Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 48

Tổng truy cập: 1364513

CHÚA CON ĐÃ SAI THÁNH LINH ĐỂ TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA NGƯỜI Ở TRẦN GIAN

CHÚA CON ĐÃ SAI THÁNH LINH ĐỂ TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA NGƯỜI Ở TRẦN GIAN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Từ thời kỳ của Đức Giêsu.

Vào, giờ Đức Giêsu sắp "phải bỏ thánh giá mà về với Chúa Cha", ta thấy có hai giai đoạn trường bài diễn từ sau bữa Tiệc Ly.

- Thời kỳ của Đức Giêsu, thì các môn đệ không làm sao có sức chịu nổi " những lời Người.

- Thời kỳ của Thánh Linh " thì chính Người sẽ dẫn dắt các ông tới sự thật toàn vẹn”.

X Léon-dutour quảng giải: "Bấy giờ" của bữa tiệc ly đối tương phản với thời kỳ Đấng Bảo Trợ đến; là việc đến này tùy thuộc vào lễ vượt Qua của Chúa Con" (“Lecture de L’Evangilc de St Jean ", cuốn 3, Seuil, trg 231).

2. Đến thời kỳ của Chúa Thánh Thần.

Thần Khí này, Đức Giêsu hứa với các tông đồ: "sẽ dẫn các ông đến sự thật toàn vẹn ". Việc Chúa Thánh Thần đến soi sáng vào quá khứ của Đức Giêsu, sẽ khiến cộng đoàn các môn đệ của Người hiểu sâu thêm những lời nói và việc làm của người, hiểu để áp dụng và đi vào cuộc sống. Hơn nữa, Người còn cho các môn đệ thông hiệp vào hiện tại của Đức Giêsu, người Con đã được tôn vinh nơi Thiên Chúa và đang muốn thông ban cho các môn đệ chính con người vinh quang của mình.

- Thần Khí này, Đức Giêsu phán tiếp "sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em". Để dẫn đến sự thật, Thần Khí "sẽ nói lên" hay là "sẽ diễn tả” điều mà Người nhận từ Chúa Con... X. Léon-dufour giải thích thêm: "Nếu Đức Giêsu ngừng nói bên tai, thì việc Người nói trong tim (đồng nghĩa với “mạc khải”) vẫn còn tiếp tục nhờ trung gian của Thần Khí. Quả vậy Thần Khí không nói nhân danh quyền năng của mình, cũng giống như Đức Giêsu đã không nói tự ý mình; Thần Khí sẽ nhận từ Đức Giêsu cũng giống như Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha (8, 26). Tiếng nói của Thần Khí chắc chắn không đập vào lỗ tai, nhưng thấm sâu tận tâm hồn. Như vậy Chúa Con tiệp tục mạc khải của mình bằng cách thế khác trước, cách thế thần linh"... Chúa Thánh Linh sẽ là người biểu lộ Đức Giêsu vậy":

BÀI ĐỌC THÊM:

1. “Nguồn suối không hề cạn”

“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Vào lúc ly biệt, những lời kín đáo này phát ra từ môi miệng Đức Giêsu để kết thúc buổi hàn huyên đầy tình hiệp thông. Vấn đề không tại điều muốn nói, mà tại ý nghĩa thẳm sâu nằm ở những lời ấy. Sánh với những gì nằm sâu trong lòng biển cả bao la, thì lời nói cũng chỉ như đám bọt biển trắng xoá trên mặt mà thôi. Điều mà Thầy muốn ban cho anh em, chia sẻ với anh em là những gì tự đáy lòng Thầy, là những gì là sâu xa nhất từ nội tâm Thầy.

Không phải là Thầy không còn thời giờ, cũng chẳng phải là Thầy còn nói thêm nhiều điều khác. Thầy chỉ mong muốn lặp đi lặp lại mãi mãi điều cốt lõi. Ước chi điều cốt lõi được lặp lại hoài này, luôn có được vẻ tươi mát của buổi bình minh đang xuất hiện.

Nội tâm Thầy như mạch nước muốn vọt lên nhưng lại không vọt lên được. Điều Thầy muốn nói ra thì lại không thể diễn tả được. Và người nghe không bao giờ có thể hiểu, cũng không thể cảm nghiệm được với ánh sáng và cường độ mà Thầy mong muốn vì điều đó thuộc về Thầy một cách quá lạ thường. Cái "tôi" thẳm sâu này không sao tả xiết.

"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Nhưng lúc này, như thế là đủ rồi. Không thể nói thêm nữa, là người nghe cũng không thể tiếp thu hơn. Sự truyền đạt từ người này sang người kia kết thúc, vào lúc mối hiệp thông không còn có thể hiệp nhất thêm nữa.

"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Khi Đức Giêsu tâm sự điều này với các bạn hữu của Người, thì tình Thầy trò thân mật trước lúc chia ly rất phong phú đến nỗi không có thể nói gì hơn nữa.

Vả lại Người còn có thể mạc khải gì hơn về Người hoặc về Chúa Người chăng? Người chẳng phải là mạc khải đầy đủ về Thiên Chúa rồi đấy sao? Đây không phải một "món hàng tàng trữ" ngủ yên trong tủ sắt, hoặc được nâng niu giữ gìn trong hộp quý. Không đâu, đây là một dòng suối không hề cạn kiệt.

Thần Khí, trong khi giúp người ta hiểu biết và nhìn nhận Đức Gtêsu, sẽ khiến người ta không ngừng đói khát muốn hiểu biết hơn nữa. Thần Khí khơi dậy nơi lòng người tín hữu sự hiện diện của Đấng Phục sinh. Người giúp khám phá sự hiện diện đó là gì, có hệ quả gì trong cuộc sống thường nhật cũng như trong những giờ phút trọng đại của lịch sử.

Một sự hiện diện kín đáo và mãnh liệt.

Một sự hiện diện đầy bình an và tình thương.

Và sự hiện diện này là Sự sống. "

2. Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải, Người là ai?

(N. Quesson trong “Les entretiens du dimanche. Année C".

Roguet -Ardant. trg 101-102)

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: "Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à? Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.

Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương... , có thể nói được rằng: " đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau " hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực lại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng Ba Ngôi là một Chúa duy nhất.

Thật vậy bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kể trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một Người Con. Người chỉ mang trong tim, chỉ nói ra nơi cửa miệng cái tên của lòng yêu thương, các tên của Đấng mà, các trẻ nhỏ Do Thái ngày nay vẫn còn dùng để gọi cha của chúng trên các đường phố Giêrusalem.

Chúng ta vừa mới nghe những lời rất đơn sơ của Tin Mừng: Mọi sự thuộc về Cha, do thánh Gioan kể lại (Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu phiên dịch cách hồn nhiên là: à Papa le Bon diêu": thuộc về “Ba" Chúa Trời) những gì thuộc về Cha Thầy, là của Thầy. Rồi Người nói tiếp liền: " Thần Khí sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".

Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với "Ba Ngôi" vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn "qui hướng về Đấng khác".

Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng..., nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu thương.

 

77.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

THẦN KHÍ SỰ THẬT

1. “Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi”. Các nhà chú giải đã phải khổ vì mấy chữ trong 15,15 theo đó thì Chúa Giêsu đã nói tất cả cho các tông đồ. Chắc chắn Ngài đã nói hết cho họ vì Ngài là mạc khải hoàn hảo của Cha và không còn gì mới để Chúa Thánh Thần mạc khải thêm; vì thế đừng đợi chờ một mạc khải nào khác. Tất cả đã được Kitô mang đến vì Ngài là “lời” (1,1.14), là “sự cắt nghĩa” Chúa Cha (1,18). Không còn chữ nào có thể thêm vào Lời đó, không còn có thể sửa chữa được điều gì. Nhưng có thể quảng diễn ra dài hơn, trở lại những điều Ngài đã nói để thấu hiểu tường tận (thánh Gioan đã dùng phương pháp khai triển kiểu vòng ốc này) (x.14,16.26). Nếu Đức Kitô xét rằng nói hết bây giờ cho các tông đồ cũng đều vô ích, mặc dầu họ có nhiều thiện chí, là vì chỉ Thánh thần mới có thể biến họ đủ khả năng quán triệt mạc khải của Thiên Chúa bằng cách làm cho họ biết đón nhận “những điều thần thiêng (1Cr 2,13); như trẻ sơ sinh trong 1Cr 3,1, họ chưa có thể ăn uống gì ngoài sữa.

2. Thần khí “sự thật” đến khi mạc khải kết thúc, sẽ hoàn toàn đưa họ vào tận nguồn chân lý. Ngài sẽ hướng dẫn họ khám phá toàn bộ chân lý và chân lý sẽ là con đường sống đối với họ, là qui tắc nội tâm cho cuộc đời của họ (Tv 25,5.9; 143,10; Kn 9,11; 10,17). Mặc dầu Chúa đã truyền đạt tất cả những điều bí nhiệm cho (15,15), họ vẫn chưa thể hiểu hết được. Để thấu hiểu, họ cần có một phương pháp thích hợp mà khoa sư phạm của Thánh Thần sẽ mang đến. Thánh Thần không phải là thày dạy nhưng là một người lặp lại và giải thích lời giáo huấn của thày thôi. Ngài không tự quyền nói, cũng như Chúa Giêsu cũng như Chúa Giêsu không nói tự quyền mình (Ga 3,32; 7,16-17; 8,26-28.40,12,14,10; 15,15) nhưng chỉ mạc khải Chúa Cha để tôn vinh danh Người (Ga 12,28; 14,13; 15,8; 17,4-6) Vì thế Thánh Thần không có giáo thuyết riêng. Ngài chỉ đến khơi lại và giúp cho hiểu được mạc khải của Cha được Con (14,26).

Khoa sư phạm của Thánh Thần còn có một mục đích khác; soi sáng những biến cố sẽ xảy ra. Vì thấu hiểu mạc khải của Đức Kitô sẽ không ích gì nếu không biết áp dụng vào các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Nhờ ánh sáng của Ngài, môn đệ có khả năng nhận thức họ phải cư xử thế nào cho phù hợp với các hoàn cảnh khác nhau sẽ xảy đến, để điều chỉnh lối sống của họ theo nhân sinh quan và vũ trụ quan Kitô giáo. Người Kitô hữu nhìn mọi sự khác cái nhìn của lương dân vì họ giải thích tất cả bắt nguồn từ biến cố luôn hiện thực của Đức Kitô. Sự chết, sự phục sinh và lên trời của Ngài không phải chỉ là những sự kiện quá khứ đã xong xuôi chẳng còn âm hưởng gì đến thời hiện tại. Các hành vi cứu thế của Đức Kitô vẫn kéo dài từ thời gian này qua thời gian nọ, trong công việc tầm thường hàng ngày cũng như trong những biến động của lịch sử. Gán cho lịch sữ mộ ý nghĩa Kitô giáo, giúp khám phá ra những dấu vết của chương trình Thiên Chúa trong tất cả sự kiện đó ("vì tôi đã không e ngại mà dấu giếm đi, để không loan báo cho anh em biết ý định của Thiên Chúa")(Cv 20,27), chiếu ánh sáng sống động của mạc khải trên mọi biến cố, vào mọi thời đại: đó là sứ mệnh của Thánh thần nơi các môn đệ. Như vậy, Ngài không có tiên báo chi tiết về tương lai cũng như không tường thuật những biến cố làm đề tài của niên sử. Dưới con mắt của Ngài, điều thiết yếu không phải là chỗ đó, nhưng là chiều hướng diễn tiến của kế hoạch cứu rỗi.

Tuy nhiên, Thánh Thần sẽ biến tất cả Kitô hữu thành những ngôn sứ. Giống như các ngôn sứ CƯ, bổn phận chủ yếu của họ không phải là tiên báo, nhưng là khám phá ý định Thiên Chúa trong biến cố hiện đại, “đọc các thời triệu”, nhận biết chiều kích riêng của Thiên Chúa đằng sau những biến cố đó. Tất cả mọi biến cố của thế giới, xảy ra từ ngày Chúa Giêsu hiển vinh, đều thuộc về thời cánh chung, cho nên việc thấu hiểu trật tự mới, mà người đàn bà Samarotanô trông đợi nơi đấng Messia (4,25), chỉ có Thánh Thần thông ban mà thôi. Tác giả sách khải huyền đã thử nói tiên tri theo kiểu này.

