Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 23

Tổng truy cập: 1373936

CHÚA CHA

Chúa Cha

Biết được một người quan trọng đem lại niềm vui cho chúng ta. Tuy nhiên, biết thường chỉ có nghĩa là biết những sự kiện về người đó. Không biết một người khác theo cách đó chỉ có được một kiến thức nông cạn về người ấy.

Thật sự biết một người là phải có một quan hệ với người ấy, một quan hệ có nền tảng là yêu thương và tin cậy. Và cũng thế khi chúng ta muốn biết mình có được người khác hiểu biết và yêu thương không.

Trong cuốn sách viết về tiểu sử của George Washington, Richard Brookhiser nói:

“George Washington ở nơi chúng ta mỗi ngày, trên những tờ đô la và các khu phố. Từ núi Rushmore, ông nhìn xuống chúng ta. Trong thủ đô mang tên ông, ông có một đài tưởng niệm nổi tiếng nhất. Hơn bất kỳ người Mỹ nào, tên ông được dùng để đặt tên cho các trường học, đường phố, thành phố. Các nhà sử học xếp ông vào số những Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ”.

“Tuy nhiên, sự hiện diện của Washington không biến thành sự thân mật. Ông có mặt trong sách giáo khoa, trong ví tiền, nhưng không hiện diện trong tâm hồn chúng ta. Khuyết điểm này một phần do Washington, khi ông có khuynh hướng giữ khoảng cách giữa mình với dân chúng”.

Một số người coi Thiên Chúa như xa xôi cách biệt, không thật sự liên quan đến chúng ta và những đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, những người khác coi Thiên Chúa như một quan tòa, hoặc một thám tử sẵn sàng tóm lấy chúng ta để trừng phạt.

Đức Giêsu biết Chúa Cha và Chúa Cha biết Người. Điều này làm Người đầy tràn niềm vui. Vì Đức Giêsu biết Chúa Cha nên Người có thể mạc khải Chúa Cha cho người khác, đặc biệt cho những ai sẵn sàng cởi mở và đón nhận như con cái. Đức Giêsu mạc khải Chúa Cha như một người Cha yêu thương, từ bi hay tha thứ. Một Thiên Chúa âu yếm, quan tâm đến chúng ta. Người quan tâm đến chúng ta không phải để xét đoán và lên án chúng ta nhưng để chữa lành và cứu chuộc.

Nhiều người được gọi là thông thái đã từ bỏ Đức Giêsu, nhưng những người đơn sơ đã chấp nhận Người. Những người trí thức không cần đến Người, nhưng Người khiêm nhu lại chấp nhận Người. Sự kiêu ngạo trí thức là một điều nguy hiểm. Người đơn sơ gần gũi Thiên Chúa hơn người thông thái.

Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”.

Đức Giêsu không lên án khả năng trí thức nhưng tính kiêu ngạo tri thức. Không thể gọi là thông minh, sáng suốt khi khước từ Thiên Chúa, đó là lòng kiêu ngạo. Và không phải ngốc nghếch khi để cho Thiên Chúa bước vào đời sống mình. Đó là sự khiêm nhu.

Vì Đức Giêsu đã đến với chúng ta nên chúng ta không còn coi Thiên Chúa như một Đấng xa vời. Chúng ta nhìn thấy Người như một Đấng rất gần với chúng ta, biết rõ mỗi người chúng ta và quan tâm đến từng người một, vì chúng ta là con cái của Người. Người là Thiên Chúa đặc biệt cho người yếu đuối, nghèo khó và gánh vác nặng nề.

Khi đức tin là vấn đề của chỉ cái đầu, đức tin trở thành một việc lạnh lùng tri thức. Kết quả là Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài chúng ta, một hình ảnh xa xôi, cách biệt. Nhưng đức tin không phải là vấn đề của cái đầu. Đúng ra nó là vấn đề của tâm hồn. Khi đức tin cắm rễ trong tâm hồn, Thiên Chúa trở nên gần gũi và âu yếm. Như thế đức tin trở thành một quan hệ ấm cúng với Thiên Chúa. Biết Thiên Chúa theo cách này, và có một liên hệ thương yêu với Người, sẽ tạo ra cho chúng ta một niềm vui cao cả. Thiên Chúa giống như một mùa xuân ở giữa chúng ta để mọi người trở nên tươi tỉnh và nâng ly chúc tụng.


