúa thương xot. Nhưng tôi cam đoan chẳng ai dám nói rõ những ai là kẻ có lỗi, ai không? Cho nên dụ ngôn chỉ ra các trường hợp ăn năn thống hối để chúng ta noi gương. Người đời thường nói: Bộ diện va lời nói có thể lừa dối. Nếu thiếu phán đoán, khi thoạt nghe người con thứ nhất trả lời bố: con không đi. Chúng ta lập tức cho hắn là hư hỏng, không vâng lời cha. Cũng vậy, với người con thứ hai ngọt ngào: con sẽ đi, chúng ta liền cho hắn là đứa ngoan. Chúng ta vỗ lưng hắn khen, tốt quá, đứa con dễ bảo, và còn thêm: chắc chắn ba mày hãnh diện về mày. Nhưng thực tế có đúng như vậy đâu. Đứa con thứ hai mới là đứa con hư, không vâng lời bố. Bé cái lầm. Biết bao lần thiên hạ đã mắc bẫy như vậy, vì hồ đồ, tưởng tượng. Cầu xin Thánh Linh giúp chúng ta tránh được hoàn cảnh này càng nhiều càng tốt, tuy không tránh khỏi hoàn toàn vì yếu đuối con người.

Tôi cảm thấy rằng trong dụ ngôn, hai người con có rất nhiều thời gian và không gian. Sau lời đề nghị của bố, họ có cơ hội suy nghĩ, không vội vàng phản ứng. Người con thứ hai có thể chu toàn câu trả lời “có” của mình, không ai thúc giục và người con thứ nhất cũng có thể thay đổi ý kiến. Phải chăng thánh Mattheo đã cho chúng ta cơ hội để thi hành thánh ý Đức Chúa Trời? Nếu chúng ta nhận ra lẽ phải và lợi dụng thời gian. Các lãnh đạo Do thái cũng có cơ may như vậy. Họ có đủ thời giờ để vâng theo tiếng Chúa Giêsu kêu gọi. Nhưng họ cố tình bịt tai, bởi Chúa Giêsu không có địa vị nào khiến họ chú ý lắng nghe. Ngài chẳng qua là một thanh niên vô danh tiểu tốt, làm nghề thợ mộc, đi lang thang rao giảng những điều khác với truyền thống. Cho nên họ đã chất vấn Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều ấy”. Thực ra sự thật tự nó đã là một thứ quyền bính mà người ta không thể cưỡng lại được. Đến đây chúng ta lại thấy thành ngữ giáo lý giết người (murderous theology) là có lý. Bởi nó bịt mắt con người không cho phép trông thấy sự thật. Vì lẽ đó, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ, vì lầm không biết. Tin mừng là cuốn sách kể truyện đời xưa, nhưng cũng là cuốn sách của thời bây giờ. Vậy trước Thánh thể nó khởi động lại câu truyện của hai người con cho chúng ta suy nghĩ. Chúng ta cũng có nhiều thời giờ để lựa chọn: Thái độ của người con thứ nhất hay hành xử của người con thứ hai? chúng ta cùng nhau cầu nguyện để biết trả lời thế nào cho yêu cầu của “Chúa

” làm vườn nho cho Ngài trong cuộc sống hằng ngày, như là mỗi cá nhân? Phải trả lời thế nào cho Chúa mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Chúa chúng tôi trong thời đại đầy nhiễu nhương này? Thời đại đòi hỏi nhiều hy sinh chứng tá? Phải chăng vườn nho Giáo Hội đòi hỏi nhiều tay thợ “lành nghề” hơn là thợ chỉ biết khoa trương môi miệng? Liệu chúng ta có trung thực công bố danh thánh Đức Chúa trong cuộc sống mình? Nếu trung thực thì lời phán xét của Chúa trong ngày sau hết mà thánh Mattheo ghi lại không làm cho chúng ta sợ hãi. Trái lại vui mừng, vì danh Chúa đã được biểu dương, thờ phượng: “Xưa ta đói các ngươi đã cho ta ăn, ta khát các ngươi đã cho uống, ta mình trần các ngươi đã cho mặc, ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm.” (25, 31). Nếu không dụ ngôn còn cho ta cơ hội để cải tổ, nó khuyến khích chúng ta thay đổi suy nghĩ và khởi sự những chi con cái Thiên Chúa phải thực hiện để được vào Nước trời.

Một dòng chữ của dụ ngôn gây cho tôi ấn tượng nhất, an ủi và thách thức tôi nhất, là khi nói về người con thứ nhất. Dòng chữ đó là:” Hắn thay đổi ý nghĩ”. Thánh Mattheo viết như sau: “Nó đáp, con không muốn, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi”. Chi tiết nhỏ nhưng tính vĩ đại của nó nằm trong việc thi hành ý muốn của cha mình. Nhiều lần tôi trầm ngâm trước câu văn này: Nó bảo đảm với linh hồn tôi và mọi người rằng, cho đến lúc qua đời, chấm dứt mọi hành động thì chẳng có chi kết liễu, chẳng có chi cố định, chẳng có chi khoá chặt lại. Người ta còn cơ hội đổi thay. Không nhất thiết tôi vẫn tiếp tục nếp sống xưa cũ. Tôi còn khả năng thay đổi, còn khả năng trở nên hoàn thiện, bắt đầu một cuộc sống mới. Giây phút này là tội nhân, giây phút sau có thể là thánh nếu tôi tích cực nghe theo ơn Chúa Thánh Thần thúc giục. Vì vậy, thánh Phaolô trong bài đọc hai viết cho tín hữu thành Philipphê: “Thưa anh em nếu quả thật, sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta niềm an ủi, nếu tình bác ai khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn ven.” Thánh nhân kêu gọi sự thánh thiện nơi các tín hữu, trở về với cảm tính thiêng liêng. Ngài khuyên nhủ họ trong Đức Kitô để cùng nhau dự yến tiệc hiệp thông trong Thần khí: Bắt chước Đức Kitô tận thâm tâm, từ đó nẩy sinh vui mừng và an ủi. Thánh nhân đã dùng đến công thức ba ngôi trong lời kêu gọi: liên kết với Đức Kitô, khích lệ của Chúa Cha (bác ái) và hiệp thông trong Thần khí. Lời kêu gọi như vậy rất mạnh mẽ. Các tín hữu Philipphê phải nên thánh, trở về cùng Đức Chúa Trời, thi hành thánh ý Ngài như người con cả trong dụ ngôn hôm nay. Sau đó ngài cao hứng chép toàn bộ lời kinh Phụng vụ của cộng đoàn tín hữu tiên khởi, ca tụng nhân đức của Chúa Giêsu. Bài ca này, Phụng vụ cho chúng ta đọc thường xuyên trong kinh chiều, ngõ hầu nhớ lại gương sáng của Chúa Giêsu trong đời sống tín hữu.

Như vậy trước thánh thể hôm nay, chúng ta được Chúa kêu gọi thay đổi cuộc sống. Thánh thể là của ăn thức uống nuôi dưỡng ước vọng ấy. Tôi nghe như người con cả trong thâm tâm khích lệ mình quay trở về với lời mời gọi của Thiên Chúa, thay đổi não trạng và nếp sống. “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Là lời cảnh cáo nghiêm khắc, nếu tôi không thay đổi con người mình. Chúa không đưa ra lời doạ dẫm trống rỗng, nhưng là một lời khuyên chân thật. Liệu tôi có đủ thiện chí lắng nghe? Cuộc đời tôi đã rập khuân theo những thói quen khó bỏ, gần giống như bản tính thứ hai. tôi có nhiều nguy cơ chống lại lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Thánh Thần. Giống như người con thứ hai, mau mắn vâng lời cha, nhưng kỳ thực vẫn ù lỳ trong các thòi xấu của mình: ươn lười, hưởng thụ, tiện nghi, dễ dãi, khoái lạc. Lạy Chúa Giêsu, đấng kể dụ ngôn cho nhân loại, xin thức tỉnh lương tâm chúng con. Amen. Fr. Jude Siciliano, op.