Vì thế Thánh Thần không mang lại một mạc khải mới, nhưng chỉ liên tục giải thích mạc khải của Đức Kitô để không ngừng soi chiếu các biến cố của thời đại. Thánh Thần liên tục tham chiếu mạc khải của Đức Kitô. Ngài đón nhận tất cả từ Đức Kitô, cũng như Đức Kitô đã đón nhận mọi sự từ Cha. Có một tiếp nối hoàn hảo giũa mạc khải trong Đức Kitô và sự thông hiểu nhờ Thánh Thần. Cả hai đều bắt nguồn từ Cha.

Nhưng tất cả những cái đó không cấm giáo hội, dưới ảnh hưởng của Thánh Thần, giải thích không ngừng nội dung mạc khải do Đức Kitô mang đến, phát sinh cái mà các nhà khoa học gọi là “sự tiến triển các tín điều”. Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Thánh truyền do các tông đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo hội dưới sự trợ giúp của Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận những điều đó lòng (Lc 2,19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo hội (hiến chế mạc khải của Thiên Chúa, số 8).

KẾT LUẬN

1. Trước khi tiếp tục mùa quanh năm (là mùa sẽ kết thúc năm phụng vụ bằng lễ Chúa Kitô Vua). Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta thưởng thức mạc khải chính yếu do Đức Kitô mang đến. Qua tất cả những biến cố cuộc đời Ngài mà chúng ta đã cùng nhau sống lại suốt năm phụng vụ này Chúa Giêsu đã dần dần cho chúng ta nhận biết một cách cụ thể mối giây liên lạc giữa Ngài với Cha và Thánh Thần. Chính qua Ngài, chúng ta từ từ tiến sâu vào mạc khải của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã tỏ mình ra không như là một hữu thể trừu tượng, một kiến trúc của trí tuệ, hay còn tệ hơn nữa như một người xa lạ. Trong Đức Kitô, người trở nên một người trong chúng ta để chúng ta dễ nhận biết Ngài: “Ai thấy Ta là thấy Cha”, Chúa Giêsu đã nói với Philipphê như vậy.

2. Trong lời Chúa nghe hôm nay, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem Chúa Giêsu nói thế nào về Cha và Thánh Thần, Chúa đã tự mạc khải thế nào cho ta. Đầu tiên, Chúa Giêsu nói đến Cha và Thánh Thần như những ngôi vị riêng biệt khác với chính Ngài. Trong phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Khi Ngài đến, vì là Thần khí sự thật...”. Chúa Giêsu nói đến Ngài như một ngôi vị thật sự mà người ta đợi chờ, như một Đấng sẽ đến và sẽ hoàn tất một sứ mệnh rõ ràng và lạ thường.

Chúng ta nhớ lại là đã cùng nhau đọc và suy niệm một vài đoạn trong diễn từ sau Tiệc ly trong các Chúa nhật mùa Phục sinh; trong các đoạn đó, Chúa Giêsu thường nói về Cha và Thánh Thần; chính nơi Cha mà Con qui chiếu mọi dự định của mình và nhận lấy Lời để loan truyền. Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an và uỷ cho họ quyền hòa giải. Thánh Thần dẫn đưa những ai đón nhận Con đi đến chân lý.

3. Chính khi nói về các Đấng đó như những ngôi vị tách biệt, Chúa Giêsu cũng nói đến Cha và Thánh Thần như hiệp nhất với Ngài. Ngài cho thấy các đấng đã hiệp nhất với nhau đến nỗi Đấng này sẽ không làm gì nếu không có đấng kia. Trong bài phúc âm hôm nay cũng thấy nói đến sự hiệp nhất Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Thánh Thần chỉ lặp lại giáo huấn của Chúa Giêsu hay khi dạy là Ngài dạy về Chúa Giêsu. Mọi điều Đức Kitô biết và có được đều bắt nguồn từ Cha. Hơn nữa, tất cả những gì Cha biết và có thì Người đã ban cho Đức Kitô đến nỗi mỗi ngôi đều có cái mà ngôi kia có và đồng thời không chiếm hữu một điều gì riêng cho mình. Khi nói đến Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy các đấng vừa khác biệt vừa đồng nhất, vừa tách rời vừa hiệp nhất, khi các đấng hành động thì là ba, và đồng thời cũng chỉ có một hiện diện.

4. Khi nói cho chúng ta biết về chính Ngài và về mối tương giao của Ngài với Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu tỏ bí mật tình yêu cho chúng ta, Ngài thỏa mãn những gì mà chúng ta ao ước tự thâm tâm nhưng cảm thấy không thể nào đạt được.

Một đàng, sự phân biệt các ngôi vị cho thấy sự phân biệt tự trị trọn vẹn của mỗi ngôi. Cho nên có một sự kính trọng tuyệt đối và không có sự lệ thuộc hay thống trị lẫn nhau. Thật vậy ai mà không ước mơ được sự giải thoát khỏi uy lực của kẻ khác? Vì đó chính là điều kiện căn bản để ngôi vị được tự trị và độc lập trọn vẹn.

Đàng khác, có sự thông hiệp hoàn toàn của Ba Ngôi với nhau trong mối hiệp nhất. Các đấng không bao giờ làm việc gì mà không có nhau; các Ngài luôn cùng nhau hành động; điều gì ngôi này có thì ngôi kia cũng có; ngôi này là gì thì ngôi kia cũng vậy. Ai mà không ước mơ sự thông hiệp hoàn toàn với người khác, sự hiệp nhất khắn khít đến nỗi không còn ranh giới, đến nỗi thông giao với nhau một cách trọn vẹn, đơn sơ, chân thành. Ở đây chúng ta bắt gặp lại từ ngữ nổi tiếng của thánh Gioan, một từ ngữ mà chưa bao giờ có ai tát cạn ý nghĩa phong phú: “Thiên Chúa là tình yêu”. không phải là Thiên Chúa có tình yêu như có ánh sáng, quyền năng hay sự sống. Không! Ngài là tình yêu. Tình yêu là bản chất của Ngài.

