Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 20
Tổng truy cập: 1364410
CHÚA DẠY CẦU NGUYỆN
CHÚA DẠY CẦU NGUYỆN
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 11: 1-13: Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người đi vào một mối tương quan hoàn toàn mới mẻ. Qua kinh này, Người thông ban cho môn đệ và những ai tin vào Người quyền gọi Thiên Chúa là Cha như Người.
Cầu nguyện là thái độ sống căn bản của Kitô hữu. Trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện con người gặp gỡ Thiên Chúa, được nối kết và gắn bó mật thiết với Người. Cầu nguyện có khả năng mang lại sức mạnh cho đời sống đức tin. Không cầu nguyện thì không còn là Kitô hữu. Chắc hẳn ý thức được điều đó, các môn đệ đã xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện. Các bản văn lời Chúa hôm nay nêu bật sức mạnh và vai trò quan trọng của việc cầu nguyện trong đời sống đức tin.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 11,1-13
Kinh Lạy Cha và hiệu lực của việc cầu nguyện
Đáp lại yêu cầu của các môn đệ xin Người dạy cho biết cách cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, đồng thời, qua các dụ ngôn sau đó, Người cũng cho thấy sức mạnh và hiệu quả của việc cầu nguyện. Cầu nguyện là đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa là Cha, để từ đó, đón nhận được ơn sủng của Chúa cũng như khả năng sống theo Ý Chúa.
a. Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ không chỉ biết cách cầu nguyện như thế nào mà còn đưa các ông đi vào trong mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là Cha. Cầu nguyện là sống tương quan con thảo với Chúa Cha; sống tương quan huynh đệ với mọi người trong Thiên Chúa.
b. Các ý tưởng cầu nguyện của kinh Lạy Cha cho thấy cầu nguyện không chỉ là xin ơn mà còn là làm sao cho Danh chúa được hiển vinh; là đón nhận và thực thi ý Chúa; là lên đường xây dựng Nước Chúa.
c. Với các dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu cho thấy hiệu quả lớn lao do việc cầu nguyện mang lại. Nếu biết bền tâm cầu nguyện thì chắc chắn luôn được Thiên Chúa nhận lời. Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn luôn ban cho con cái mình những điều thiện hảo.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Lạy Thầy! Xin dạy chúng con cầu nguyện:
Theo nhiều nhà tu đức và truyền thống của Giáo hội thì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Một linh hồn cầu nguyện là một linh hồn đang sống động. Nhờ Bí tích Thánh tẩy, con người được hiệp thông sự sống của chính Thiên Chúa; được gọi Thiên Chúa là Cha. Một mối tương quan tình yêu đã được thiết lập giữa Thiên Chúa và chúng ta. Thiên Chúa là Cha còn chúng ta là con cái của Ngài. Mối tương quan đó có sống động, tồn tại và phát triển hay không tùy thuộc vào thái độ, vào đời sống cầu nguyện của mỗi cá nhân. Chính trong cầu nguyện mỗi người ngày càng thắt chặt và đi sâu vào trong thân tình với Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu đã luôn luôn cầu nguyện. Người đã dạy kinh Lạy Cha sau khi cầu nguyện riêng. Do đó, kinh này phát xuất từ chính kinh nghiệm cầu nguyện của Người. Kinh Lạy Cha phản ánh mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha, và Người đã hướng dẫn để mọi người cùng sống mối tương quan đó với Người.
Cầu nguyện cần thiết như thế cho nên, phải bắt chước các môn đệ cầu xin Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Không thể nào sống mối tương quan mật thiết với Chúa Cha nếu không biết cầu nguyện, không chịu cầu nguyện và không chân thành cầu nguyện.
2. Lạy Cha chúng con ở trên trời:
Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người đi vào một mối tương quan hoàn toàn mới mẻ. Qua kinh này, Người thông ban cho môn đệ và những ai tin vào Người quyền gọi Thiên Chúa là Cha như Người. Thiên Chúa là Cha là động lực mạnh mẽ của mọi kinh nguyện Kitô giáo. Gọi Thiên Chúa là cha là ơn huệ vô song mà người Kitô hữu nhận được từ nơi Thiên Chúa. Ơn huệ này là nguồn của mọi ơn huệ vì nhờ đó, con người được trở nên con cái, được đồng thừa tự với Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa Cha. Khi trở nên con Thiên Chúa được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng đồng thời, được nối kết với mọi người để trở nên anh chị em của nhau. Lời kinh "Lạy Cha chúng con ở trên trời" nói lên thân phận của Kitô hữu là con Chúa, là anh chị em của nhau; nói lên niềm hy vọng vì sẽ thuộc về Nước Trời; nói lên tình yêu hiệp nhất của Kitô hữu.
Kinh Lạy Cha là câu kinh quen thuộc chắc hẳn mọi người đều thuộc làu, đều đọc hằng ngày. Tuy nhiên, mỗi khi vang lên lời kinh ấy trên môi miệng, người đọc có thực sự sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha không? Có thực sự ý thức và sống mối tương quan huynh đệ với mọi người chung quanh không?