 

  1. Suy niệm của Fr. Jude Siciliano

Thật là xót xa khi ai đó hứa giúp đỡ chúng ta trong cơn hoạn nạn. Nhưng rồi lại không thực hiện. Việc đó làm chúng ta bối rối và thất vọng. Thà không có những lời lừa gạt đó thì hơn. Tôi biết, ngay sau khi người cha của hai đứa trẻ vừa qua đời. Chị vợ lo lắng không biết phải làm thế nào nuôi con. Họ hàng đến thăm hỏi rất đông. Họ động viên và nói: “Đừng lo, đã có chúng tôi đây”. Người vợ tạm an lòng. Nhưng rồi người giữ lời, người không. Nỗi lo âu của chị ta tăng lên, khi các người tới thăm thưa dần. Chị nhớ lại: “Những người không hứa gì cả thì thường là những người bền bỉ giúp đỡ các cháu, những người hăng hái nhất lại bỏ rơi gia đình sớm nhất.” Đời là như vậy, chúng ta không nên trách cứ họ, bởi họ còn phải nghĩ đến những công việc khác, như vất vả lao động nuôi sống bản thân và gia đình riêng của mình. Nhưng phần đông là vô tâm, kể cả trong gia tộc, họ hàng, bạn bè, và thân thuộc.

Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cũng bắt đầu bằng hiện tượng quen thuộc đó, nhưng Ngài nâng cao lên bình diện quan trọng hơn: bình diện tôn giáo. Những người biệt phái, các cấp lãnh đạo tinh thần trong dân đáng lý ra phải nhận biết tiếng Thiên Chúa kêu gọi và trả lời “có” trước sứ vụ của Chúa Giêsu. Nhưng họ đã từ chối, thậm chí còn đặt vấn đề cho những lời Ngài nói, những việc Ngài làm (Mt 21, 23-27). Ngài đã chỉ ra những bất toàn trong việc thờ phượng của họ tại đền thờ, trong dân gian, nhưng thay vì suy nghĩ lại, họ đã nổi giận. Dân chúng muốn sử dụng danh hiệu thiên sai “Con vua Đavit” để tôn vinh Ngài. Thế lực đền thờ hung hăng cấm đoán. Họ chất vấn quyền bính của Ngài và thánh Matthêo đã lợi dụng cơ hội để xác định vấn đề trong suốt Phúc Âm (vd. 7,20; 9, 6-8). Ngay cả đến cuối Tin Mừng, thánh nhân còn hạ bút: “Mọi quyền năng trên trời, dưới đất đã được ban cho Thầy, vậy anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (21,18). Điều nghịch lý ở đây là cứ như quyền hạn và chức vụ chính thức thì những người đầu mục Do Thái phải nhận ra sứ vụ của Chúa Giêsu trước hết và hoạt động tích cực cho công trình giải phóng dân tộc khỏi áp bức tội lỗi. Nhưng thực tế đám dân mù chữ, dốt nát lại làm việc này.

Dụ ngôn hôm nay là một trong ba dụ ngôn Chúa Giêsu đặc biệt hướng về những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Hai dụ ngôn khác là những tá điền sát nhân và đám cưới con trai nhà vua. Trong đó có thành ngữ “Kẻ được gọi thì nhiều, người được chọn thì ít” (Mt 22, 14). Họ nhất quyết đối đầu với Chúa Giêsu, gài bẫy và bắt bẻ Ngài. Nhưng Chúa Giêsu quay ngược tình thế. Cuộc đối thoại giữa người cha và hai con kết thúc bằng câu hỏi: “Ai trong hai đứa con thi hành ý muốn của cha?” Câu trả lời tự nhiên là người con thứ nhất. Như vậy là họ tự lên án mình.

Dụ ngôn có hai ám chỉ rõ ràng: Người Pharisêu và những kẻ ngoài vòng đạo đức truyền thống. Những công nhân vườn nho đến muộn: gái điếm, thu thuế, xì ke.… Những người này do hoàn cảnh sống của mình thoạt đầu nói “không” cho những giá trị đạo đức. Nhưng khi Chúa Giêsu mời gọi, họ đã thật lòng ăn năn và nói “Có” cho những đòi hỏi của Ngài.

Văn thể trong truyện này khá độc đáo: thay vì trực tiếp lật tẩy tính đạo đức giả của các đối thủ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi ai đã thi hành thánh ý Đức Chúa Trời, để họ tự kết án mình bằng chính miệng lưỡi mình. Tuy nhiên, câu hỏi chẳng dừmg lại ở những lãnh đạo Do Thái, nó cũng liên hệ thẳng thắn đến mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi dưới ánh sáng của Chúa Giêsu, kiểm tra lại lương tâm, chúng ta trung thành thế nào đối với lời mời gọi của Chúa Giêsu?

Dĩ nhiên chúng ta đã chịu phép thánh tẩy, dĩ nhiên trong quá khứ chúng ta đã phục vụ Chúa trong gia đình, ngoài xã hội. Nhưng thử hỏi chúng ta còn nhạy cảm với tinh thần của Ngài nữa không? Chúng ta còn sẵn sàng dấn thân như Ngài không? Mỗi ngày các cơ hội xảy đến, chúng ta còn nói “Có” như lúc ban đầu mới trở lại? Xin nhớ luôn rằng Chúa Giêsu đã nói với đám đông: “Không phải bất cứ ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước Trời cả đâu, mà chỉ những người làm theo thánh ý Đức Chúa Trời” (Mt 7, 21).

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải luôn can đảm nói “Có” trong rất nhiều tình huống, phải lương thiện và trung tín với những lời thề hứa cùng Thiên Chúa, ví dụ trong hôn nhân, bạn bè, con cái, phải bảo toàn tính nguyên vẹn đạo đức trong nhân cách, nơi sở làm, hội hè, đình đám… giống như một sinh viên, chúng ta theo đuổi không những kỹ năng nghề nghiệp mà còn phải lọc lựa những cái chi tốt, cái chi thật trên đời. Những cuộc năng rà soát lại lương tâm mới cho chúng ta thấy rõ những lần tích cực và tiêu cực trong sự dấn thân của mình. Thánh Matthêo khởi sự bài giảng trên núi bằng Tám Mối Phúc. Ngài tiếp tục cho thấy người ta chỉ được “Phúc thật” khi trung thành theo chân Chúa Cứu Thế, sống như Ngài, hy sinh như Ngài. Con đường của Ngài là con đường hòa bình, hòa giải, khiêm nhu, hiền hòa và làm chứng nhân cho sự thật, lẽ phải. Chúng ta không thi hành lý tưởng đó một mình, cần có ơn Chúa giúp đỡ. Đó là điều phải cầu xin ở thánh lễ này!

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gợi lại cho dân chúng ký ức về Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài là vị ngôn sứ rao giảng không mệt mỏi về triều đại Thiên Chúa đang đến gần. Phải thay đổi não trạng và cách sống, mới được nhìn thấy triều đại ấy. Phải nói “Có” với những đòi hỏi của Thượng Đế bằng cách mang nhiều hoa trái tốt. “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3, 8). Thánh nhân nhấn mạnh với các Biệt phái và nhóm Saduceo rằng, bất chấp tội lỗi quá khứ, bất chấp lối sống băng giá trong lề luật, không ai sống ngoài phạm vi ơn thánh của Đức Chúa Trời. Điều này đúng ngay cả với những linh hồn trụy lạc như gái điếm, người thu thuế mướn. Họ vẫn có thể và cần thay đổi nếp sống, cách suy nghĩ mới nên trọn hảo được.