5. Chính giữa lòng cuộc sống hàng ngày và trong mối tương giao với người khác, chúng ta sẽ dần dần bắt chước tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ học cách yêu thương dưới ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu xin Chúa mạc khải cho chúng ta có lòng ước muốn tình yêu đó. Như vậy sự hiểu biết Thiên Chúa sẽ làm tâm hồn ta luôn tràn ngập bình an và hân hoan vui sướng.

 

78.Lễ Chúa Ba Ngôi

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay được Giáo hội sắp xếp vào tuần thứ hai của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, ngay sau tuần Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi được Giáo Hội cử hành ngay sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống như thế thật là hợp tình hợp lý, vì biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là biến cố cho thấy Ngôi Ba Thiên Chúa là Ngôi Vị cuối cùng trong Ba Ngôi tỏ mình ra, sau khi Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người vào thời của Người, "thời sau hết" (Heb 1:2), "thời viên trọn" (Gal 4:4) cũng như sau khi Ngôi Cha đã tỏ Danh Ngài ra qua Moisen cho dân Do Thái trong thời Cựu Ước (x Ex 3:14). Tuy Giáo Hội không cử hành Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi trọng thể như Đại Lễ Giáng Sinh hay Đại Lễ Phục Sinh về phương diện phụng vụ, thế nhưng, về phương diện tín lý và tu đức, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao trọng nhất và siêu việt nhất. Nếu trong Cựu Ước Thiên Chúa đã tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất, một thực tại chi phối toàn diện Lịch Sử Cứu Rỗi thời Cựu Ước, thì trong thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất này lại tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi tuy được mạc khải sau Mầu Nhiệm Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất nhưng lại là tuyệt đỉnh của tất cả Mạc Khải Thần Linh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi vì, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất trong thời Cựu Ước ấy cũng chính là Vị Thiên Chúa Ba Ngôi của thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa tỏ hết mình ra nơi Con của Mình là Lời Nhập Thể bằng Quyền Phép Thánh Linh. Đó là tất cả ý nghĩa của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan Năm C hôm nay: "Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài truyền đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày". Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy niệm câu Phúc Âm mạc khải về hoạt động ngoại tại của Chúa Ba Ngôi này.

Trước hết, "những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày" đây là gì, nếu không phải là "những gì Cha có"? Mà "những gì Cha có" đây là gì, nếu không phải, như Chúa Kitô khẳng định, "đều ở nơi Thày" hay "đều thuộc về Thày" hoặc "đều là của Thày", tùy theo bản dịch. Theo tôi, cả câu Phúc Âm "Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày", và riêng câu "tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày" đây là cốt lõi của tất cả mạc khải về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì, qua câu "tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày" này, Chúa Kitô muốn mạc khải cho chúng ta thấy rằng: Người chính là bản thân của Cha, đúng như Thánh Phaolô xác tín và tuyên xưng trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 1 câu 3: "Người Con này là phản ánh vinh hiển Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha". Chính Chúa Kitô đã minh định trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 30: "Cha và Ta là một", đến nỗi, Người còn đoan quyết cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 9: "ai thấy Thày là thấy Cha". Thế nhưng, dù con người có được Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất mạc khải cho biết chính bản thân Ngài là ai và như thế nào qua Con Ngài Nhập Thể và Tử Giá, tự mình, con người vẫn không thể nào thấu hiểu được Mạc Khải Thần Linh tự bản chất vô cùng cao cả và có tính cách vô cùng lạ lùng không thể tin được này đối với tâm trí thấp hèn và hạn hẹp của con người. Do đó, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất đã tỏ hết mình ra nơi Con Mình như thế mới cần phải sai đến cùng con người "một Đấng Phù Trợ khác" (Jn 14:16), "Ngài là Thần Chân Lý" (Jn 16:13), "Vị Thần Linh thấu suốt mọi sự, kể cả những sự sâu nhiệm nơi Thiên Chúa", như Thánh Phaolô xác tín trong Thư Một gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 2 câu 10. Như thế, sứ vụ của Thánh Linh được sai đến là để giúp con người nhận biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài, đúng như Chúa Kitô minh xác về sứ vụ của Vị Thiên Chúa Ngôi Ba này, là để "thông đạt cho các con những gì Ngài lấy từ Thày" hay "những gì Cha có ở nơi Thày", tức là làm cho chúng ta "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Jn 17:3).

Nếu theo lời Chúa Giêsu mạc khải trong Lời Nguyện Tiệc Ly đoạn 17 câu 3, "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô", thì một khi chúng ta nhờ Thánh Thần để có thể nhận biết Chân Lý Tối Thượng này, tức là chúng ta đã có một Kiến Thức Thần Linh như Thiên Chúa, hay nói cách khác, tức là chúng ta biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài. Mà "nhận biết" đây hay Kiến Thức Thần Linh đây là chính "sự sống", vì "Sự sống đời đời là nhận biết", do đó, Thánh Linh là Đấng làm cho chúng ta "nhận biết", hay ban cho chúng ta Kiến Thức Thần Linh, tức là làm cho chúng ta được sống, Sự Sống Thần Linh của Thiên Chúa. "Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống" chính là ở chỗ này. Thật vậy, Sự Sống Thần Linh đây chính là Sự Sống nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống nơi Thiên Chúa đây là gì, nếu không phải là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Nếu Thiên Chúa không biết mình ngay từ đời đời cho đến đời đời thì Ngài không phải là Thiên Chúa, không phải là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu, Toàn Hữu, Hiện Hữu. Không phải hay sao, chỉ có tạo vật vô tri, mới không biết mình. Kể cả tạo vật có sự sống thể lý đi nữa, như cây cỏ thuộc loài thực vật và muông chim cầm thú thuộc loài động vật, cũng không biết mình. Trong "muôn vật hữu hình" được Thiên Chúa dựng nên trên "đất" thế gian chỉ có loài người mới có khả năng biết mình mà thôi. Khả năng đó chính là tâm linh của họ. Thế nhưng, thực tế cho thấy, dù con người có tâm linh để biết mình, song họ cũng không biết mình ngay khi vừa được thụ thai trong lòng mẹ, tức vừa hiện hữu trên đời. Trái lại, dù có thể biết được bản thân mình đi nữa, thế nhưng, cho tới chết, họ vẫn không thể nào thấu triệt được bản thân mình, tức vẫn không hoàn toàn biết hết về mình. Đó là lý do cho tới giây phút cuối cùng của cuộc đời, con người vẫn có thể lầm lỗi, vấp phạm, hay vẫn không biết mình đã lầm lỗi, vấp phạm mà ăn năn thống hối, nghĩa là, nếu không có ơn trên trợ giúp, hay nói đúng hơn, nếu không có "Đấng Phù Trợ khác" là Thánh Thần Thiên Chúa ở với, con người vĩnh viễn sẽ không nhận ra Chân Lý mà trở về với Đấng Tối Cao, tức vẫn không biết mình, hay nói cách khác, vẫn ở trong sự chết. Một tử thi vô hồn không biết gì nữa chính là hình ảnh của con người chết về tâm linh, hoàn toàn và vĩnh viễn không biết mình.