3. Hãy xin thì sẽ được:
Kết thúc dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu khẳng định: Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho. Những lời này vừa gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng trong cầu nguyện vừa dạy chúng ta thái độ tin tưởng và sự bền tâm cầu nguyện. Chắc chắn không ai cầu nguyện nếu không tin tưởng, không hy vọng. Lời Chúa Giêsu không phải là một lời hứa nhưng Người nói lên một thực tại. Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn lắng nghe và thỏa mãn mọi lời con cái nài van. Thiên Chúa sẽ ban không chỉ những gì chúng ta xin mà còn ban hơn nữa, ban chính Chúa Thánh Thần, là nguồn hồng ân. Đấy cũng chính là sức mạnh và hiệu quả của lời cầu nguyện. Từ kinh nghiệm nài van của Abraham khi cầu xin cho thành Sôđôma (bài đọc I) đến dụ ngôn trong Tin mừng, tất cả gợi lên cho chúng ta bài học quí báu: Hãy cầu nguyện, cầu nguyện không ngừng. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta ước mong.
Tin mừng hôm nay hướng dẫn chúng ta, những Kitô hữu cách thức, thái độ phải có khi cầu nguyện và giá trị vô song của cầu nguyện. Dựa vào đó, mỗi người hãy nhìn lại đời sống cầu nguyện của mình. Tôi đã và đang cầu nguyện như thế nào?
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là cha chúng ta, Ngài hằng yêu thương chăm lo cho chúng ta với tất cả tình phụ tử. Trong niềm tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo hội qua đời sống kinh nguyện và Thánh lễ có trách nhiệm khẩn cầu Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho đời sống cầu nguyện của Giáo hội ngày càng phong phú hơn để đưa được nhiều người trở về với Chúa là Cha và làm cho Nước Chúa ngày càng phát triển.
2. Mọi người đều được mời gọi trở nên con cái của Chúa và là anh chị em của nhau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho thế giới hôm nay có hòa bình và công lý, cho xã hội ngày càng thắm đượm tình người hơn.
3. Được qui tụ lại trong tình Thiên Chúa là Cha. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết sống cầu nguyện, nhờ đó, mọi người biết xây dựng và phát triển tình yêu thương hiệp nhất trong gia đình, trong cộng đoàn cũng như trong toàn thể Giáo hội.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Xin nhìn đến đời sống đức tin của chúng con là con cái Chúa. Xin gia tăng niềm tin và niềm hy vọng nơi chúng con để tất cả mọi người biết chuyên cần cầu nguyện và mọi lời cầu nguyện chúng con dâng lên làm đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
31.Phải cầu nguyện như thế nào?
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
Các môn đệ cũng đã nhiều lần thắc mắc, họ không biết phải thân thưa làm sao, hay phải nói thế nào khi cầu nguyện. Rất nhiều lần, các ông thấy Chúa Giêsu đắm mình trong thinh lặng: khi sáng sớm, lúc hoàng hôn, nơi hoang địa, trên biển hồ… Và rồi để giải tỏa những nỗi khắc khoải trong lòng họ, Đức Giêsu đã dạy các học trò cầu nguyện.
Người bảo các công: “Khi cầu nguyện anh em hãy nói Lạy Cha…”
Cha ơi! Như một em bé mới bập bẹ tập nói, nó gọi baba, và lập tức người cha sẽ chạy đến và ẵm em vào lòng. Thiên Chúa là Cha. Thật vậy người Ki-tô giáo luôn tuyên tín vào Mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha. Ngài đón nhận con cái mọi người với tình yêu Phụ tử. Mỗi lần con cái kêu lên thì không bao giờ người Cha lại ngoảnh mặt làm ngơ. Trái lại, người cha sẵn sàng và chờ đợi để ban xuống muôn ơn lành cho con cái của mình. Và hơn thế nữa, bao giờ người Cha cũng luôn trao cho con những món quà tốt đẹp nhất.
Và Người nói: “Ai trong anh em là người cha, mà khi con cái xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? (Lc 11, 11). Thiên Chúa nhân từ, Ngài luôn rộng mở và quảng đại trao ban cho mọi người tất cả. Miễn là chúng ta kiên tâm và vững lòng như hình ảnh một người bạn đi đường, giữa đêm khuya gõ cửa nhờ đến một người bạn khác của mình vậy: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta lì ra đó” (Lc 11, 8).
Cầu nguyện là tạo một mối liên hệ thâm sâu và vững bền với Chúa, bằng lời, bằng con tim và bằng cả trí hiểu. Như thế cầu nguyện không chỉ là mong muốn và đạt thấu những điều thuộc về mình, nhưng là một khám phá trong tình yêu với Đấng mà mình cậy trông.
Đức Giêsu dạy kinh nguyện cầu nguyện, và chính Ngài cũng đã trải nghiệm qua từng phút giây trong cuộc đời. Anh em hãy tỉnh thức và cầunguyện. Như một thong điệp cho mọi người. Kinh Lạy Cha, một lời nguyện xin chân thành và đầy đủ ý nghĩa cho bất cứ ai, muốn gặp gỡ Đức Giêsu, trong cuộc đời của mình.