Chúng ta đã nghe tỏ lời mời gọi chưa? Đã dự tính đổi thay nếp sống? Bao nhiêu lần thành công? Bao nhiêu lần thất bại? Nhưng dù sao bằng dụ ngôn này, hôm nay Lời của Thiên Chúa lại đến với chúng ta. Tinh thần của Chúa Giêsu lại thúc bách chúng ta phải thay đổi những chi cần đổi thay. Hy vọng, nhiều hoặc ít, lần này chúng ta thật sự làm một cuộc cách mạng đổi đời, bởi đã nghe rõ lời kêu mời của Thiên Chúa và kinh nghiệm Chúa Kitô sống động trong những lời đó. Bài đọc hai, thánh Phaolô mô tả Đức Kitô như tiếng “Có” muôn đời cho thánh ý Đức Chúa Cha. Ngài thực sự đáp trả Thiên Chúa bằng lời nói và việc làm. Tiếng xin vâng của Ngài không bao giờ rút lại, ngay cả khi đối mặt với sự chết! Phần chúng ta, trước mặt Ngài chỉ là những môn đệ chao đảo, lúc thế này, khi thế khác, kể cả phản bội. Thế thì phải làm chi trước Thánh lễ hôm nay? Xin hãy sốt sắng rước Ngài vào linh hồn mình. Tinh thần của Ngài sẽ làm chúng ta vững chắc trong các quyết định của mình. Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta luôn nói “Có” với Thiên Chúa như Ngài đã thực hiện.

Ai trong chúng ta còn cảm thấy lẻ loi, sống như người ngoài cuộc? Bao nhiêu linh hồn cô đơn lạnh giá? Bao nhiêu thợ làm vườn muộn màng? Thiên Chúa có sẵn một bản thời gian kỳ lạ! Đến trước không chắc gì đã là chỗ nhất! Đồng hồ của Ngài là đồng hồ ơn thánh. Sau có thể thành trước, trước có lẽ thành sau! Lúc nào nhân loại cũng được mời gọi ăn năn thống hối, lúc nào Ngài cũng chờ đợi chúng ta nói “Có” với ơn Ngài ban.

Xin hãy mạnh dạn đồng ý với Ngài một lần nữa và chờ đợi điều chi sẽ xảy ra trong linh hồn mình! Là những nhà mô phạm và dạy dỗ, chúng ta có trách nhiệm ghê gớm về lời nói và việc làm. Xin hãy coi xem hành động có am hợp với lời mình phát biểu.

Trong dụ ngôn này các bậc làm cha mẹ, cô dì, chú bác, các chính trị gia, thần học gia tức là tất cả những ai có bổn phận giáo dục, phải coi lại hành vi của mình, có thực danh chính ngôn thuận? Hay dùng kiểu nói của các tù nhân: Bước đi trong lời nói của mình (walk the talk). Chỉ lúc ấy chúng ta mới nhận ra rằng sự đáp trả của mình là trung thực. Amen

Bài đọc thêm: Ai đắc đạo?

Tôi có người bạn thân, trí thức. Anh học giáo lý rất chăm chỉ nhiều năm. Tuy nhiên mỗi lần đề nghị anh trở lại đạo, chịu bí tích thanh tẩy (rửa tội) anh từ chối ngay. Gạn hỏi, anh kể cho tôi câu chuyện như sau:

Ở Tích Lan, có một nhà sư nổi tiếng. Thiện nam tín nữ đến nghe ông thuyết pháp rất đông. Chuyện đến tai nhà vua, vua cho vời sư ông tới giảng giải giáo lý nhà Phật cho bá quan văn võ. Chính vua cũng không vắng mặt buổi nào. Sau đó vì ban ngày bận việc triều đình nên nhà vua thường lẻn khỏi hoàng cung ban đêm để tìm nghe nhà sư thuyết giảng. Hai người đưa nhau lên mỏm núi cao ngồi.

Một hôm, khi đang nghe Phật pháp bỗng trông thấy hoàng cung bốc cháy. Nhà vua vẫn bình tĩnh ngồi nghe không tỏ vẻ quan tâm chút nào. Khi chấm dứt bài giáo lý, sư ông hỏi: “Lúc nãy hoàng cung cháy bệ hạ không lưu ý sao?” Nhà vua trả lời: “Cháy đền này, ta xây cái khác. Còn chuyện đạo pháp không như thế được”.

Đêm hôm sau, hai người lại trông thấy ngôi chùa, nơi nhà sư tạm trú, bốc cháy. Nhà sư bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên. Đức vua hỏi duyên cớ làm sao? Sư ông trả lời: “Hạ thần còn để quên cái khố ở trong chùa.” Nhà vua đắc đạo, sư ông thì không. Đây là lý do tại sao tôi không dám vào đạo. Sợ rằng sau đó cũng như nhà sư thôi.

Nói xong anh bạn nhắm mắt, rùng mình. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh.

 

  1. Thái độ cảnh tỉnh

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để trình bầy giáo lý của Ngài trong chúa nhật hôm nay vẫn là vườn nho.Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối hình ảnh vườn nho,nghĩa là nước trời,Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại.Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách dí dỏm,thú vị, giúp mọi người hiểu được ý Chúa muốn nói. Người Cha trong trích đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giầu lòng thương xót, luôn chạnh lòng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi,yếu đuối.Người cha một hôm nói với đức con cả: “Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp cha nhé “. Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là một lời mời gọi.

Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ý nghĩa của sứ điệp Tin Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái nghịch lý ở đây là người con cả nói “không”, nhưng sau đó nghĩ lại và đi làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đình.Người con cả đã biết hy sinh lợi ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đình lên trên. Còn người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha “vâng, con sẽ đi “. Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người con thứ thưa “vâng” để nhằm mập mờ đánh lận con đen.Vâng, nhưng không làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đình và người ở ngoài xã hội. Người con cả xác định lập trường của mình, nói lên sự tự do của con người mình, nhưng cuối cùng người con cả đã biết vượt lên tất cả để chọn lựa điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đòi hỏi sự quả cảm và tình thương. Chính vì có lòng tốt,con tim nhậy cảm, ánh mắt biết nói, nên người con cả đã làm theo ý cha của mình. Còn người con thứ chỉ sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy lòng của anh đã hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đã biểu lộ thái độ của mình ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp với lời Chúa Giêsu: “Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Chúa”. Thánh ý Chúa phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của mình.

Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy Lạp, La Mã, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định: “Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi “.Chúa Giêsu đã nói:” Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc,nhưng là những kẻ ốm đau “.Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt phái, luật sĩ,kỳ mục, thượng tế đã quan niệm Thiên Chúa như một vị quan tòa ác nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả hình, làm bộ. Họ thích khoe khoang,tự mãn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bầy đặt để bắt buộc người khác làm,thực hiện chứ họ thì hoàn toàn không làm gì hết như Chúa Giêsu đã từng nói:…một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ tự kiêu, tự mãn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Ao thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn vv#Đạo như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa Giêsu đã không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con người để thưởng phạt, tất cả đều do tình thương nhưng không của Chúa. Chìa khóa dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn:”Hãy hối cải vì nước trời đã gần”(Mt 3,2).

Thái độ của con người sẽ làm chứng cho việc vào nước trời của họ vì ơn cứu độ của Chúa dành cho tất cả những ai biết mở lòng đón nhận và tin tưởng vào cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá.”Khi nào Ta được nâng cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “.