 

32. Hãy đến với Ta

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi". Mỗi người chúng ta có lẽ giờ phút này cũng mang đến đây một gánh nặng, gánh nặng của những âu lo trong cuộc sống và nhất là gánh nặng của tội lỗi đang đè nặng trong lương tâm của ta.

Tin ở tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mang những gánh nặng đó cho Chúa Giêsu để xin Ngài tiếp tục độ trì, nâng đỡ chúng ta và tin ở tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta cũng mang đến cho Ngài những gánh nặng tội lỗi của mình để xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Người đã làm một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa cao cả, đó là Ngài đã tuyên bố phục hồi danh dự cho ông Galilê, người đã bị Giáo Hội ở thế kỷ XVII kết án là lạc đạo, vì ông cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời.

Từ hàng bao thế kỷ qua, nhiều người xem ông Galilê như là nạn nhân của một Giáo Hội độc đoán, áp bức đối với con người. Và hiện nay không thiếu những người vẫn tiếp tục nhìn vào Giáo Hội như một sức kéo trì trệ, ngăn cản bước tiến của nhân loại. Với việc phục hồi danh dự cho ông Galilê, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không những nhìn nhận một lỗi tầm của quá khứ, mà Ngài còn khẳng định một nguyên tắc nền tảng về sự tự trị của tôn giáo và khoa học.

Trong sứ điệp gởi cho vị giám đốc của đài thiên văn Vatican năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau: "Tôn giáo không xây dựng trên khoa học, và khoa học cũng không là một nối dài của tôn giáo". Mỗi bên có một phương pháp, một nguyên tắc, một cách giải thích và những kết luận riêng của mình. Vì thế, Kitô giáo tự biện minh cho mình mà không dựa vào khoa học.

Lời tuyên bố trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa chúng ta vào một trong những chân lý nền tảng của Kitô giáo, chân lý đó là: “Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho con người". Điều đó có nghĩa là không phải tìm kiếm, lý giải uyên bác thì con người mới đạt được đức tin. Nói như triết gia kiêm nhà toán học người Pháp là Pascal: "Muốn có đức tin thì người ta phải quì gối xuống mà van xin".

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nêu bật tính cách nhưng không ấy của đức tin. Chúa Giêsu đã cảm lạ Thiên Chúa Cha vì đã giấu ẩn không cho những nhà hiền triết và khôn ngoan thông thái biết những chân lý về mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn đơn sơ.

Lời cầu nguyện này được Chúa Giêsu thốt lên cho một loạt những thất bại của Ngài lại Bethsaida cũng như một số thành phố khác lại Galilêa, quê hương của Ngài. Cho dẫu Chúa Giêsu đã làm được rất nhiều phép lạ, nhưng nhiều người vẫn không tin Ngài, và một số thì chống đối ra mặt. Điển hình và gay gắt nhất chính là thái độ cứng lòng tin của các luật sĩ và biệt phái, tức là những hạng người được xem là khôn ngoan và trí thức trong dân. Họ dựa vào những hiểu biết uyên thâm của mình để khước từ sứ điệp của Chúa Giêsu.

Vì vậy, chỉ còn lại những dân chài lưới dốt nát được Chúa Giêsu chọn làm môn đệ, chỉ còn lại một số nhỏ những người thất học nghèo hèn bị xã hội đẩy ra bên lề, và Chúa Giêsu gọi họ là những kẻ bé mọn. Họ là những người đã đón nhận tinh thần "Tám Mối Phúc Thật". Họ là những con người nghèo khó, hiền lành và nhất là có tâm hồn trong sạcho Họ là những người có tinh thần trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã đề ra: "Nếu các con không giống như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Trời".