32.Hiệu quả của lời cầu xin
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
Đời sống của Đức Giêsu luôn chìm đắm trong ân sủng của cầu nguyện, từ sáng sớm cho đến lúc chiều về, Ngài luôn cầu nguyện và dạy các Tông đồ của mình cũng hãy làm như vậy. Bản kinh Lạy Cha được ra đời trong hoàn cảnh: “ Lần kia, Ngài cầu nguyện ở một nơi nọ; Ngài xong rồi thì một môn đồ thưa Ngài: “ Lạy Thầy, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Gioan đã dạy các môn đồ của ông” (Lc 11, 1). Chẳng phải người môn đồ của Đức Ki-tô, vì chiêm ngưỡng Thầy mình cầu nguyện trước, rồi khao khát cầu nguyện đó sao?
Cầu nguyện là gì?
Có nhiều cách để định nghĩa về điều này, nhưng như Thánh Gioan Đamascênô: “ Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp”, còn Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu thì: “ cầu nguyện là sự hướng lòng lên, là cái nhìn đơn sơ hướng về Trời, là tiếng kêu tri ân và yêu mến cả trong cơn thử thách lẫn trong lúc vui mừng”. Và trong cả những lúc: “ Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26), thì Thiên Chúa vẫn luôn đáp lời và sẵn sàng đón nhận những lời cầu xin “ Từ vực thẳm” (Tv 130. 1), của mỗi chúng ta.
Tổ phụ Abraham cầu nguyện Thiên Chúa muốn phạt và tiêu diệt dân thành Sô-đôm và Gomora, vì tội lỗi của họ. Abraham muốn cứu dân khỏi tội chết. Ông cầu xin cùng Thiên Chúa, với lời cầu nguyện thống thiết, nài nỉ và kiên trì. Con số năm mươi người công chính có mặt trong thành, rồi từ từ hạ xuống với con số là mười người. nhờ lời cầu bàu của Abraham, Thiên Chúa đã không hủy diệt các dân trong thành.
“Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho”(Lc 11, 9). Sống cầu nguyện là sống tin, cậy và mến Chúa một cách trọn vẹn. Sự tín thác vào Chúa quan phòng sẽ giúp con người thoát khỏi mọi ràng buộc trên bước đường trần thế, và chỉ để cuộc đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay của Thiên Chúa đầy lòng từ bi.
33.Sống nương tựa nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:
Tôi hỏi đất: đất sống với nhau thế nào?
Đất trả lời: chúng tôi làm nền móng cho nhau
Tôi hỏi nước: nước sống với nhau thế nào?
Nước trả lời: chúng tôi hoà lẫn vào nhau
Tôi hỏi gió: gió sống với nhau thế nào?
Gió trả lời: chúng tôi nâng cánh cho nhau
Tôi hỏi mây: mây sống với nhau thế nào?
Mây trả lời: chúng tôi tan biến vào nhau
Tôi hỏi cỏ: cỏ sống với nhau thế nào?
Cỏ trả lời: chúng tôi hoà quyện và réo rắt bên nhau
Tôi hỏi cây: cây sống với nhau thế nào?
Cây trả lời: chúng tôi che chở và leo quấn cho nhau
Tôi hỏi người: người sống với nhau thế nào?
Không ai trả lời
Không ai trả lời
Không ai nói gì cả
Vì người còn đang bận giận hờn và chà đạp lên nhau
Vì người còn chôn chặt nụ cười và không cùng chia sẻ
Vì người còn nghi kị và mưu chước lẫn nhau
Vì người còn nặng nỗi thương đau
Vì người còn quên cách yêu nhau
Vì người còn chưa biết được rằng sự sống vốn rất mau... tàn lụi...
Quả thực, một cuộc sống chung đòi hỏi phải đón nhận nhau trong sự tôn trọng, chia sẻ và đỡ nâng nhau. Như đất, như nước, như gió... biết hòa tan trong nhau để bảo vệ và nâng đỡ nhau. Nếu cuộc sống chung chỉ muốn độc tôn mình và loại trừ người khác thì cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường đẫm máu và nước mắt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn nhận một mối giây liên hệ thật gần gũi giữa người với người. Đó là liên hệ anh em con một Cha trên trời. Chúa bảo chúng ta phải sống yêu thương nhau để làm rạng danh Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sống tuân theo thiên ý để mọi người được sống yêu thương nhau. Một cuộc sống mà mỗi người cùng nhìn nhận nhau là anh em thì chắc chắc cuộc đời sẽ “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, để rồi “chín bỏ làm mười” mà sống hòa thuận yêu thương nhau. Một cuộc sống nhìn nhận nhau có chung một cha trên trời sẽ nâng đỡ chia sẻ với nhau, đến nỗi “chị ngã em nâng” và cùng dìu nhau bước đi trong cuộc đời.
Hãy xem cha chúng ta trên trời thật tốt lành. Ngài luôn yêu thương mọi loài tạo vật. Ngài không thiên vị ai. Ngài cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành cũng như kẻ dữ. Ngài luôn nhẫn nại và từ bi, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Thế nên, là con của Chúa chúng ta cũng phải đối xử khoan dung với nhau. Hãy sống đùm bọc, nâng đỡ và chia sẻ với nhau. Xin đừng vì những tham lam ích kỷ mà gây nên những tranh chấp hận thù với nhau. Hơn nữa, chúng ta cần phải tha thứ cho nhau như Chúa cũng đã từng tha thứ chúng ta.