Trái lại, Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan đoạn 1 câu 5 đã công bố: "Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối tăm". Nghĩa là Thiên Chúa là hiện hữu, trong Ngài không có sự chết, không có vô tri, đúng như Ngài đã mạc khải Danh Ngài cho Moisen trong sách Xuất Hành ở đoạn 3 câu 14 "Ta là Đấng Hiện Hữu". Đúng thế, "Hiện Hữu" chính là Bản Tính Thần Linh của Thiên Chúa cũng là Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, như trên đã xác tín, chính là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Sáu chữ "Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân" đây là câu nói có thể tạm tóm gọn Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. "Thiên Chúa" đây hiểu là Ngôi Cha, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 245 giải thích: "Giáo Hội nhìn nhận Ngôi Cha như là 'nguồn gốc của tất cả thần tính"; "Bản Thân" đây hiểu là Ngôi Con, vì như trên đã trích lời Con tuyên bố: "Ai thấy Thày là thấy Cha"; và "Ý Thức" đây hiểu là Ngôi Ba, vì "Ngài là Thần Chân Lý" như Chúa Kitô đã mạc khải trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 17 và đoạn 16 câu 13. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, hay nói rõ hơn, Mầu Nhiệm Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, cũng là Thực Tại Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân này thật ra đã được mạc khải ngay từ đầu, khi Thiên Chúa thực hiện dự định "Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta và tương tự như chúng ta", một dự định được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 1 câu 26. Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài đây là gì, nếu không phải là "Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ", một mạc khải cũng được ghi nhận trong cùng Sách Khởi Nguyên ở đoạn 1 câu 27. Và Thiên Chúa đã dựng nên con người tương tự như Ngài đây như thế nào, nếu không phải có tâm linh, tức có khả năng nhận biết. Đó là lý do, ngay sau khi tỉnh dậy từ một giấc ngủ say, Adong đã nhận ngay ra bản thân mình là Evà qua câu nói đầu tiên mở màn cho lịch sử xã hội loài người: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi", như được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 2 câu 23.

Vâng, theo tôi, con người chúng ta chính là dụ ngôn Thiên Chúa muốn dùng để diễn tả Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi của Ngài. Thật vậy, nếu đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa có Ba Ngôi, và Ngôi nào cũng là Thiên Chúa, song chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất chứ không phải là Ba Thiên Chúa, thì mầu nhiệm đức tin này đã được Thiên Chúa tỏ cho thấy một phần nào nơi Mầu Nhiệm Con Người, một thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Ngôi Con được nhiệm sinh từ Ngôi Cha và cũng là Thiên Chúa thật thế nào, thì Evà cũng từ Adong mà có, và cũng là một con người thật như vậy. Rồi nếu Thánh Thần "bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra", Ngài cũng là Thiên Chúa thế nào, thì từ Adong cũng xuất phát một ý thức nhận biết Evà rồi cả hai nên một xác thịt, một con người như thế. Tóm lại, nếu chỉ có một Thiên Chúa duy nhất thế nào thì đầu tiên cũng chỉ có một con người duy nhất như vậy; thứ đến, nếu Thiên Chúa Duy Nhất ấy là chính Ngôi Cha thì con người duy nhất đầu tiên ấy là chính Adong; rồi từ Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha thế nào, thì từ Adong cũng phát sinh ra Evà cũng là con người có cùng bản tính như Adong như vậy; sau hết, bởi Chúa Cha và Chúa Con đã xuất phát Thánh Thần cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha và Ngôi Con thế nào, thì Adong và Evà cũng nên một xác thịt như một con người như vậy.

Ôi, được phản ánh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế, thân phận con người nhân loại chúng ta nói chung cao cả biết bao, và ơn gọi hôn nhân của chúng ta nói riêng trọng đại biết mấy! Thế nhưng, chúng ta đã sống thân phận làm người và ơn gọi hôn nhân của chúng ta như thế nào để phản ảnh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?

 

79.Mầu nhiệm hiệp thông và chia sẻ

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

1. LỜI CHÚA: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28,19).

2. CÂU CHUYỆN: Chính tôi đã gặp thấy Người.

Hồi ấy Anrê Phốtsa (André Foissard) là một sinh viên thuộc một gia đình vô tín ngưỡng. Thân phụ ông là người vô thần, cố tình để trên bàn học của con các sách báo có nội dung bài bác đạo Công giáo để con cũng đi heo sự vô tín của mình. Nhưng dù sống trong môi trường vô tín như thế, Phốt-sa vẫn đạt tới đức tin nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Một hôm, anh đi vào nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri để tìm một người bạn. Cặp mắt của anh tình cờ nhìn thấy tượng Chúa Giê su đang chịu đóng đanh trên cây thập giá. Lập tức anh đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Anh đã đứng dưới chân cây thập giá ấy một hồi lâu và những giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn dài trên má. Bấy giờ anh cảm thấy mình như một đứa con đi lạc trong một thời gian dài, vừa tìm thấy người cha thân yêu. Sau này anh đã thuật lại biến cố ấy trong một tác phẩm thời danh là "Quả thật có Thiên Chúa. Chính tôi đã gặp Ngài".