Thật vậy, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng chỉ có những ai biết mở rộng tâm hồn, biết dốc cạn chính mình, biết chối từ những chỗ dựa của trần thế như tiền bạc, danh vọng, quyền bính, chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, đơn sơ như thế mới cảm nhận được đức tin, mới hiểu biết được mầu nhiệm Nước Trời.

Lý luận của đức tin, của luân lý và khoa học: Luận lý của đức tin là luận lý của lình yêu. Trong tình yêu người ta không lý luận, tình yêu không là số thành của một mớ những cộng trừ nhân chia. Tình yêu không là kết luận của một sự lý giải. Tình yêu là trao ban và trao ban nhưng không, trao ban không tính toán, không so đo hơn thiệt.

Kitô giáo chúng ta không chỉ là một hệ thống gồm những điều phải tin và phải giữ. Kitô giáo chúng ta thiết yếu là một con người, con người ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Con người ấy không ngừng mời gọi chúng ta đi vào quan hệ mật thiết với Ngài. Con người ấy không ngừng nói với mỗi người chúng ta: "Hãy đi theo Ta". Đi theo Ngài tứ là tiếp nhận sức sống củaNgài, là mặc lấy tâm tư, suy nghĩ hành động và nhất là cái nhìn của Ngài.

Thánh Phaolô đã diễn tả một cách chính xác cái nhìn ấy của Chúa Giêsu như sau: "Những gì con người cho là yếu nhược thì lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Những gì con người cho là ngu dại thì đó lại chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa". Tựu trung đó chính là lý luận và lẽ khôn ngoan của Thập giá. Lý luận và khôn ngoan ấy cũng là lý luận của tình yêu. Bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một cái chết của tình yêu.

Chúng ta đang tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu, khi Ngài đã đoan hứa với chúng ta: "Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức nâng đỡ các ngươi".

Nguyện xin sức sống của Ngài mà chúng ta tiếp nhận trong Thánh lễ mỗi ngày bổ sức cho chúng ta, để chúng ta bước đi theo Ngài và mãi mãi được thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".


 

33. Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long

THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN

1.- Ngữ cảnh

Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3). Các đối thủ của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai? Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.

Đức Giêsu xác định lập trường của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);

2) Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);

3) Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).

3.- Vài điểm chú giải

- Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này giống như câu đáp cho lời giới thiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).

- ngợi khen (25): Động từ Hy Lạp exomologoumai (praise) luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.

- bậc khôn ngoan thông thái … những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn” (theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.

- những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào văn cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.

- điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này chính là kế hoạch cứu độ.

- biết (27): Động từ Hy Lạp epigignôskein (know) dịch động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.

- trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).

- mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi... Truyền thống này cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các điều buộc …

- hiền hậu và khiêm nhường (29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của Mối Phúc thứ ba.

- ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người, tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập với loài người.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (25-26)

Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa Cha trong mộtlời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Kitô giáo đi ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải chăng Kitô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả. Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ không thể nhận được, vì họ không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu. Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ thuộc Thiên Chúa và quy chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

* Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)

Trung tâm của bản văn là những khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và Người có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha, giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.

* Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)

Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613 điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu, con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc nào. Trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con người luôn ở trong thế quy chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.

+ Kết luận

Đức Giêsu tự giới thiệu là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường trong lòng”: các từ ngữ này, chúng ta thấy có trong các Mối Phúc, không hề có nghĩa là những người nhút nhát, rụt rè, nhưng là những người nghèo và bị áp bức, những người đang chịu bất công và không sao đứng dậy được. Đây là những người nghèo mà Đức Giêsu bảo: Hãy nghe tôi, hãy tin tôi, vì tôi ở về phía các bạn, tôi là một người trong các bạn, tôi cũng nghèo và bị loại trừ!