Lời kinh lạy Cha luôn được đọc trên môi không chỉ để chúng ta cầu nguyện mà còn để chúng ta nhận ra một mối dây thật thân tình giữa chúng ta với Chúa và giữa con người với nhau. Một mối dây thật cao sang vì được làm con của Chúa Trời. Một Thiên Chúa quyền năng nhưng luôn yêu thương con người, luôn muốn chia sẻ với những thăng trầm của đời người. Thật hạnh phúc cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Hãy đặt niềm tín thác nơi Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những khó khăn cuộc sống. Thiên Chúa như người Cha sẽ luôn lo lắng mọi sự cho con cái. Hãy trao vào tay Chúa những khó nguy trong cuộc đời để Ngài nâng đỡ ủi an chúng ta. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta vì chính Ngài đã nói: “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”.
Tin vào Thiên Chúa là Cha cũng mời gọi chúng ta đón nhận nhau như anh em một nhà. Đón nhận nhau trong sự tôn trọng yêu thương. Đón nhận nhau trong bao dung và tha thứ để cùng nhau xây dựng một thế giới thấm nhuần tình Chúa tình người, để triều đại Chúa mau đến và mọi người sẽ tìm kiếm và tuân phục thánh ý Chúa.
Xin cho chúng ta luôn trở thành con ngoan của Chúa, biết lắng nghe và thi hành lời Chúa để danh Chúa được cả sáng và cuộc đời thắm đượm tình yêu thương nhau. Amen.
34.Lạy Cha chúng con...
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani, một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con trai của mình.
Ngôi trường nhiều tầng đã sập đổ, nhưng người cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con. Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông không nghe và cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào bới vừa nghĩ: "Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa, biết đâu nó còn sống trong đống gạch này thì sao?"
Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào bới, 24 tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua... ông chợt nghe tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng lại: "Ba ơi". Nước mắt ông tuôn trào và ông hăng hái đào tiếp đến tận phòng của đứa con.
Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa khác trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha và nói: "Con đã bảo với các bạn của con rồi: "ba tôi đã nói, dù thế nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi sẽ đến".
Tiếng kêu ba ơi của đứa bé nghe như âm vang lời kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Lời kinh Lạy Cha, là điệp khúc được lập lại nhiều nhất trong cuộc đời người tín hữu. Lời kinh này chúng ta có thể thốt lên bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu. Khi vui, khi buồn. Khi thành công hay khi thất bại. Khi ở nhà hay hành hương nơi xa. Tất cả trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều có thể thưa lên Lạy cha chúng con ở trên trời. Đây là điệp khúc được lập đi lập lại mà không bao giờ nhàm chán. Vì lời đó là gạch nối cho tình cha con luôn gần gũi đậm đà yêu thương, là nhịp cầu cho tình con người vươn lên làm con Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa của Kytô giáo không phải là vị thần ở chốn xa xôi nào đó, càng không phải là một vị thần chỉ để con người đóng khung và "kính nhi viễn chi", mà là một người cha luôn ân cần chăm sóc người con. Dù người con có hoang đàng tội lỗi cha vẫn thứ tha. Dù người con mải mê thế trần cha vẫn kiên nhẫn tìm con trở về. Một người cha thật đại lượng bao dung đến nỗi cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Một người Cha hết lòng vì loài thụ tạo đến nỗi đã ban Con Một cho trần gian để cứu chuộc trần gian. Một người cha luôn lo lắng cho con cái đến nỗi còn quan tâm đến sự sinh tồn của từng sợi tóc của con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Vâng, cuộc đời chúng ta có vui có buồn. Có những lúc thành công và có những khi thất bại. Có đau khổ và hạnh phúc. Điều đó nói lên sự bấp bênh của giòng đời. Con ngừơi luôn mang yếu tố bất định, chúng ta chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì thế, kẻ khôn ngoan là biết phó thác mọi sự cho Chúa là Cha. Chính người sẽ lo liệu những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Không một người Cha nào lại bỏ rơi con cái thì Thiên Chúa cũng định liệu và an bài mọi sự cho chúng ta, miễn là chúng ta hãy sống hết mình trong tình con thảo với Cha và hết mình sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Khi chúng ta sống phó thác cho Chúa là lúc chúng ta tìm được an bình trong thánh ý Thiên Chúa. Cho dù cuộc đời có những lúc nổi trôi, có những trái ngang trắc trở, chúng ta vẫn tràn đầy niềm hy vọng vì có Chúa luôn phù trợ chúng ta. Vì ai bền đỗ đến cùng thì người đó sẽ được ơn cứu thoát. Amen.
35.Suy niệm Lời Ngài. Tuần 17 Thường Niên
(Lm. Nguyễn Đức Vinh Sanh - Mai Tá lược dịch)
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức,”
“Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm.”