3. SUY NIỆM:

- Nhận biết có Thiên Chúa: Với trí khôn suy luận theo nguyên lý nhân quả, người ta có thể biết có Đấng Tạo Hóa. Nhưng trong nhiều trường hợp, người ta còn cảm nhận được sự hiện hữu của Người, như trong câu chuyện của ông An-rê Phốt-sa nói trên.

- Hiểu biết về Thiên Chúa: Chính nhờ Đức Giê su, loài người mới hiểu biết rõ ràng về Thiên Chúa. Chẳng hạn Thiên Chúa chỉ là Một nhưng Ngài lại có Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha yêu Chúa Con từ trước muôn đời và đã sai Chúa Con xuống trần gian làm người gọi là Đấng Thiên Sai. Chúa Thánh Thần là Chúa Ngôi Ba, là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa con. Như vậy Thiên Chúa không những là Đấng Độc Nhất (x. Xh 20,2-3), mà Ngài còn là Ba Ngôi. Như các thành viên trong một gia đình, Ba Ngôi luôn hiệp thông mật thiết với nhau và chia sẻ cho nhau mọi sự mình có (x Ga 16,15).

- Các bằng chứng về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước:

+ Trong cuộc Thần hiện tại sông Gio-đan: Tin mừng Mát-thêu đã thuật lại như sau: "Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khi Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự xuống trên Người. Và có tiếng từ trời phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người" (Mt 3,16-17).

+ Khi nói chuyên với ông Ni-cô-dê-mô: Đức Giêsu đã mặc khải về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi cho ông như sau: "Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những Lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Con thì được sống đời đời" (Ga 3,34-36a).

+ Khi trao sứ mệnh truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28,19).

+ Trong bài giảng của Phê-rô vào lễ Ngũ Tuần: sau khi được Chúa Thánh Thần hiện Xuống Phê-rô đã giảng như sau: "Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: Đó là điều anh em đang thấy và đang nghe" (Cv 2,33).

+ Thánh Phao lô cầu chúc cho các tín hữu trong thư Cô-rin-tô: "Cầu chúc toàn thể anh em được tràn đầy ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men" (2 Cr 13,13). Trong thu Ga-lát: "Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em... Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác, làm ngôi nhà Thiên Chúa" (Ep 2,18.22).

- Sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi:

+ Mỗi ngày, khi làm dấu Thánh giá là chúng ta tuyên xưng đức tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Làm dấu Thánh giá là ta ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể và trên mọi hoạt động của ta. Do đó ta cần phải làm mọi việc cách nghiêm túc đẹp lòng Thiên Chúa.

+ Như "Thiên Chúa vừa là Một theo Bản Tính, vừa là Ba theo Ngôi Vị", Hội thánh cũng phải vừa thống nhất vừa đa dạng. Hội thánh có mười hai Tông đồ, bốn sách Tin mừng, hai kinh Lạy Cha... Tuy nhiên, để sự thống nhất mà không trở nên khép kín nghèo nàn, để sự đa dạng đừng biến thành cớ gây chia rẽ, thì cần phải có sự hiệp thông sâu xa giữa mọi thành phần trong Hội thánh. Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của loài người.

+ Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta ý thức sự hiện diện của Ba Ngôi nơi chúng ta như Đức Giê-su đã dạy: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Ngòai ra Thiên Chúa siêu việt cũng ở với chúng ta và nhắc nhở chúng ta qua tiếng lương tâm. Chúng ta chỉ cần hướng vào nội tâm là sẽ gặp Người. Chúng ta cần ý thức và tôn kính sự hiện diện ấy và để cho tình yêu của Chúa Ba Ngôi tự do hoạt động nơi chúng ta, và qua chúng ta đến với các dân tộc trên thế giới.

4.THẢO LUẬN:

1) Chúa Cha là Đấng sáng tạo, Chúa Con là Đấng cứu chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Vậy mỗi tín hữu phải có bổn phận thế nào đối với Chúa Ba Ngôi?

2) "Thiên Chúa là Tình Yêu". Vậy bạn cần sống tinh thần hiệp thông, chia sẻ yêu thương nơi gia đình, đoàn thể và trong xứ đạo của bạn thế nào để nên giống như tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa?

5. NGUYỆN CẦU

- Lạy Chúa Cha đầy tình yêu thương. Xin cho chúng con biết thực thi bác ái trong cuộc sống hằng ngày để xứng đáng trở thành con cái của Cha: Giữa một thế giới đang tôn thờ quyền lực và đề cao lợi lộc vật chất, xin dạy chúng con biết phục vụ tha nhân trong sự âm thầm vô vụ lợi. Giữa một thế giới muốn thống trị chiếm đoạt, xin dạy chúng con biết nhận ra mọi người là anh em để khiêm nhường phục vụ cho nhau.

- Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Chúa là mẫu mực của một tình yêu tinh tuyền. Xin cho các tín hữu chúng con trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa lòng xã hội. Xin dạy chúng con biết yêu người như Chúa đã yêu con, biết sống với và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường đón nhận. Lạy Ba Ngôi chí thánh. Xin cho chúng con vững tin vào sự hiện diện của Chúa đang ở trong con và ở trong những người đang đi tìm Chúa.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