Muốn học được sự khôn ngoan của Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Những kẻ phê phán Đức Giêsu cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự quy hướng hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.
  2. Đọc bản văn này trong liên hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu. Sau khi sống lại, Người chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.
  3. Hans Urs von Balthasar, một nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quỳ”: chúng ta chỉ thật sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm tòi suy luận, nhưng nhờ biết quỳ xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.
  4. Thiên Chúa đã ban toàn quyền cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đặt mình đối diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.
  5. Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”, khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an, cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.


 

34. “Hãy đến với Ta”

Chúa mời gọi tất cả chúng ta: hãy đến với Ngài. Chúa hiểu rõ chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình.Ngài muốn cất nhẹ gánh lo cho chúng ta, để chúng ta được thanh thản, phó thác và cậy trông Ngài. Ngài sẵn sàng chia sẻ và đồng hành để chúng ta được vơi nhẹ bao nỗi lo toan chất chồng.

Chúa muốn tất cả chúng ta hãy trút tất cả gánh lo đời người vào Ngài, bởi những lo toan có thể làm cho cuộc đời chúng ta “bị tràn ngập” và không có lối thoát. Người ta vẫn luận “Cuộc đời là bể khổ”, mà khổ thật. Bởi chẳng có gì là hạnh phúc thật, mà chỉ là sự lừa dối và bất ổn. Tìm cho mình một chỗ dựa, kiếm cho mình một lối thóat,chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy vơi nhẹ gánh lo và tìm gặp được bình an.

Ngài mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài, bởi Ngài muốn tham dự, đồng hành và chia sẻ với cuộc đời mỗi người. Thực thế, Ngài là chỗ dựa an toàn và bình an nhất cho chúng ta. Chẳng ai thương và bảo vệ chúng ta, ngay cả cha mẹ hay người thân ở trần gian, ngoại trừ Chúa

Ngài muốn chúng ta hãy học với Ngài bởi Ngài hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng. Với giáo lý yêu thương của Ngài, Chúa muốn chúng ta hãy học tha thứ, đón nhận anh em, sống khiêm nhường và phó thác. Học với Ngài để chúng ta đón nhận và làm cho cuộc sống mình hài hòa với mọi người, sống hiệp nhất và nên giống Ngài.

Trong tình thương Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc thật mà trên trần gian không ai có thể ban tặng. Đón nhận tình thương của Thiên Chúa, được học nơi trường: khiêm nhường và hiền lành của Ngài, tâm hồn chúng ta như được yên nghỉ an toàn và tìm được con đường dẫn đến sự sống.

Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta biết chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh em như Chúa, bởi tình thương của Ngài không loại trừ hay xua đuổi ai, và để xây dựng sự hiệp nhất trong anh em.

Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta không cướp công của người khác mà biết trân trọng và đánh gía đúng công sức của anh em mình, để tránh được căn bệnh ung thư di căn “cả vú lấp miệng em”, phí phạm hoặc đối xử kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” trên chính anh em hoặc cộng sự mình

Khiêm nhường và hiền lành thật cũng chính là biết phục vụ với hết khả năng và biết tự ẩn mình như người đầy tớ bé nhỏ,để ngăn ngừa phần nào căn bệnh “say mê quyền lực, đánh bóng tên tuổi” bằng chính công sức của người khác, nhưng biết cảm thông và chia sẻ với những yếu đuối của anh em như của chính mình.

Khiêm nhường và hiền lành thật là không khoe khoang hay lên mặt với anh em mình dẫu rằng mình có hơn họ một mặt nào đó, bởi “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì!”

Khiêm nhường và hiền lành thật còn là sẵn sàng chịu phần thiệt về mình để anh em được chia sẻ, được hạnh phúc. Có mất mát, có đau đớn, có chịu thiệt thòi mới hiểu và thương xót được anh em mình. Bởi trước mặt Chúa, chúng ta đã chẳng là gì và sẽ mãi mãi chẳng là ai cả!

Lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin dạy chúng con sống khiêm nhường và hiền lành trong trường học yêu thương của Chúa. Xin dạy chúng con luôn biết cho đi mà không tính toán và củng chẳng bao giờ đòi hỏi quyền lợi. Xin dạy chúng con biết quên mình khi phục vụ, để phần lợi luôn thuộc về anh em, để Chúa được biết đến và lớn lên; còn chính chúng con “phải nhỏ lại”. Amen.


 

35. Những kẻ bé mọn

Suy niệm:

Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin chúc tụng ngợi khen Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Chữ bé mọn đây không phải là dáng người thấp bé hay là trẻ con. Nhưng là người có tấm lòng đơn thành như trẻ con, một tấm lòng biết mình là nhỏ bé trước Nước trời bao la, biết mình túng thiếu đơn độc mà bám vào tay Thiên Chúa quan phòng. Là những ai tự hạ tự khiêm phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đã có một lần nào Chúa xác nhận “nếu các ngươi không trở nên giống trẻ thơ, các ngươi sẽ không được vào nước trời” (Mt 18,3).”Ai trong các ngươi lớn nhất là người bé nhỏ nhất” (Lc 9,48). “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14)

Tại sao Chúa Giêsu cứ lấy mẫu mấy em bé làm gương vậy? Chúng ta có thấy và có biết cái gì đã từng làm những bậc cha mẹ không thể cầm lòng được trước một đứa con nhỏ. Cái gì đã làm Chúa những người lớn đều ưa thích trẻ nhỏ? Thưa, đó chính là sự yếu đuối nhỏ bé. Vâng, chính cái sự yếu đuối nhỏ bé đó làm cho mọi người dễ thương dễ mến. Chính cái yếu đuối ấy của chúng ta là sức mạnh của tuổi thơ măng sữa. Đúng như lời thánh Phaolô “Lúc tôi yếu đuối nhất là lúc tôi mạnh mẽ” (2C 12,9-10). Nếu chúng ta trao phó hoàn toàn cho Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lo trọn vẹn cho chúng ta như một người mẹ nuôi con thơ.

Con thơ còn trẻ chẳng biết gì. Chúng không biết ăn, chúng chẳng biết mặc, không biết đi, không biết nói. Các bà mẹ lành nghề đều công nhận các bà cưng chiều đứa con mình khi chúng nhỏ xíu “Nâng như trứng, hứng như hoa”. Khi chúng lớn lên, khi chúng càng có thể tự túc, thì các bà bớt quyến luyến, hoặc khi chúng tự cao khinh dể mình. Tình mẫu tử rất gần với tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Thật sự không gì làm cho Thiên Chúa xa lánh loài người, cho bằng tính kiêu ngạo, tự mãn, tự phụ. Tính này phá hủy các nhân đức. Những mẫu gương tự cao tự đại vẫn còn đó, với Adong, Eva, Luxife, babel, với các nền văn minh xa xưa còn đâu...

Trong Tân ước, đã mấy lần Chúa Giêsu phàn nàn về nhóm biệt phái cũng mắc bệnh này, là tự cho mình chữ nghĩa đầy mình, đầy dẫy sự khôn ngoan, cho mình là đủ và tự tạo ra ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu đã mấy lần cảnh cáo (Mt 23,13). Ai tin vào sức mạnh của mình sẽ bị Thiên Chúa để mặc và tất cả trở về hư vô cát bụi. Trái lại, kẻ tự khiêm sẽ được Thiên Chúa nhìn đến. Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa thích dùng người khiêm nhường, bị thế gian bỏ chê để tỏ lộ mình ra” (1C 25,28t). Kẻ khiêm nhường được Thiên Chúa tha tội (Lc 18,14). Thánh nhân còn đặt khiêm nhường bên cạnh đức tin (Gal 5,22).