(dẫn từ thơ Bùi Giáng)
Bàng hoàng, hốt hoảng hay thổn thức phải chăng đó cũng là động-thái của những người gặp cảnh ngộ “sa chước cám dỗ, vẫn cầu xin. Cầu và xin, như lời cuối kinh Lạy Cha, ta từng đọc?
Trình thuật, thánh Luca ghi về sự thể đồ đệ Chúa từng nghe Thày Chí Thánh dạy cách nguyện cầu qua lời kinh “Lạy Cha”. Ý/lời “sa chước cám dỗ” ở cuối kinh, diễn tả một nhận thức rất rõ về cuộc đời của Chúa có nối kết với “chước cám dỗ” công khai cả một đời. “Chước cám dỗ” Chúa gặp, kể về sự việc xảy đến ở đầu đời, khi Thần Khí dẫn Ngài vào “sa mạc” thanh vắng và Ngài ở đó 40 ngày để “sa chước cám dỗ”, có giáp mặt “quỷ ma”, và có cả thiên sứ đến hầu hạ Ngài.
Sa chước cám dỗ, không chỉ xảy đến vào buổi đầu đời Ngài, mà cả vào ngày Ngài nhận thanh tẩy cho đến thời khắc diễn ra ở vườn Géthsêmani, là yếu tố lịch sử được diễn tả không theo nghĩa hiện tượng, nhưng như sự thể xảy đến suốt một đời. Sự việc này, thánh sử Máccô diễn tả đặc biệt hơn thánh Mátthêu và Luca, chỉ sơ qua ở kinh Lạy Cha mà thôi.
Cụm từ “sa mạc” thánh Máccô tả, không có nghĩa chốn miền nóng cháy đầy những cát ở Giuđêa hay đâu đó, mà là sự việc Chúa đi vào cuộc sống công khai với mọi người. Bởi, với Chúa, tính công khai của cuộc sống mang ý nghĩa mở ra ngoài, hoặc tính chính trị cũng như tính công-khai-hoá như “sa mạc đời người”. Và, Ngài ở đó cho đến ngày trút hơi cuối cùng cuộc đời Ngài, mới thôi. Cuộc sống công khai của Chúa được đề cập ở đầu Tin Mừng, là việc Chúa dấn thân phục vụ người nghèo khó, sống vì nguời khó nghèo. Bởi Ngài ít được người hỗ trợ, nên cứ bị kình chống/đối lập không ngớt. Và, trong đời người, hễ ta công khai có lập trường sống giống như Ngài, rồi cũng bị xa cách/tách biệt khỏi “sa mạc cuộc đời” người; và khi đó, bạn bè ta là người nghèo khó sẽ chẳng giúp ích gì cho ta hết.
Truyện kể Chúa chịu “sa chước cám dỗ”, đề cập việc Ngài giáp mặt/đụng trận với đám “quỷ ma”, tức các lãnh tụ tôn giáo người Do thái thời đó cứ kình chống/khích bác những gì Ngài công khai phục vụ người nghèo. Và cuối cùng, “thiên sứ đến với Ngài”, chính là đồ đệ đến giúp Ngài thực hiện mọi sự cho người nghèo, cách công khai.
Cụm từ “sa chước cám dỗ”, tiếng Hy Lạp là “Peirasmos” nghĩa là khai thác/thử nghiệm giá trị sự việc để xem mình kình chống được bao lăm và xem có khả năng đi xa hơn thế không. Ở Tin Mừng thánh Luca đoạn 22 câu 28, cụm từ này mô tả không chỉ tình huống khó khăn Chúa gặp phải, khi Ngài công khai lo cho người nghèo thôi; mà còn diễn bày những khó khăn của Hội thánh thời tiên khởi quyết theo Chúa đi vào quãng đời công khai sống thực hiện những điều Chúa dạy.
Như thế thì Chúa nhìn vào những gì, khai thác những gì và “sa chước cám dỗ” đến thế nào?
Tin Mừng thánh Luca cho thấy, khả năng trở thành Đấng Mêsia cứu vớt người nghèo theo cách thống trị hoặc thụ động hoặc sinh hoạt đầy tính chất rất kịch.
Thứ nhất, theo cách thống trị. Có người hỏi: nếu Đức Giêsu là Chúa, thì sao Ngài không hạ gục phe đối lập để thống trị? Nếu Ngài làm thế cũng để đem lại lợi ích cho người nghèo, cũng đâu khó. Ở đây, thánh Luca gọi đó là cách làm của ma quỷ. Ở các đoạn sau đó, thánh Luca lại đã coi quyền lực và vinh dự ở đời thuộc dạng quỷ ma, đầy cám dỗ.
Thứ hai, là tính thụ động. Theo thánh sử, thụ động đây, không có nghĩa lười biếng mà là: bắt Chúa làm mọi việc, còn mình thì chẳng làm chút gì hết, cứ rút lui vào bóng tối, thế là xong. Làm như thế, tức: phủ nhận điều lạ kỳ về sự quan phòng của Chúa. Thánh Luca gọi đó là những gì mang tính chất rất “người”, nghĩa là: cứ “mặc xác”, biếng nhác chẳng chịu làm gì, lại coi đó như cách phục vụ Chúa rất hữu hiệu, đây là kiểu cách rất xấu của những người ù lì, bị động.