80.Lễ Chúa Ba Ngôi - Lm Phạm Ngọc Lê

1. Thiên Chúa tự mạc khải cho ta. Không có trí khôn nào của con người dù xuất chúng và hoàn hảo nhất có thể hiểu thấu mầu nhiệm đời sống tự tại của chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Không có một triết thuyết nào có thể chứng tỏ Thiên Chúa là một đồng thời là ba dựa trên sự suy luận. Không có một tôn giáo nào có thể vén lên bức màn che nơi cực thánh ẩn chứa thực tại của Thiên Chúa, là Chân lý, Tình Yêu và sự sống. Những điều ta hiểu về Thiên Chúa hằng sống và chân thật đều do Thiên Chúa tự mạc khải cho ta: "Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài". (MK, 2) Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra, trước hết như Đấng tạo hóa và quan phòng mọi tạo vật. (Bài 1) Bài Tin Mừng dạy ta rằng Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, đã mạc khải cho ta biết chúng ta là con cái Thiên Chúa. Về phần Chúa Thánh Thần, Ngài dẫn đưa ta đến sự thật toàn vẹn. Điều đó có nghĩa là Ngài giúp ta hiểu và kinh nghiệm sâu xa hơn thực tại đời sống Ba Ngôi và kết quả của đời sống ấy phát sinh cho đời sống của chúng ta trong thế giới: bình an với Chúa Cha, làm con củaThiên Chúa qua phép rửa, được Thiên Chúa yêu thương nhờ đó ta có thể vượt qua mọi thử thách và luôn sống trong niềm hy vọng chắc chắn. Thiên Chúa không tự mạc khải mình như một cụ già cô độc, nhưng như một người Cha với cuộc sống gia đình chan hòa mà hai điểm nổi bật đó là sự thật và tình yêu.

2. Thiên Chúa mạc khải cho ta và thách thức ta. Khi mạc khải chính đời sống thâm sâu của mình, Thiên Chúa tỏ cho nhân loại căn tính sâu thẳm của họ và phận vụ quan trọng nhất của họ trong lịch sử. Vì thế mà mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không thể không có liên quan gì đến người kitô hữu. Như Giáo lý dạy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là ánh sáng chiếu soi chúng ta. (CCC, 234). Gợi lên trong trí ta về việc sáng tạo, vì Chúa Cha tạo dựng vũ trụ và con người với đôi tay tài năng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Bài 1) Mạc khải cho ta không chỉ thân phận thụ tạo của ta mà còn cho biết về cuộc sống chiêm ngưỡng và hiệp thông của ta nữa. Ngài cho ta hiểu mối liên hệ trong gia đình Thiên Chúa (Tin Mừng) và qua đó, cho ta thấy sự hiệp thông của ta vào đời sống thần linh này và ta phải là phản ấy của cuộc sống ấy. Ta được tỏ cho biết thân phận của ta, như người biết lắng nghe Thánh Thần, thần chân lý sẽ truyền đạt tất cả những gì mà Ngài đã nghe được từ nới Cha và nhận được từ Ngôi Lời nhập thể. Bằng hoạt động của Thánh Thần, Ngài tỏ cho ta biết thân phận của chúng ta những người nam nữ của niềm hy vọng đối lại những người chẳng có niềm hy vọng, những người không có niềm tin; một niềm hy vọng vững chắc không làm ta thất vọng (Bài 2) Mạc khải về căn tính của ta, đặt ta trước Thiên Chúa Ba Ngôi hằng sống, đưa ta đi vào đời sống thần linh để rồi mỗi một kitô hữu diễn tả ra trong cuộc sống hằng ngày, đây là một thách đố. Nó trở thành hiện thực trong sự hiệp nhất niềm tin, trong tình yêu là yếu tính của kitô giáo, trong vâng phục theo thúc đẩy của Thánh Thần trong tâm hồn, với tư cách là Thần dạy chân lý, và trong nhiều cách diễn đạt mang tính văn hóa của cùng một đức tin duy nhất.

Gợi Ý Mục Vụ.

1. Mầu Nhiệm của Đức Tin và Tình Yêu. Đây không phải chỉ là một mầu nhiệm để ta tin mà còn để ta yêu mến nữa. Tôi tin, chúng ta tin, một Thiên Chúa duy nhất, mà với tư cách là Cha ban sự sống cho ta, trong tư cách là Con mời gọi ta sống tròn đầy kinh nghiệm làm con mà Ngài chia sẻ cho ta, và trong tư cách là Thần Khí là tình yêu tương giao giữa Cha và Con, dạy ta biết yếu tính của Thiên Chúa và của mọi tạo vật chính là tình yêu. Tôi tin Thiên Chúa là sự Sống, Hiệp thông, Chân lý và Tình yêu. Tôi tin rằng khi chiếm hũu được những giá trị linh thiêng ấy, tôi sẽ đạt được sự toàn hảo của con người và của người kitô hữu. Là kitô hữu, tôi bày tỏ niềm tin của tôi bằng việc yêu mến sự cao cả và vẻ đẹp của Chúa Ba Ngôi. Với tình yêu của tôi dành cho từng ngôi vị, tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là điều trừu tượng, không phải là điều tốt đẹp thuộc thế giới tâm linh, càng không phải là trò chơi của những ý niệm nhờ đó ta có thể hiểu những suy tư của các nhà thần học, nhưng Thiên Chúa Ba Ngôi vị mà tôi yêu như một người con cái, mà tôi vâng phục như là một tạo vật, mà tôi tôn thờ vì Ngài là Chúa và là Thiên Chúa của tôi. Tôi nghĩ đây là điều tích cực và thiết yếu vì ngay từ những lớp giáo lý sơ đẳng, các trẻ em đã được dẫn đưa vào mối liên hệ để phụng thờ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Từ những hiểu biết giáo lý về Chúa Ba Ngôi, ta được giải thích rõ hơn dựa trên nền tảng của Thánh Lễ, khởi đầu và kết thúc nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và về Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Thánh Lễ, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nói với con người (trẻ thơ và người trưởng thành) dựa trên Tin Mừng. Trong Thánh Lễ, mọi kinh nguyện đều quy về Chúa Cha, nguồn mạch mọi ân phúc. Trong Thánh Lễ, Thánh Thần hiện diện và hoạt động cách đặc biệt trong lúc truyền phép để biến đổi bánh rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô, và biến đổi cuộc sống nghèo hèn của chúng ta khi ta tiếp rước Mình Máu Đức Kitô. Nếu Thiên Chúa là mầu nhiệm của Tình Yêu, sao ta không thích con đường tốt nhất để đi vào mầu nhiệm đó?

2. Vinh Quang Của Ba Ngôi. Ba Ngôi được vinh hiển khi con người sống có ý nghĩa và có mục đích, và qua họ toàn thể tạo thành. Vậy con người phải sống ra sao? Họ phải sống đúng phẩm giá của họ, đúng phẩm giá của một con người và đúng theo ơn gọi của một kitô hữu. Đây chính là bi kịch của mầu nhiệm Ba Ngôi, cũng là bi kịch của con người: thường thì vinh quang của Ba Ngôi bị con người làm cho mờ tối. Họ không sống đúng như họ phải sống, khi họ tin rằng họ toàn quyền thay vì là những tạo vật lệ thuộc, khi họ sống và sử dụng tạo vật tùy theo lợi ích của riêng họ. Con người không sống đúng như họ phải sống khi mà họ quên rằng họ được Thiên Chúa tạo dựng theo hình Ngài và cho rằng hình ảnh đẹp nhất của họ là nơi thú vật. Con người không sống đúng theo như họ phải sống khi họ nghĩ rằng họ không được tạo dựng từ tình yêu và cho tình yêu, và khi họ nghĩ rằng sự trọn hảo của riêng họ tương ứng với việc họ thống trị trên kẻ khác. Con người không sống đúng như họ phải sống khi mà họ tin rằng họ là chủ cuộc sống và từ đó họ sống tùy thích hơn là sống như những kẻ thụ ân, biết quản lý cuộc sống của mình cách khôn ngoan vì đã nhận tất cả từ chính Thiên Chúa.

 

81.Sống Tình Yêu Ba Ngôi

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin Mừng Ga 16: 12-15: Với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân.

Trong tất cả mọi thực tại tuyệt diệu khó hiểu của cuộc sống con người, có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất: Đố ai cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều...Tình yêu của con người mà còn khó hiểu, thì tình yêu của Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn gấp ngàn vạn lần. Bởi vì, Thiên Chúa được gì khi tạo dựng nên chúng? Tại sao Chúa lại phải chịu chết để cứu chuộc chúng ta? Chỉ có tình yêu đích thực vô biên và vô vị lợi mới trao ban sự sống và tận hiến tất cả.

Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.

Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.

Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: "Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa" (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Lễ Chúa Ba Ngôi cho ta thấy được mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Và theo sự diễn tả của thánh Gioan, thì từ nguyên thủy đã có tình yêu và tình yêu qui hướng về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa chính là tình yêu. Và tình yêu đã nhập thể, đến sống giữa chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ ra cho loài người, như là Con Thiên Chúa. Đồng thời, trong Ngài chúng ta nhận Thiên Chúa là Cha và Chúa Thánh Thần như là người mẹ trao ban sự sống. Tuy chỉ là một, nhưng Ngài lại có Ba Ngôi, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: "Cha ơi". Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.

Điều độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất. Phải có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt về hiện hữu, về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v.v... và sống với những khác biệt đó, hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính hiện hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống với tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống không phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự sống thần linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.

Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian... cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.

Mừng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.

Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì "Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa". Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.

Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta "như con ngươi trong mắt Ngài". Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu "như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi". Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân.

Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là "hoạ ảnh của Chúa", nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.

 

82.Hiệp nhất trong Tình Yêu Ba Ngôi

(Suy niệm của Huệ Minh)

Nhớ lại vừa mới bắt đầu Thánh Lể, lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay: "Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Dẫu rằng mừng Lễ Ba Ngôi nhưng các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.

Kinh Thánh đã nói gì về Chúa Ba Ngôi. Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất bàn về Chúa Ba Ngôi được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, khi Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Thật vậy, nhìn lại ta thấy hình ảnh đặc trưng nhất về Chúa Ba Ngôi là hình ảnh khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đang khi đó, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, rồi từ trời có tiếng nói: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Tiếng nói, chim bồ câu và Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi.

Thánh Phaolô cũng bàn về Chúa Ba Ngôi khi viết: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.

Hẳn ta còn nhớ thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, cũng như trong Tin Mừng, đã nhìn nhận lịch sử cứu độ mang chiều kích của Chúa Ba Ngôi. Thời Cựu Ước là thời của Chúa Cha. Thời điểm giảng Tin Mừng là thời điểm của Chúa Con và thời này là thời của Chúa Thánh Thần. Kinh Tín Kính chúng ta đọc trong thánh lễ cũng đã tuyên xưng: Chúa Cha là Đấng sáng tạo. Chúa Con là Đấng cứu độ và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, trao ban nguồn sống.

Thật vậy, chính Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và hoàn tất nơi Chúa Giêsu, Ngài mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao.

Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó". Và nơi Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Ðức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.

Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả.

Chuyện xảy đến nơi tâm tư của thánh Augustinô khi Ngài suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật."

Quả thật, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn trong đạo, vượt qua cái giới hạn nhỏ bé của trí khôn con người. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là nhờ Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Điểm cốt yếu không phải là bàn luận xem thế nào là 3 và thế nào là 1. Nhưng chính là tình thương của Thiên Chúa.

Đúng như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Khởi sự từ ý tưởng của Chúa Cha, được thực hiện do Chúa Con và được tiếp nối do Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy ngày nay vẫn còn được tiếp diễn qua từng người Kitô hữu, cũng như qua từng cộng đoàn, qua từng giáo xứ bằng những nỗ lực, những cố gắng liên kết mọi người lại trong công bình, yêu thương và hợp nhất. Cuộc sống của Chúa Ba Ngôi là tình thương. Ước chi cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng phải ngập tràn tình thương để trở nên một phản ảnh trung thực của Chúa Ba Ngôi.

Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)

Và ta thấy Chúa Giêsu hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”

Rồi Ngài cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.

Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Ðây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời

Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn.

Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta luôn được ơn Chúa soi sáng để chúng ta có thể có một đức tin sáng suốt và mạnh mẽ, không phải chỉ dựa vào lý trí, nhưng bằng chính đời sống thực hành đức tin hàng ngày của chúng ta qua đức Bác Ái mà Ba Ngôi Thiên Chúa mời gọi

home Mục lục Lưu trữ