Theo Chúa là chấp nhận con đường hẹp.Thánh Phaolô đã có lần nói:”Anh em có thì nói có, không thì nói không “. Theo Chúa,con người luôn phải sống trong những trái ý của mình. Theo Chúa là chấp nhận vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa.Theo Chúa là chấp nhận không thỏa hiệp,cương quyết sống sứ mạng của các ngôn sứ. Trong cuộc đời có nhiều trái ý,có nhiều điều chướng tai gai mắt,thỏa hiệp là đi ngược với Tin Mừng. Theo Chúa,con người không được sống giả hình,bề ngoài,nhưng phải sống với con người thật của mình. Điều gì tốt ta làm,điều gì xấu dứt khoát ta phải tránh xa.

 

  1. Gái điếm vui vẻ vào Nhà Cha

(Suy Niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)

Giã từ Galilê, Chúa Giêsu cùng các môn đệ tiến về Giêrusalem – nơi Người giảng dạy, chịu khổ nạn và chịu chết như Người đã loan báo. Chính tại đây, không ít lần Chúa Giêsu đụng chạm với nhóm thượng tế và kỳ mục dân Dothái. Chúng ta thấy dường như nhóm người này được cất nhắc lên không phải làm lãnh đạo, làm thầy dạy cho dân mà để rình mò, gài bẫy, lên án và chất vấn Chúa Giêsu về mọi lãnh vực. Chính vì thế mâu thuẫn nảy sinh giữa Chúa Giêsu và họ mỗi ngày càng thêm nghiêm trọng. Trong khi giảng dạy, thấy cảnh chướng tai gai mắt xảy ra nơi Đền thờ, Chúa Giêsu đã đánh đuổi bọn buôn bán ra khỏi nơi thờ phượng. Nhóm thượng tế và kỳ mục lấy làm khó chịu bởi lẽ Chúa Giêsu đang đụng đến “nồi cơm” của họ. Bởi thế họ lên tiếng chất vấn Người đã dùng quyền bính nào để làm những điều ấy. Trong bối cảnh đó, dụ ngôn “hai người con” ra đời không chỉ là câu trả lời mà còn là lời lên án của Chúa Giêsu nhắm trực tiếp vào nhóm người này.

Câu chuyện xem ra đơn giản và dễ hiểu về nội dung nhưng lại sâu sắc về mặt đạo lý. Các thượng tế và kỳ mục – dĩ nhiên, trả lời rất chính xác câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho họ. Với câu trả lời này, vô hình trung, chính họ đã tự buộc mình, tự kết án chính mình. Bởi Chúa Giêsu đã không ngần ngại sánh ví họ như đứa con thứ hai vâng vâng dạ dạ lời dạy của cha nhưng rồi chẳng thực thi lời cha truyền. “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Ở đây Chúa Giêsu không có ý nói rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước, còn mấy ông thượng tế và kỳ mục vào sau. Trong ngôn ngữ Sêmít, “trước” ở đây không phải hiểu theo nghĩa “trước – sau” mà được hiểu theo nghĩa “được- mất”. Theo đó, những người thu thuế và những cô gái điếm vào được nước Thiên Chúa, còn các ông thượng tế và kỳ mục thì không được vào.

Lý do mà các vị thược tế và kỳ mục Dothái không được vào nước Thiên Chúa là bởi vì họ không tin theo đường công chính mà Gioan Tẩy Giả rao giảng cũng như không chấp nhận sự hiện diện của Chúa Kytô ở trần gian này. Họ vâng vâng dạ dạ với Thiên Chúa nhưng kỳ thực là để cố thủ, gắn bó với lề luật một cách giả tạo. Họ tự tạo ra trăm ngàn khoảng luật và tự cho mình là đã gắn bó và vâng lời Thiên Chúa. Thực ra, những con người này chỉ nấp đàng sau lề luật, mượn danh lề luật để từ chối sứ mạng của Gioan Tẩy Giả cũng như tìm mọi cách khước từ lời rao giảng của Chúa Giêsu – người mà họ biết là có uy quyền và sức quyến rũ lạ thường. Họ cố thủ trong thành trì lề luật của họ để không ngừng chỉ trích, lên án lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận cách giáo huấn cũng như con người Chúa Giêsu. Không đón tiếp Chúa Giêsu cũng đồng nghĩa với việc họ từ chối con đường dẫn vào nước Thiên Chúa.

Ngược lại, những người thu thuế và những cô gái điếm là những người được xem là công khai hoá đường tội lỗi của mình, bị người Dothái và đặc biệt là mấy ông thượng tế và kỳ mục liệt vào hạng “hết thuộc chữa”, là loại thối tha, đáng nguyền rủa,… lại được Chúa Giêsu sánh ví và khen ngợi như người con thứ nhất trong dụ ngôn. Sánh ví và khen ngợi những con người này, Chúa Giêsu không hề cổ xuý cho những hành động tội lỗi công khai của họ. Hơn ai hết, Chúa Giêsu là người lên án mạnh mẽ sự ác và tội lỗi cũng như không bao giờ Người thoả hiệp theo đường tội lỗi. Chúa Giêsu trân quý họ bởi vì những con người này từ chỗ coi thường sự công chính, không chấp nhận sự ràng buộc của lề luật, chôn vùi cuộc đời trong vũng lầy tội lỗi,… đến chỗ họ ý thức về đường tội lỗi của mình để rồi hối cải ăn năn và tìm về với lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả cũng như tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu.

“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Mấy ông thượng tế và kỳ mục Dothái thường hay khoe khoang lòng đạo đức của mình, vênh vang với người khác về việc mình thực thi nghiêm chỉnh giới luật của tiền nhân, tự đắc vì mình luôn trung thành với truyền thống giao ước của Giavê. Họ tự cho rằng mình đã “đắc đạo”, đã giác ngộ và không cần phải phản tỉnh, không cần phải duyệt xét lối sống nhầy nhụa sự ô uế vốn được sánh ví như mồ mả tô vôi. Thế nên, mãi mãi họ cũng chỉ là những con người chỉ biết dùng đầu môi chót lưỡi để xưng tụng danh thánh Chúa nhưng lòng dạ thì ngập tràn kiêu căng và tự mãn, mãi mãi họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm, những người không sống theo nguyên tắc, theo luật lệ, luôn luôn chống đối, nhưng lại biết phản tỉnh, biết thay đổi thái độ, biết nhận ra những giới hạn của bản thân, biết hoán cải để đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Chính vì thế, cửa trời rộng mở đón tiếp họ bởi họ đã biết tiếp nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, của Chúa Giêsu và đã thành tâm hoán cải, trở về nẻo chính đường ngay.

Ý thức thân phận yếu hèn, tội lỗi và không ngừng thống hối ăn năn được xem là điều kiện tiên quyết, là chìa khoá để được vào nước Thiên Chúa. Thiên Chúa không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không ưa thích những câu chúc tụng trống rỗng chỉ nhằm loè thiên hạ. Ơn cứu độ chỉ thực sự ban cho những ai biết mở lòng mình ra đón nhận Lời Chúa Kytô, biết phản tỉnh và thực thi thánh ý của Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay, một lần nữa nhắc nhở chúng ta: Những người thu thuế và những cô gái điếm vui vẻ hân hoan đến rơi lệ bước vào nước Thiên Chúa, còn chúng ta thì sao?…

 

  1. Suy niệm của Lm Giuse M. Nguyễn Hưng Lợi

CON NGƯỜI ĐƯỢC TỰ DO VÌ PHỤC VỤ THIÊN CHÚA

Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem trong tiếng la to, cổ võ của một đám đông dân chúng. Họ hô vang:” Hosanna”, con vua Đavít. Tuy nhiên, các người Biệt phái, Luật sĩ, Thượng tế, kỳ lão và những người Do Thái, ghen tức, căm phẫn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không chịu dừng bước, Ngài nhất định vào Giêrusalem. Trong bối cảnh ấy, Chúa Giêsu luôn gặp sự quấy rầy của các thượng tế và kỳ lão, họ đến chất vấn Ngài về uy quyền nào đã cho phép Ngài nói và hành động như vậy:” Do quyền nào ông đã làm điều đó, và ai đã ban cho ông uy quyền đó”(Mt 21, 33). Tuy nhiên, Chúa Giêsu từ chối trả lời của họ bao lâu họ còn né tránh câu hỏi của Ngài:” Phép rửa của Gioan từ đâu đến, từ trời hay từ con người”(Mt 21, 44). Trong sự tranh cãi gay gắt giữa những vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó và Chúa Giêsu, Chúa Giêsu đã cho họ một lời cảnh báo mạnh mẽ sau cùng: ” Dụ ngôn hai đứa con trai được sai đi làm vườn nho “

Đọc dụ ngôn này, chúng ta cảm thấy sâu xa ngụ ý của Tin mừng matthêu 21, 28-32. Đoạn Tin mừng này hàm ẩn một vẻ đạm bạc đặc biệt, ở đây, chúng ta bỏ qua mọi chi tiết phụ để chỉ làm nổi bật sự tương phản hầu như hoàn toàn đối nghịch của hai người con. Tương phản trong thái độ ban đầu của hai người con. Người con thứ nhất xem ra đã cư xử một cách bộc trực, vụng về khi người con này phản đối thẳng thừng lời đề nghị đi làm của người cha. Người con thứ nhất đã phản ứng dứt khoát, nhưng rất hời hợt và có vẻ như không hề suy nghĩ khi trả lời:” Tôi không muốn đi “. Trái lại với người con thứ nhất, đứa con thứ hai đã tỏ vẻ kính cẩn, nhuộm mùi khúm núm khi cha nó đề nghị nó đi làm trong vườn nho. Nó thưa:” Vâng, thưa cha”. Với thái độ kính cẩn này, chúng ta có cảm tưởng như người con thứ hai sẽ chấp hành nghiêm túc lời đề nghị của người cha. Tuy nhiên, hai thái độ hai thái cực, hai lời ứng đáp rất khác nhau nhưng cũng tỏ rõ lập trường của mỗi người con. Người con thứ nhất trả lời thẳng thừng với cha không đi, nhưng rồi nó hối hận, sự thống hối thúc đẩy nó vâng lời, nó đã vui vẻ trở lại và đi làm trong vườn nho. Người con thứ hai tỏ vẻ khúm núm và tỏ ra kính cẩn vâng phục nhưng cuối cùng nó chẳng làm gì hết.

Khi hiểu rõ thái độ, cung cách ứng xử của hai người con. Chúa Giêsu quay lại phía người chất vấn Ngài và hỏi họ:” Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha?”. Tất cả chỉ có thể đồng loạt trả lời:” người con thứ nhất “. Rõ ràng, người con thứ nhất được phán xét theo việc làm, hành động của nó, chứ người ta không dựa trên lời nói ngoài môi miệng mà thôi. Đọc đoạn Tin mừng này, nhân loại và mỗi người chúng ta không khỏi ngỡ ngàng khi Chúa Giêsu chuyển qua việc áp dụng dụ ngôn. Chúa Giêsu đã đặt họ trước hai sự việc: vừa tự phán xử, vừa tự kết án mình:” Thật, Ta bảo thật các ngươi: những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Vì Gioan tẩy giả đã đến với các ngươi, sống công chính và các ngươi không tin vào lời Ngài, trong khi những người thu thuế và đĩ điếm đã tin. Còn các ngươi, cả sau khi đã chứng kiến điều ấy, các người vẫn không hối cải, không tin lời Ngài”. Các thượng tế và kỳ lão trong dân xem ra rất gắn bó với lề luật và giữ tỉ mỉ lề luật, nhưng chỉ hình thức mà thôi. Họ ẩn núp, lấy chiêu bài lề luật để từ chối sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như họ đã từ chối tin vào sứ mạng của Gioan tẩy giả. Họ né tránh ý Chúa. Những người sống ở ngoài, những người không đạo, bị người Do Thái và xã hội khinh bỉ lại là những người đã đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu, cũng như lời rao giảng của Gioan tẩy giả. Họ đã hoán cải và tin vào Tin mừng, tin vào lời của Đức Giêsu.

Đoạn Tin mừng Mt 21, 28-32 và ý hướng của Chúa nhật này là Hội Thánh luôn mở rộng đón nhận mọi người miễn là những người tội lỗi biết ăn năn, hối cải và quay trở về với Chúa. Điều cốt lõi là tấm lòng chứ không phải là những người chỉ kêu “Lạy Chúa, lạy Chúa ngoài môi miệng”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mau mắn và sẵn sàng vâng theo lời Chúa.

 

  1. Đức tin và hành động

(Suy niệm của Lm Trần Thanh Sơn)

Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, nằm trong phần cuối sứ vụ tại thế của Đức Giêsu. Hiện tại, Ngài đã khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Mt 21, 1-11). Khi thấy dân chúng buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã đánh đuổi họ (x. Mt 21, 12-17). Thấy thế, các Thượng Tế và niên trưởng trong dân đã đến chất vấn Đức Giêsu: Ngài đã nhân danh quyền năng nào mà làm những việc đó. Để trả lời, Đức Giêsu đã chất vấn lại họ về thái độ của họ đối với lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (x. Mt 21, 23-27). Tiếp đó, Ngài nói tiếp ba dụ ngôn để nhắc nhở về thái độ cứng tin của họ trước sứ điệp của Thiên Chúa.

Dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe hôm nay là dụ ngôn đầu tiên trong ba dụ ngôn đó. Với dụ ngôn về hai người con này, Đức Giêsu muốn cảnh cáo thái độ cố chấp của những người Luật sĩ và Biệt phái. Họ đã nghe lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, đã nghe lời rao giảng và chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Thế mà họ vẫn không tin, thậm chí còn nhân danh niềm tin để âm mưu hãm hại Đức Giêsu. Điều đó, cho thấy giữa lời tuyên xưng đức tin và hành động để chứng minh niềm tin của con người có một khoảng cách đôi khi thật gần, nhưng lắm lúc cũng thật là xa.

Dụ ngôn hôm nay kể lại, người kia có hai người con. Ông đến nói với người con thứ nhất đi làm vườn nho cho Cha. Người này nói “Không”, nhưng sau đó hối hận, anh ta lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại, anh ta mau mắn đáp lại: “Thưa Cha, vâng, con đi”, nhưng cuối cùng anh ta lại không đi.

Trước hết, chúng ta cùng quan sát người con thứ hai. Anh ta khi nghe cha bảo đi làm vườn nho, anh ta đã thưa “Vâng” thật mau mắn, nhưng cuối cùng anh ta chẳng làm gì. Khi đọc đến đây, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta chê trách anh vì đã nói mà không làm. Tới đây, tôi nhớ một câu chuyện vui như sau:

Tại một giáo xứ nọ, cứ mỗi năm có một chủ đề sống. Chủ đề năm ấy là “Mau mắn quảng đại chia sẻ cho người nghèo”. Vào cuối dịp tĩnh tâm đầu năm, Cha xứ muốn mỗi người nói lên quyết tâm của mình trong ngày đầu năm, Ngài hỏi:

– Ông Hai! Ông có sẵn sàng sống bác ái chia sẻ theo chủ đề của Giáo xứ không?

– Vâng! Con nhất trí ạ!

– Vậy, nếu ông có hai con bò, ông sẽ góp quỹ tặng cho người nghèo một con chứ?

Ông Hai hiên ngang trả lời trước Cha xứ và cộng đoàn:

– Đương nhiên rồi thưa Cha!

– Nếu ông có hai căn nhà, ông hứa dâng một căn nhé!

– Bảo đảm trăm phần trăm với Cha.

– Nếu ông có hai con gà, ông sẽ nhường lại cho người nghèo một con gà, phải không?

– Ồ, không được, thưa Cha.

Cha xứ ngạc nhiên hỏi:

– Sao vậy? Tôi không hiểu. Sao nãy giờ, ông luôn nói đồng ý mà bây giờ, ông lại nói không?

Ông Hai thành thực thú nhận:

– Những thứ trước, Cha hỏi, nhà con không có, còn gà, nhà con có nhiều ạ!

Thế đó, ông Hai đã sẵn sàng nói sống bác ái, nhưng với những gì không đụng chạm đến cuộc sống của ông. Còn nếu việc bác ái đó cần đến một sự hy sinh nào đó của chính bản thân, cho dù đó chỉ là một con gà, thì ông không dám. Hình ảnh người con thứ hai và ông Hai trong câu chuyện trên đây, có lẽ một cách nào đó, đây cũng là hình ảnh của tôi và quý ông bà anh chị em. Chúng ta vẫn lớn tiếng tuyên xưng rằng mình mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình trong Nhà Thờ này, nhưng khi trở về trong cuộc sống, có lẽ tôi và quý ông bà anh chị em chưa thực sự sống bác ái như Chúa muốn. Chúng ta còn quá nhiều ganh tị, hờn ghét, lười biếng, đam mê và ích kỷ. Chúng ta còn để cho lòng tự ái và những điều thấy trước mắt lôi cuốn mình. Chúng ta chưa sống đúng với lời miệng chúng ta thưa với Chúa. Hay tắt một lời chúng ta nói nhiều mà chưa sống được bao nhiêu.

Còn người con thứ nhất mặc dù đã trả lời “Không”, nhưng sau đó, anh ta đã hối hận và đã ra đi. Trong thân phận con người, với kinh nghiệm của bản thân, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, con người của chúng ta thật là yếu đuối, bất toàn. Biết bao điều lầm lỡ, yếu đuối chúng ta không muốn mà chúng ta vẫn làm (x. Rm 7, 15. 19. 24). Nhưng dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta. Ngài vẫn chờ chúng ta trở về để cứu sống chúng ta, như lời Ngài nói qua miệng ngôn sứ Êdêkien mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết.”. Người con thứ nhất đã nói “Không” trước lời mời gọi của Cha, nhưng sau đó anh ta đã hối hận và ra đi làm vườn nho. Anh ta hối hận vì anh nhận ra lời từ chối của mình đã làm cho Cha buồn, đã phụ lại với lòng mong mỏi, yêu thương của Cha mình.

Như thế, bước đầu của việc trở lại đó là lòng thống hối, hay đúng hơn để có thể trở lại, chúng ta phải thật lòng khiêm tốn, nhận rằng mình là kẻ có tội, nhận rằng mình đang còn bất toàn, và thiếu thốn.

Có lẽ tới đây, lời Chúa hỏi những người đối thoại với Chúa cũng là đang hỏi tôi và quý vị: “Các ông nghĩ sao? Ai trong hai người con đã làm theo ý Cha mình?”. Và câu trả lời của chúng ta chắc hẳn là: người con thứ nhất. Vâng, đúng như vậy, ý của cha là đi làm vườn nho và anh ta đã làm đúng điều đó. Còn những điều khác không quan trọng.

Tuy nhiên, thái độ đẹp lòng Cha hơn cả có lẽ đó là thái độ của người con thứ ba. Người con mà bài Tin mừng hôm nay không nói đến, nhưng được thánh Phaolô mô tả tỉ mỉ trong thư gởi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe. Người con đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô nói: “Người tuy là thân phận Thiên Chúa,… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.”. Đó mới đúng là người con đẹp lòng Cha nhất. Người con này đã thưa: “Này con xin đến,… để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa” (Dt 10, 7) và đã thực hiện mọi sự đúng theo ý muốn của Cha cho dù đó là chén thập giá: “Lạy Cha! Nếu Cha muốn, xin cất chén này đi khỏi con! Song đừng cho ý của con, mà là ý của Cha được thành sự!” (Lc 22, 42). Chính Chúa Cha cũng đã nhiều lần xác nhận: “Này là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” (Mt 3, 17; x. Mt 12, 18; 17, 5).

Giờ đây, nhờ sự trợ lực của Thánh Thể, ước gì mỗi người chúng ta luôn sống theo gương mẫu của Đức Kitô như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”. Nghĩa là chúng ta hãy can đảm thưa “Vâng” trước lời mời gọi của Chúa và sống đúng với lời thưa vâng đó. Như thế, Thánh Lễ không kết thúc ở Nhà Thờ này, nhưng sẽ được tiếp tục trong suốt cuộc đời của chúng ta, trong đời sống vâng phục, chia sẻ, bác ái hàng ngày của chúng ta. Amen.

 

  1. Hai con đường – Sr Mai An Linh, OP

Ngay bài đọc I trích sách Egiêkiel 18,25-28, vị tiên tri đã vạch ra hai lối sống trái ngược nhau: Trước công chính, sau lại bỏ thì người đó sẽ chết, còn người gian ác bỏ đường tội lỗi mà sống công chính thì thì họ sẽ được sống. Tư tưởng này phù hợp với bài Tin mừng, một người ban đầu không vâng phục, nhưng sau lại sống tốt, còn người kia thì ngược lại(x.Mt.21,28-32). Sau cùng Thánh Phaolô khuyên tín hữu hãy noi gương Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng vâng phục Thiên Chúa Cha nên Người được tôn vinh.

Như thế Lời Chúa của Chúa Nhật 26 năm A này mời gọi mỗi người chúng ta, đang sống công chính hay trong tội lỗi hãy hướng về điều tốt mà thực hành, vì đây là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp, và Thiên Chúa chỉ đánh giá trong giây phút hiện tại mà thôi. Thậy vậy, giá trị của con người không đặt ở quá khứ tội lỗi hay đạo đức, mà hệ tại ở giây phút hiện tại người đó đã sống ra sao, công chính hay gian ác. Nó cũng không hệ tại ở những lời nói hay nói tốt, mà hệ tại ở việc làm.

Dụ ngôn hai người con cho chúng ta thấy, cả hai người đều ngôn hành bất nhất, thế nhưng phút cuối thì người con cả là người con mà chúng ta cảm thấy hài lòng. Đây là một dụ ngôn nhưng Chúa Giêsu muốn lái dụ ngôn này trở thành ngụ ngôn, để dạy cho người đương thời bài học: người con thứ nhất là những người thu thuế, gái điếm, tội lỗi, còn người con thứ hai là những người Biệt Phái. Những người thu thuế, gái điếm đã nghe lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, quay lại đường công chính, còn những người Biệt Phái và Luật Sĩ đã tự cho mình là người công chính nên không đếm xỉa gì đến lời mời gọi của ông ” Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” và họ cũng chẳng nghe theo lới Chúa Giêsu khẩn thiết ” Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã qủa quyết ” những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi”.

Nếu những người Biệt phái không sửa lại đường lối của mình thì sẽ bị khai trừ và người tội lỗi biết hóan cải thì họ sẽ chẳng những vào chỗ trong Nước Trời trước mà còn chiếm chỗ của họ nữa, vì cũng như người con thứ nhất đã từ chối thì lại ưng thuận đi làm vườn nho của cha mình, trong khi ấy người con thứ hai lại không làm như vậy mặc dù bên ngòai vâng lời. Thì cũng thế những người thu thuế, phường đĩ điếm sau khi đã không vâng lời Thiên Chúa lại tuân theo lời mời gọi củ Thánh Gioan Tẩy Giả để hóan cải, còn những nhà lãnh đạo của Do Thái thì công khai tuyên xưng vâng lời Thiên Chúa thì lại từ chối lời mời gọi mà Thiên Chúa gửi tới qua Đức Giêsu để hóan cải. Người có quá khứ tội lỗi biết sửa đổi thì vẫn tốt hơn người có quá khứ lành thánh nhưng đang theo con đường tội lỗi.

Chúng ta nên nhớ rằng con người không là một món đồ, trước thế nào thì nay vẫn vậy, trái lại con người là một tác phẩm đang đi đến hòan bị có thể đẹp hơn, nhưng cũng có thể không ra gì và người họa sĩ muốn bỏ. Thiên chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi tại sao chúng ta không làm? Thiên Chúa đang chờ đợi hãy hãy làm nay khi trời còn sáng! Thánh Agustine là một mẫu gương trở lại cho chúng ta noi theo, đừng nản lòng cũng đừng chần chừ nữa.Dụ ngôn hai người con hôm nay là bài học cho chúng ta: Nếu trước đây chúng ta đã lỡ nói không với Chúa thì bây giờ chúng ta có thể nói lại ” xin vâng”, còn nếu chúng ta giống người con thưa ” vâng” thì đừng thay đổi như người con thứ hai.

Lạy Chúa xin cho chúng con mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để hóan cải. Nhờ đó chúng con sẽ được đi vào hàng ngũ đón rước Chiên con trong ngày Chúa đến.

 

  1. Ai ngoan nhất? – Lm Ansgar Phạm Tĩnh

Xin phép bạn cho tôi được paraphrase bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay một chút.

Các bạn nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai là người con ngoan của ông chủ vườn nho?

Tôi đoán thế nào bạn cũng trả lời giống như những anh biệt phái: “Dĩ nhiên đó là người con thứ nhất!”

Nếu vậy thì bạn… lầm to! Trong hai anh con trai, chẳng có anh nào ngoan cả, cả hai đều cứng đầu, bướng bỉnh và phạm tội không vâng lời cha mình.

Bạn có biết tại sao cả hai người con lại không muốn đi làm vườn nho hay không? Tôi nghĩ chắc chắn là tại vì hai anh chàng này sợ “phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt. 20:12) cho nên mới ngần ngại không muốn đi làm vườn nho như ý cha của hai anh muốn.

Bạn thân mến, khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, bạn và tôi, chúng mình đã trở thành con cái của Thiên Chúa, chúng mình đều được sai đi làm vườn nho cho Ngài.

Thế nhưng, bạn và tôi cũng giống như hai người con trong dụ ngôn vậy! Chúng mình đều là những đứa con cứng đầu, bướng bỉnh và hay bất tuân lệnh của Cha. Chúng mình sợ phải làm việc nặng nhọc, và sợ bị nắng nôi thiêu đốt.

Giống như hai người con trai trong dụ ngôn, bạn và tôi thường có hai thái độ trước giáo huấn của Giáo Hội:

Một là tỏ ra khó chịu, bất mãn và phản kháng, chống lại một cách công khai.

Hai là chỉ ậm ừ cho qua chuyện, ngoài mặt thì vui vẻ tỏ vẻ vâng lời nhưng trong thực tế lại dửng dưng, làm lơ, không thực hành.

  • Tôi làm lơ và thậm chí bất tuân những lời dạy dỗ của Giáo Hội về những vấn đề liên quan đến luân lý và đạo đức. Ví dụ như không được chung sống với nhau trước khi làm lễ cưới, không được phép ly dị, không được xem phim có dính dáng tới…Trư Bát Giới, không được dùng những phương pháp ngừa thai nhân tạo, không được phá thai, không được thí nghiệm trên phôi thai người…
  • Tôi bực bội và làm lơ đến lời mời gọi của Chúa trong những thánh lễ ngày Chúa Nhật và lễ buộc. Tôi lý luận rằng ở nhà tôi cũng tôn thờ Chúa, cũng yêu Chúa được vậy? Làm việc cả tuần lễ tôi cần phải có thời gian để relax, enjoy, nghỉ ngơi, đi shopping, đi câu cá, đi casino…
  • Tôi bất mãn, phản đối và có khi nổi loạn vì Giáo Hội khẳng định rằng phụ nữ sẽ không được làm linh mục; khẳng định rằng noi gương Chúa Kitô, linh mục phải sống đời sống độc thân để có thể chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng: một là lập gia đình hai là sống độc thân chứ không có cái kiểu bắt cá hai tay, vừa muốn có vợ, lại vừa muốn thiên chức linh mục.

Bạn thân mến, bạn và tôi, chúng mình đều là những người con bướng bỉnh đã và đang bất tuân những lời dạy bảo, khuyên nhủ của Thiên Chúa qua những giáo huấn của Giáo Hội. Chúng mình hãy bắt chước anh con trai lớn: HÃY HỐI HẬN ĂN NĂN.

  • Chúng mình hãy ăn năn sám hối vì những lần chúng mình bất tuân những giáo huấn của Giáo Hội bởi vì khi tôi phản đối quyền giáo huấn của Giáo Hội là khi đó tôi bất tuân Thiên Chúa “Phê-rô, con là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”(Mt. 16:18-19).
  • Chúng mình hãy xin lỗi Chúa bằng cách đi xưng tội thường xuyên hơn, một tháng một lần, đừng để 6 tháng hay 1 năm mới đến hòa giải với Chúa. Mỗi lần đến xưng tội là mỗi lần bạn và tôi lãnh nhận được rất nhiều ơn thánh. Thiên Chúa vui mừng và cả triều thần trên trời cũng vui mừng vì một người tội lỗi như tôi cũng như bạn ăn năn hối lỗi, quay trở về với Ngài (Lc 15:7).

 

  1. Người vâng lời đích thực

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Đối với Thiên Chúa sự trung tín, lòng chân thành và sự công chính thánh thiện không chỉ được nằm trên đầu môi chóp lưỡi mà phải được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Tin Mừng hôm nay và hai bài đọc cho chúng ta thấy rõ ai là người thực hiện ý của cha mình và ai là người chỉ có hứa suông hứa cuội. Tin Mừng Mt 21,28 – 32 cho biết người làm vừa lòng cha là người vâng lời và thực hiện lời của cha, chứ không phải chỉ hứa làm mà không làm theo ý của cha.

Ngôn sứ Ê-dê-kiên trong đoạn 18, 25-28 viết: tư tưởng và đường lối của con người không phải là tư tưởng và đường lối của Chúa. Đường của Chúa và việc Ngài hành động hoàn toàn công minh chính trực. Ngôn sứ Ê-dê-kiên nói rằng “người con vâng lời là người con làm theo ý của cha”. Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Do đó, Ngài gọi con người, mời gọi chúng ta đi theo con đường của Ngài. Thiên Chúa còn mời gọi kẻ gian ác quay trở về, bỏ đường gian ác mà đi theo đường công minh chính trực thì Ngài sẽ cứu họ ban cho họ sự sống, họ không phải chết. Vị ngôn sứ còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi người và đề cao sự hoán cải của con người. Và để làm rõ tư tưởng của ngôn sứ Ê-dê-kiên, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philip 2, 1-11 đã kêu gọi cộng đoàn Philip hãy hợp nhất với nhau bởi vì Chúa Kitô, là Con Thiên Chúa đã hiến thân vì phần rỗi con người. Đó là tấm gương mà mỗi người Kitô hữu chúng ta phải bắt chước quên mình để phục vụ tha nhân, phục vụ anh em. Thánh Phaolô đã viết:” Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 5-8). Chính vì thế, người con vâng lời phải có thái độ khiêm tốn, quên mình, chỉ biết triệt để phục vụ và vâng lời thực thi ý của cha cho đến hy sinh chính mạng sống của mình. Bài Tin Mừng của thánh Matthêu làm nổi bật ý nghĩa bài đọc I và bài đọc II. Thánh Matthêu trình bầy dụ ngôn hai người con, Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến việc vâng phục ý của cha và thực thi ý của cha. Thánh sử cho đây là điều kiện thiết yếu để đạt được Nước Trời, có Chúa làm gia nghiệp.