Thứ ba, sinh hoạt đầy chất kịch. Có thể, đây là tấn thảm kịch bi đát, sẽ còn diễn tiến nhiều lần về sau. Tác giả Luca từng cho thấy người Hy Lạp chẳng cần xem đấng bậc anh hùng hảo hán đi vào hoàn cảnh ra sao, nhưng thần linh của họ cuối cùng cũng ra tay cứu vớt, và người người lại ra về vui vẻ. Cái khó ở đây, không là sống đời thực tế, mà là cung cách biến thái/bay nhảy, không trưởng thành theo cách cuộc sống thực tế vẫn tạo ra. Quả là, sự việc này xem ra thật trẻ con, nhưng cũng đúng.
Lời đáp của Chúa khi “sa chước cám dỗ”, quả thật dứt khoát. Ngài đã nói tiếng “không” với các đề nghị do “quỷ ma” đưa ra. Ngài ra lệnh cho quỷ ma đi cho khuất mắt Ngài. Ngài nguyện cầu Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi ác thần/sự dữ. Sự dữ đây, chính là giới cầm-quyền chuyên khuynh-loát những người đưa ra nhiều chính sách cho dân con mọi người. Và, Ngài nguyện cầu Cha, nếu được, “xin Cha cất bỏ chén đắng này khỏi nơi Con.”
Chúa cho thấy bản chất lười biếng của con người đã bớt dần tính “linh đạo”, cứ gãy đổ và lại muốn làm thứ gì đó, khác hẳn. Ngài không ngồi ì một chỗ như ai đó, rồi giao hết việc cho Cha làm. Nhưng, Ngài thừa nhận một số khuôn mẫu về chức năng của Đấng Mêsia có thể viết thành kịch-bản cho sân khấu không thực. Tất cả là bài học để đời về trách nhiệm, ngõ hầu đồ đệ học lấy mà thực thi.
Vùng Cận Đông cũng như Israel khi xưa, con dân trong Đạo vẫn đặt ra một số mẫu kinh để ta nguyện cầu, van xin. Mẫu kinh, gồm ba phần: phần đầu, gồm toàn những chuyện đẹp của đấng bậc được người cầu kinh dâng lời nguyện, như thể tung nâng các đấng trước khi dâng lời khốn khó với các ngài. Thứ hai, lời cầu đơn giản, rõ ràng và ngắn gọn chỉ diễn tả những gì người cầu mong muốnb. Thứ ba, xin lỗi đấng bậc mình dâng lời kinh để đưa ra điều thỉnh nguyện (và hứa sẽ không lặp lại điều ấy một lần nữa). Và, rõ ràng, đây là cấu trúc của “Kinh Lạy Cha”.
Phần đầu kinh, là lời thưa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện Danh Cha cả sang, nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Phần hai, là câu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Phần ba, lại thêm câu: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, và xin chớ để chúng con “sa chước cám dỗ”, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.”
Phần chính của Kinh Lạy Cha là yêu cầu có lương thực hằng ngày, cho người đói nghèo, ngày hôm nay, Kế đó, là việc khởi động rồi xin thứ tha vì đã cầu xin và hy vọng cảnh tình này sẽ không diễn ra nữa. Amen.
Lương thực hằng ngày phải chăng là cơm bánh? Không hẳn thế. Đây chỉ là biểu trưng. Là, biểu tượng đặc trưng cho việc chúng ta và mọi người có nhu cầu sống còn trong cuộc chiến phấn đấu mỗi ngày, cuộc sống thực. Đại ý muốn nói cùng Chúa Cha: “Xin cho chúng con có đủ sức mạnh và khả năng tự tại để đến được đó, hôm nay đây.
“Lương thực hằng ngày” cho người nghèo đó: Ta vẫn “sa chước cám dỗ” như thế, rất nhiều ngày, là: làm điều gì khác thay vì đem “cơm bánh” ban phát cho người nghèo. Thế nên, hãy cầu xin làm sao để ta đừng “chào thua” về những “sa chước cám dỗ” như thế, và sau đó có thể ban phát cơm bánh cho người nghèo đói.
Và tiếp đó, kinh “Lạy Cha” đề cập đến việc thứ tha, và sự dữ. Tại sao thế? Có lẽ Chúa biết rõ Ngài từng có những kẻ đối lập với Ngài trong cuộc sống, và Ngài đã thứ tha chonhững người đứng đằng sau đó. Và có lẽ, Ngài cũng biết Ngài từng phạm một vài sai sót về chính trị trong cuộc sống, như: lời Ngài nói có thể là mạnh đối với người này, nhưng lại quá yếu với người khác. Nên, trong kinh Lạy Cha, Chúa yêu cầu những người bị đau lòng vì những sự việc như thế hãy thứ tha Ngài, như Ngài đã tha thứ họ. Ngài công nhận: không phải mọi người lúc nào cũng làm đúng, chí ít là những chuyện công khai, với chúng dân.