Thánh Augustinô nói “Đâu có khiêm nhường, đấy có đức ái”. Sự khiêm nhường là dấu chỉ thuộc về đức Kitô. Kinh thánh còn nói trong cơn thử thách ai hạ mình xuống dưới cánh tay toàn năng của Thiên Chúa thì đến bây giờ họ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh như Đức Kitô và được thông phần vinh quang của con Thiên Chúa. Gương khiêm nhường của David trước Goliath, của Mẹ Maria, của chính Chúa Giêsu (Mt 11,29) của Têrêsa hài đồng, của một Cha sở xứ Ars.

Chúng ta hãy suy niệm câu nói của thánh nữ Têrêsa Lixieux “Chính Chúa Giêsu đã làm hết tất cả trong tôi, tôi chỉ trở nên bé nhỏ và hèn yếu”.

“Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (c.28)

Câu nói này hiểu được trên hai phương diện. Trên phạm vi siêu nhiên, Chúa Giêsu nói đến những lề luật Cựu ước và luật lệ mới của biệt phái không giải thoát con người tội lỗi để được cứu rỗi. Cho nên cần phải đến với Ngài và qua Ngài. “Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài”. Câu nói trên cũng hiểu được là những ai đau khổ bất an tinh thần vật chất cũng hãy đến để Ngài nâng đỡ.

Có một điều cần ghi nhận giữa những đau khổ ở đời, nếu chúng ta chỉ một mình loay hoay dậm chân tại chỗ, thì không giải quyết được gì. Một gánh nặng mà đã để xuống là khó mang đi nữa. Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Và Chúa kêu mời “hãy đến với Ta...” (c.28). Chúng ta hãy đến với Chúa hôm nay để thực sự cảm nghiệm được sức nâng đỡ đó. Có một điểm cần lưu ý trong câu trên là Chúa nói: Ngài bổ sức cho chúng ta thôi, chứ Ngài không cất hết gánh nặng đi cho đâu. Chắc chắn Chúa Giêsu xuống trần gian, không phải vì mục đích để làm cho hết khổ đâu. Ngài qủa quyết là quê trời mới hết khóc than. Mặc dầu đã nhiều phép lạ chữa bệnh tật đau khổ phần xác, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị thực tiễn của Nước trời.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã dâng lời ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn. Tinh thần nhỏ bé khiêm tốn luôn được Chúa đề cao, được mọi người trân trọng. Biết thế, nhưng Chúa ơi! Ở đời chúng con vẫn ham danh vọng, trọng quyền lợi. Chỉ có tình yêu Chúa mới uốn mềm lòng chúng con nên khiêm nhường bé nhỏ. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên nhỏ bé trước Thiên Chúa để chúng con được Ngài đổ đầy lòng chúng con hồng ân của Ngài.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các Linh mục. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ các Linh mục là những người Chúa chọn để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Xin cho các Ngài ơn khôn ngoan thánh thiện. Một đời sống thánh đức sẽ toát lên qua việc cầu nguyện trong khiêm tốn. Để trong cầu nguyện, các Linh mục sẽ tiếp nhận được nguồn tình yêu và sức mạnh từ trái tim nhân hậu của Chúa hầu chuyển trao cho đoàn chiên sức sống dồi dào. Amen.


 

36. Chú giải của Noel Quesson.

Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói…

Thành ngữ. "vào lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm vào để bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt ngoại lệ, nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu nguyện chúng ta sắp đọc được đưa vào?

“Lúc ấy" là một thời điểm bi đát. Đức Giêsu sống trong một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh Matthêu vừa mô tả sự "hoài nghi" của Gioan Tẩy trong nhà tù: "Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? "Đức Giêsu kế đó đã thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại, đây là một “bài ca vui mừng" trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm kín của Đức Giêsu là gì?

Lạy Cha là Chúa Tể trời đất...

Trong một vài dòng, chúng ta nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là "Cha" năm lần. Chúng ta đã quá quen nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách mạng tôn giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và tất cả văn chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, "Cha” được dùng một cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không một Thánh Vịnh nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.

Như thế, những người Do Thái, ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn tả của Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: "Đấng Hằng Hữu, xin chúc tụng..." Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ như thế, bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi môi Đức Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành thông thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!" trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây là một từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba (Bố) của chúng ta..

Cha! Ba, Chúa của trời đất!

Sự đối chiếu của hai khía cạnh ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa của toàn thể vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai thái độ cầu nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.

Con xin ngợi khen Cha.

Động từ Hy Lạp dùng ở đây là "exomologeisthai" có nghĩa là "xưng thú”, "tuyên xưng công khai đức tin" "dâng lời ngợi khen", "cảm tạ". Như thế, giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu nguyện ngợi khen tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể ".

Và chúng ta không thể không ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu nguyện với bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng". Cả hai bài kinh này đều được cấu kết bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9; Đn 7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa ưa thích.

Vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé mọn.

Đức Giêsu cầu nguyện và đi từ đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và các Thầy dạy Luật đã gây ra cho Người... từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ những người khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ' đời sống và những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra "lời để ngợi khen" giữa những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời kinh này của Đức Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa "giấu giếm" một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho những người khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này rất mạnh xem ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm cho "lòng vua Pha-ra-on thành ra chai cứng" (Xh 9,12). Công thức này muốn diễn tả tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của mình, mà không phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ ràng là trái ngược: "Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh 8,11). Dĩ nhiên ở đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc truyền giảng thất bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy... Nhưng với sức mạnh trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được điển hình hóa về mặt văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn đã tiếp đón Lời trong khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng trên sự chắc chắn của họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một thứ kết án trí tuệ. Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu của con người thực ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con người là khả năng phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới này và thiết lập những quy luật khoa học... nhưng lý trí bị giới hạn trong thế giới, và không thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh Phaolô sẽ nói về đức tin như một thứ điên rồ": "Tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cr 2,1). "Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (1Cr 1,18-30).

Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

Để giải thích sự tiếp nhận của những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các người thông thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và đức hạnh của họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là "lòng nhân từ của Thiên Chúa". Họ không tốt hơn những người khác nhưng vì họ chịu thua thiệt, họ đặc biệt lôi kéo "lòng nhân hậu của Chúa Cha. Đó là một tư tưởng bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ bạn, bị đè bẹp... Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với một tình yêu thương đặc biệt.

Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.

Một lần nữa, phải nhận thức về lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng định có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo giữa những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người. Không một ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha! Và, ngược lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!

Trong những công thức ấy, người ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu: "Không ai đến Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Khi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người thật", khi các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản tính của Chúa Cha, Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói lại bằng những từ ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên khởi đều đã khẳng định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn khác, chứng tỏ rằng những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa "con người này" với "Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con người Giêsu những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: "Không ai biết Tôi ngoài Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết những người Do Thái "thần linh hóa" một người Do Thái quả là một điều không có thật.

Trong các tôn giáo khác của Đế quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng đế đã được thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi trường Do Thái: họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn tả, mà người ta không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con người, dù người này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.

Để đi đến điều đó, cần phải có những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các "sự kiện" và những "lời" của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng nhân.

Phần chúng ta, sau 2000 năm, chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn thờ? Con người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa "'Abba?". Và, với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: "Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!". Mạc khải? Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta!

Mạc khải. Một cách hiểu biết khác với sự nhận thức duy lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình suy luận thông thái. Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó: "Thầy sẽ chỉ cho con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu đối với các bậc khôn ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người ta không đổ đầy một cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để Thiên Chúa tìm được chỗ cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa bày tỏ Người ra. Lạy Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận mạc khải.

Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.

Đức Giêsu khẳng định rằng "ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.

Các ngôn sứ đã loan báo rằng Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài của con người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của Tân ước (Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn luôn là vấn đề những người "nhỏ bé", hèn mọn. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những người nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt những gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người nào mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều Đức Giêsu đề nghị chúng ta: "Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi dưỡng!".

 

home Mục lục Lưu trữ