Trình thuật cho hay cả hai người con đều được cha mời gọi làm việc cho cha trong vườn nho. Người cha cũng hoàn toàn bầy tỏ cho hai người con biết họ đều là con của cha. Điểm khác biệt ở đây là người con có làm hay không làm việc theo ý của người cha. Thiên Chúa luôn yêu thương mọi người, không loại trừ bất cứ ai dù họ là người Do Thái hay người ngoại. Ngài muốn cứu độ mọi người nhưng con người có được cứu hay không là do mỗi người có làm theo ý của cha hay không làm theo ý của cha. Dụ ngôn này được áp dụng cho hai hạng người Do Thái. Một hạng người cho mình là công chính, thánh thiện, đạo đức vì họ giữ tỉ mỉ mọi lề luật như may dài tua áo, tay đeo thẻ kinh, đi đâu cũng muốn cho người khác gọi mình là thầy, là bậc thông thái vv… Đó là người Pharisiêu, Kinh sư, các thầy thông luật, biệt phái. Hạng người khác bị loại vào hạng thu thuế, tội lỗi, nghèo hèn. Dụ ngôn này người con thứ nhất được coi như hạng thu thuế, tội lỗi, gái điếm. Họ bị đẩy ra khỏi lề xã hội, bị khinh miệt. Tuy nhiên, họ đã thành tâm thống hối, quay trở về với Thiên Chúa. Chính vì vậy, Chúa đã nói một câu làm những người Pharisiêu, biệt phái, thông luật cảm thấy trơ trẽn, kinh ngạc: “Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Chúa Giêsu ám chỉ người con thứ hai là các thượng tế và kỳ mục. Họ tự cao, tự đại cho mình là công chính nên họ đã không được vào Nước Trời. Tệ hơn nữa, họ không tin Đức Kitô là Con của Thiên Chúa được sai đến trần gian để cứu độ trần gian. Như thế, Nước Thiên Chúa thuộc về những người có lòng tin. Tin vào Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã được Thiên Chúa cha sai tới trần gian để cứu độ gian trần.

Chúa Giêsu đã làm gương cho con người, cho loài người, cho mỗi người. Người không bao giờ rao giảng điều gì mà Người đã không thực hiện trước. Lời của Người là lời hằng sống. Lời nói và việc làm của Người luôn đi đôi với nhau. Giữa cuộc sống của Chúa và lời nói của Người không bao giờ có khoảng cách. Còn các kinh sư, biệt phái, thượng tế, họ nói nhiều mà không làm. Ngôn hành bất nhất. Do đó, Chúa nói với các môn đệ và chúng ta: “Ngôn hành phải đi đôi với nhau”. Nói mà không làm giống như đứa con thứ hai trong dụ ngôn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy bắt chước Chúa: “… Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 17) hoặc nói như thánh Giacôbê: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26). Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ý Cha: “Lạy Cha nếu được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con mà theo ý của Cha mà thôi”. Chúa luôn nói: “Không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời đâu, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7, 21).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa. Amen.

 

  1. Lời nói phải đi đôi với việc làm

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Người đời thường đàm tiếu với nhau: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, mới là người tốt, còn ngôn hành bất nhất, người đó không đáng tin tưởng. Tin Mừng Mt 21, 29-32 nói đến hình ảnh hai người con, hai cách nói và hai hành động hoàn toàn khác nhau. Chúa là Đàng, là Sự thật và là Sự sống. Ngài luôn luôn nói và hành động. Do đó, chúng ta là con của Ngài, chúng ta cũng phải nói và làm như Ngài…

Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người cha sai con đi làm vườn nho”. Người con thứ hai nghe lời cha, nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất, từ chối, nhưng sau suy nghĩ, hối hận, rồi đi làm. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh và ám chỉ người con thứ hai là những Biệt phái, Kinh sư, thượng tế, Kỳ mục là những hạng người miệng thì thơn thớt nói cười, miệng thì ngon ngọt truyền lệnh và cho rằng mình đạo đức,thánh thiện, giữ luật tỉ mỉ, nhưng kỳ thực họ chỉ hô hào to miệng, họ chỉ nói trên môi miệng, nhưng kỳ thực họ không hề giữ một luật lệ nào, trái lại họ chất trên vai người khác các gánh nặng, còn họ thì không hề đụng tay lay thử xem gánh có nặng hay nhẹ. Điều đáng kinh tởm là họ tự kiêu, tự đại, tự mãn không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, là Đấng cứu thế.

Còn người thứ nhất là những người tội lỗi, yếu hèn, những kẻ thấp cổ bé họng, những cô gái điếm, những người thu thuế. Những người này bị nhóm Pharisêu, Kinh sư, Thượng tế, Kỳ mục và xã hội lúc đó ghép vào hạng tội lỗi công khai và bị họ loại trừ ra khỏi các hội đường, và xếp bên lề xã hội. Tuy nhiên, những người này đã biết thành tâm sám hối, đã biết cải tà quy chánh, đã biết hối cải, đổi mới, đã tin vào Chúa Giêsu là Vị cứu tinh, là Đấng cứu độ, là khiên mộc, thuẫn đỡ cho họ. Nên, họ đã được Chúa yêu thương, tha thứ và hứa ban Nước trời cho họ (Mt 21, 31).

Cuộc đời là một cuộc hành trình đức tin. Sở dĩ, Nước trời được hứa ban cho các người bé mọn, những người có lòng tin bởi vì họ tin vào Chúa Giêsu, tin Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng cứu thế. Đức tin của những người tin vào Chúa được thể hiện qua đức bác ái, qua những việc làm tỏa sáng, qua việc lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc đời mình. Những người này đã sống các Mối Phúc, đã leo lên, vượt qua từng nấc thang của các Mối Phúc. Họ không chỉ nói ngoài miệng, nhưng lời nói của họ đi đôi với việc làm. Thánh Giacôbê quả thực có lý khi viết:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết ” (Gc 2, 26). Chân Phước Gioan Phaolô đã nói: ” Ngày nay người ta tin những chứng nhân hơn những người chỉ nói “. Gương đời sống đức tin sống động có giá trị hơn nhiều bài thuyết giảng trơn tru nhưng chỉ là lý thuyết suông. Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy bao giờ Ngài cũng hành động đi đôi với lời nói. Ngài giảng dạy, chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, Ngài thực tế, nuôi sống dân chúng theo Ngài nghe Ngài giảng dạy và họ đang khát, đang đói. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy tránh xa những người Pharisêu, Biệt phái giả hình. Họ nói mà không làm. Họ hô mà không thực hiện.

Cuộc đời của người môn đệ Chúa là chết đi cho tội và sống lại trong đời sống mới. Qua phép rửa, người Kitô hữu đã thật sự chết đi cho tội và đã thật sự sống lại với Chúa. Qua Bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu tuyên xưng: ” Chúa Kitô đã chết, đã sống lại và sẽ tới với nhân loại một lần nữa vào ngày chung thẩm “. Nhờ làm con Chúa qua Bí tích rửa tội và được nuôi sống bằng chính Mình Máu của Chúa, người Kitô hữu luôn có sức mạnh để vượt thắng tội lỗi và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, vững bước trên cuộc hành trình đức tin tiến về Quê trời.

Chúa đã luôn cảnh tỉnh mọi người rằng: ” Mẹ và anh em của Ngài là những người biết lắng nghe và tuân giữ Lời của Ngài” và Ngài cũng cảnh cáo: ” Không mọi kẻ nói với Ta; Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Ta ” (Mt 7, 21).

Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả. Xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi “. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật 26 thường niên, năm A).

home Mục lục Lưu trữ