Thánh Luca viết Tin Mừng cho Hội thánh thời tiên khởi, vào nhiều thập niên sau khi Chúa mất, tức: viết cho một Giáo hội tin vào lời lẽ vẫn công nhận rằng: Đức Giêsu là Chúa, nên câu cuối ở kinh Lạy Cha, có ý căn dặn rằng: nếu ta không thận trọng lại để mình “sa chước cám dỗ”, sẽ bị quyền lực và vinh quang lôi cuốn gài bẫy. Ta càng lún sâu vào bẫy đó nếu cứ thử. Và khi đó, chớ trách móc.
Và, tiếp tục kinh Lạy Cha, thánh sử Luca lại kể tiếp truyện dụ ngôn về cuộc sống đời thường ở thôn làng bé nhỏ, như thể cất lên lời kinh gọi mọi người trong nhân loại như lời gọi “Lạy Cha”, tức van nài bạn bè tấm bánh lúc nửa đêm tắt lửa tối đèn, vẫn cần đến tình thương yêu, của mọi người. Chí ít, là bạn bè người thân gần xa, lại cứ quấy rầy mình vào những lúc khó thực hiện lòng thương mến/bác ái.
Nói tóm lại, điều mà thánh Luca muốn nói đến ở lời kinh thần thánh rất “Lạy Cha” hôm nay, sẽ không đem gì nhiều đến với ta, nếu ta không thực thi đối xử với bạn bè gần xa, chỗ thân quen hoặc xa lạ, vẫn là nhân loại bằng lời kinh “Lạy Cha chúng tôi”, rất mọi người.
Trong tinh thần hiểu biết như thế, ta sẽ cất lên câu thơ như lời kinh đêm của thi sĩ họ Bùi như:
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức,
Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm.
Tôi xin chịu cuồng si để sang suốt,
Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em.”
(Bùi Giáng – Phụng HIến)
“Thỏa dạ yêu Em”, đúng như lời thánh-nhân từng dặn dò trong lời kinh “Lạy Cha”, rất hôm nay.
36.Cứ xin thì sẽ được
(Suy niệm của Phanxicô Xavie)
Bác sĩ Alexis Carrel là một nhà nhân bản. Trong một tác phẩm được cả thế giới biết đến: L’homme inconnu (Con người tuyệt diệu), đã không tiếc lời ca ngợi giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Theo ông thì cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi chức năng “con người thụ tạo” của ta với Đấng Tối Cao, tức Thiên Chúa. Theo đó, con người nhờ trí tuệ phong phú, nhờ cuộc sống, nhờ những điều mắt thấy tai nghe, mà càng ngày càng nhận thức được sự cao cả tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa. Đồng thời cũng nhận ra sự nhỏ bé, hữu hạn và bất toàn của mình, nhưng lại được tham dự vào cuộc sống tuyệt vời của Đấng Tối Cao. Do đó không thể không thốt lên những lời tôn vinh chúc tụng cảm tạ và cầu xin cùng Ngài. Nhưng cầu nguyện như thế nào cho đúng cách, chúng ta cùng nhau lắng nghe Lời Chúa qua phụng vụ của Chúa nhật XVII mùa thường niên năm C:
Trong bài đọc 1 được trích từ sách Sáng Thế (St 18, 20-32) thuật lại rằng: Abraham không chỉ hiếu khách mà còn quảng đại khi mạnh dạn đứng lên cầu xin cho dân thành Sôđôma. Ông được Thiên Chúa mạc khải cho biết thành Sôđôma tội lỗi thấu trời sẽ bị tiêu diệt. Tất cả sẽ bị chìm trong lửa bởi trời, sẽ bị giáng phạt, nhưng Thiên Chúa chỉ giáng phạt khi Ngài đã biết rõ thực hư. Và Abraham đã kêu xin cho dân thành này. Ông mặc cả với Chúa xin Ngài đừng nỡ lên án những người lành chung với người dữ và hãy vì những người lành mà tha thứ cho cả thành. Thiên Chúa chấp nhận theo ý nguyện của Abraham. Ở đây cho thấy có sự liên đới trong ơn cứu độ. Abraham cầu xin thay cho dân: vì những người tốt lành Thiên Chúa sẽ không trừng phạt những người tội lỗi. Mọi người cùng sống với nhau, cùng chia sẻ một niềm tin thì luôn liên đới và cần cho nhau. Do đó cầu nguyện không chỉ cho mình mà quan trọng phải biết cầu nguyện cho người khác. Vì lời cầu nguyện cho nhau thì dễ được Thiên Chúa chấp nhận hơn lời cầu nguyện cho chính mình.
Đáp lại yêu cầu của các môn đệ xin Người dạy cho biết cách cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các ông kinh Lạy Cha. Qua nội dung của lời kinh này, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ không chỉ biết cách cầu nguyện như thế nào cho đúng, mà còn đưa các ông đi vào trong mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa và tha nhân. Cầu nguyện là sống tương quan con thảo với Thiên Chúa là Cha và sống tương quan huynh đệ với mọi người.
Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người vào một mối tương quan mới. Người thông ban cho môn đệ và chúng ta quyền gọi Thiên Chúa là Cha, thì cũng đồng thời, được nối kết với mọi người để trở nên anh em với nhau trong đức tin. Lời kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời” nói lên thân phận của người Kitô hữu là con Chúa và là anh em của nhau, nói lên tình yêu hiệp nhất của mọi thành phần dân Chúa. Nên trong lời thư của thánh Phaolô khi nhắc nhở dân Côlôsê cũng chính là lời khuyên ta suy nghĩ về ơn gọi của mình. Nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trở nên công chính và trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Vì vậy, điều cần duy nhất là chúng ta phải giữ vững tư cách con cái Chúa, để luôn nhận được lòng thương xót của Người. Ước gì mỗi khi đọc lời kinh ấy, chúng ta thực sự sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, thực sự ý thức và sống tương quan huynh đệ với mọi người chung quanh.
Kết thúc dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu khẳng định: hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho. Những lời này vừa gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, vừa dạy chúng ta thái độ tin tưởng và sự bền tâm thiện chí trong cầu nguyện. Từ kinh nghiệm nài van của Abraham khi cầu xin cho dân thành Sôđôma đến dụ ngôn trong bài Tin mừng, tất cả gợi lên cho chúng ta bài học quý giá: hãy cầu nguyện, cầu nguyện luôn, cầu nguyện không ngừng. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta mong ước.
37.Đẹp thay lời nguyện xin – Lm. Anmai.
Không ai là một hòn đảo! Sống trên đời này, mọi người đều có một mối liên hệ này hay liên hệ khác với nhau để rồi nay người này nhờ người kia và mai người kia nhờ người này. Con người, dù muốn dù không vẫn chỉ giúp cho anh chị em đồng loại của mình ở một mức độ cho phép mà thôi.
Khi con người đối diện với những vấn đề ngoài tầm tay thì con người lại chạy đến với những vị thần linh, thần thánh mà mình tôn thờ. Chúa Giêsu khi mặc lấy phận người Ngài cũng phải đương đầu, đối diện với tất cả những khó khăn, những hạn chế của phận người để rồi Ngài lại chạy đến với Chúa Cha mà cầu nguyện.
Với thánh Luca, Ngài thường dành một vị trí hết sức đặc biệt cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thánh Luca thường mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ "không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ".
Để ghi dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu, Thánh Luca đã ghi lại lời cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Lời nguyện xin hết sức đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ khi thốt lên: "Abba", nghĩa là: "Lạy Cha".
Các môn đệ đã chứng kiến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe. Các môn đệ đã phải nghe Chúa Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu đã muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người rõ muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người.
Thánh Matthêu lại khác với Luca, Mátthêu thuật việc truyền lại kinh Lạy Cha.
Thánh Luca trong khuôn khổ Bài Giảng trên núi thì lại đặt chữ "Lạy Cha" trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà nơi đó, Chúa Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Chúa Giêsu, "ở một nơi nào đó", "đang cầu nguyện", và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: "Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện". Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái, sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức - mà chúng ta không biết - mà "Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông". Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu nguyện kiểu mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh "Lạy Cha".
Những hoàn cảnh, trong đó lời cầu nguyện kiểu mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Chúa Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh…Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi, đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Chúa Giêsu đồng ý, bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các kitô hữu cầu nguyện như Chúa Giêsu: "Nhờ Người, với Người, trong Người" là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý".
"Kinh Lạy Cha" của thánh Luca ngắn hơn của thánh Matthêu, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Chúa Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: "Lạy Cha" ("Lạy Cha chúng con" trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện kitô giáo, giúp môn đệ Chúa Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: "Lạy Cha" (Gl. 4, 6; Rm 8,15 ). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diển tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các kitô hữu với Thiên Chúa."
Với hai ước nguyện cùng hiện diện song song trong lời nguyện của người Do Thái.
Sự thánh hóa Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong Người được mọi người nhận biết!
Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của ngài!
"Lạy Cha, xin ngự đến" đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là "đối tượng" duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa"
Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: "Con", nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: "Chúng con", các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
Để tiếp tục cuộc hành trình lữ thứ trần gian, lời xin ơn thứ nhất hướng về "cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày". "Trước hết ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ Xuất Hành, và, theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày"
"Sự tha thứ tội lỗi của chúng con" đó là điều hai mà lời xin nhắm đến. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Nếu đã trót phạm tội với Chúa mà không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với Thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ chẳng có gì để mà trả được cả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiên Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
Với con người, vốn mỏng dòn yếu đuối, luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thì lời xin ơn thứ ba, lời xin sau cùng liên hệ đến sự trợ giúp trong "cơn cám dỗ". Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ trước khi lên đường thực thi sứ vụ công khai loan báo Tin mừng của Ngài. Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong chương 22 câu 32: "Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin". Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quị, cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
Với lời nguyện tin tưởng và kiên trì. Chúa Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa cho dụ ngôn được rõ hơn.
Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay "lúc giữa đêm", và không ngại nằn nỉ đến độ "sỗ sàng", để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến.
Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: "Chúa Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con..."
Vốn dĩ là một người cha nhân hậu, người cha tốt lành, Thiên Chúa chẳng lẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần.
Các nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường này là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là "con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động".
Xin cho mỗi người chúng ta học nơi gương của Chúa Giêsu luôn kiên trì, luôn khiêm tốn chạy đến với Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót để Ngài ban những ơn lành cần thiết cho chúng ta để chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam