Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 49
Tổng truy cập: 1372949
CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI
Chúa đến mang lại niềm vui
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Người ta thường nói: Đời là bể khổ hoặc đời là thung lũng nước mắt. Đối với chúng ta đời không hẳn là như thế, mà ta có thể nói: cuộc đời có rất nhiều đau khổ, đầy gian nan thử thách, và chúng ta có thể biến tất cả thành niềm vui nếu chúng ta biết đặt niềm tin vào Chúa, Đấng là nguồn vui bất tận.
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi ta sống trong niềm vui chờ đợi Giáng sinh. Chúa sẽ đến cứu chúng ta, ngày giờ Chúa đến không được xác định. Trong thời gian chờ đợi có lẽ chúng ta lo âu, buồn phiền và nghĩ rằng hy vọng của mình có thể là ảo tưởng, niềm tin của mình xem ra hão huyền.
Không, chúng ta hãy vững tin, đừng thất vọng. Thánh Phaolô thúc giục chúng ta:”Anh em hãy vui mừng luôn mãi”(bài đọc 2). Tuy trên bước đường chờ đợi có gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách, nhưng chúng ta là Kitô hữu, hãy cứ mạnh tiến, với tâm hồn tin tưởng và phấn khởi. Đức Kitô đang ở đó, vẫn âm thầm hiện diện, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ gặp gỡ Ngài ở cuối đường. Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy sống với tư tưởng này: Chúa đã gần đến, nên ta hãy trút mọi phiền sầu và hãy vui lên.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 61,1-2a.10-11.
Dân Israel bị bắt đi lưu đầy ở Babylon 70 năm trường. Vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đầy, tiên tri Isaia đã loan tin mừng cho dân, báo cho họ biết là sắp được giải thoát, họ sẽ không còn bị đè nén, ức hiếp bởi kẻ thù nữa.
Họ sẽ được trở về quê cha đất tổ của mình, tuy còn là những người nghèo khổ, đụng phải những khó khăn nghiêm trọng, hoàn toàn thiếu phương tiện vật chất, bị những người lân cận sách nhiễu và thù ghét, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ không còn là những người bị ruồng rẫy, trái lại, họ mới là chính đối tượng Thiên Chúa dành cho mối tình âu yếm.
Như vậy, tiên tri Isaia đã đem đến cho những người khốn khó này một sứ điệp hy vọng, nhằm an ủi họ và cũng khơi dậy niềm vui trong họ, là những kẻ được Thiên Chúa yêu hơn cả:”Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao” (Is 61,10). Sau này, trong bài Magnificat, Đức Maria đã lấy lại tâm tình này, và Đức Giêsu, tại hội đường Nazareth, cũng áp dụng ý tưởng này cho bản thân mình.
+ Bài đọc 2: 1 Tx 5,16-24.
Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô nhắc nhở họ hãy vui tươi vì đã được Thiên Chúa cứu độ:”Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng”. Nhưng dù sao, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải quan tâm đến ngày Quang lâm hay ngày Chúa trở lại. Phải chuẩn bị cho ngày đó.
Phải chuẩn bị bằng cách nào? Theo thánh Phaolô, phải chuẩn bị bằng cách sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trong bình an và vui tươi nhờ cầu nguyện, theo đuổi điều thiện hảo, tin tưởng nơi Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Nếu làm được như thế là chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp Đức Kitô, cho dù không biết ngày nào Ngài trở lại.
+ Bài Tin mừng: Ga 1,66-8.19-28.
Trong bài Tin mừng tuần trước, thánh Gioan Tẩy giả đã hô hào dân chúng dọn đường cho Chúa đến, hôm nay, Ngài tự giới thiệu cho người Do thái Ngài chỉ là người làm chứng và sửa soạn cho Chúa đến. Gioan đi rao giảng phép rửa thống hối, từng đoàn người tấp nập kéo đến bờ sông Giorđan xin chịu phép rửa. Việc này chứng tỏ ảnh hưởng của Gioan đã lan rộng khắp vùng, làm cho các nhà chức trách phải thắc mắc: Ông này là ai? Ông có ý đồ gì không?
Vì thế, nhà chức trách gửi một số tư tế và mấy Lêvi đến điều tra xem Gioan là ai? Câu hỏi chỉ xoay quanh tư tưởng chủ chốt: “Ông có phải là Đấng Messia không”? Gioan đã trả lời thẳng thắn: Ông không phải là Đấng Messia, cũng không phải là Elia, thậm chí cũng không phải một trong các tiên tri thời xưa trở lại. Ông chỉ khẳng định: Ông là sứ giả có trách nhiệm dọn đường cho Chúa thôi. Còn phép rửa của ông làm chỉ là dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu thế. Nhưng ông nhấn mạnh cho họ tư tưởng này: Đấng Cứu thế đang ở giữa họ, mà họ không biết.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Làm chứng cho Chúa
I. GIOAN, ÔNG LÀ AI?
Đã từ 400 năm, tiếng nói tiên tri đã im bặt, bây giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên. Qua đó một số người đã ngưỡng mộ ông Gioan Tẩy giả đến độ dành cho ông địa vị cao hơn địa vị thích đáng, còn cao hơn cả Đức Giêsu. Tiếng nói của Gioan đã vang dội và đánh động nơi nhiều người.
Cấp lãnh đạo Do thái sợ Gioan chiếm mất địa vị của mình, đã sai mấy tư tế và Lêvi đến điều tra xem Gioan là ai. Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đã thiêu sống hơn 500 tư tế của hoàng hậu Giêzabel thời vua Achab. Họ sợ ông là một tiên tri, như bao tiên tri của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn thời thế, làm mất quyền lợi địa vị của họ. Họ phải đề phòng, kiểm soát, canh chừng mọi bất trắc xẩy ra. Họ đã biết có nhiều người được dân coi là Đấng Cứu thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây, nhất là tầng lớp lãnh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt.
Vì vậy, cấp lãnh đạo tôn giáo sai tư tế và Lêvi đến đặt câu hỏi, yêu cầu Gioan phải trả lời cho ho biết: Ông là ai?
1. Gioan là Đấng Messia?
Tâm lý chung của các nước các dân bị trị đều mong có một vị cứu tinh nào đến giải phóng họ khỏi cảnh kìm kẹp của ngoại bang. Dân Do thái đang sống trong tâm trạng đó. Họ tin rằng họ là dân tuyển chọn của Giavê, họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Không phải chỉ có một quan niệm về Đấng Messia: có người tin rằng Đấng Messia sẽ đem lại hòa bình cho cả thế giới. Có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Có người trông chờ có một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Nhưng đa số trông mong một vị tướng lãnh vô địch sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do thái đi chinh phục cả thế giới.
Trước câu hỏi đó, Gioan hoàn toàn bác bỏ danh xưng Messia, nhưng lại tiết lộ một phần khác. Trong tiếng Hy lạp có vẻ như Gioan muốn nói: “Tôi không phải là Đấng Messia, nhưng Đấng Messia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.
2. Gioan là tiên tri Êlia?
Người Do thái tin rằng tiên tri Êlia và ông Hênốc đã được đưa về trời trên chiếc xe bằng lửa, và khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Họ tin rằng Êlia sẽ đến sắp xếp lại mọi công việc cho người Do thái: dàn xếp những bất hòa, đem lại sự đoàn kết và nối lại các gia đình. Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như cho tất cả các vị vua được xức dầu. Nhưng Gioan tẩy giả đã bác bỏ mọi vinh dự đó.
3. Gioan là một tiên tri nào đó?
Nhiều người Do thái tin Isaia và đặc biệt là Giêrêmia hoặc một trong các vị anh hùng cứu nước như Samuel, Maisen... sẽ có ngày trở lại. Niềm tin đó dựa vào sách Đệ nhị luật (18,15) nói có vị tiên tri sẽ xuất hiện. Đó là lời hứa dân Do thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất. Họ hỏi Gioan có phải là một trong các vị tiên tri được hứa trong sách Đệ nhị luật không? Một lần nữa, Gioan Tẩy giả trả lời là “không”. Sự thực ngài cũng là tiên tri, nhưng không phải là tiên tri theo sách Đệ nhị luật nói.
4. Gioan là người làm chứng?
Để trả lời cho họ, Gioan không trả lời trực tiếp: Tôi là Tiền sứ của Chúa Cưu thế vì ông khiêm tốn nhưng ông mượn lời tiên tri Isaia:”Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa: hãy dọn đường cho Chúa.
Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người “tiền hô” còn một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy giả cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói:”Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”.
Tóm lại, chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau:”Tôi không phải là Đấng Cứu thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến”. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo đích thực phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
Còn một điều khác làm cho phái đoàn Do thái thắc mắc: Gioan lấy quyền gì mà làm phép rửa? Nếu ông là Đấng Messia, là Êlia hay là một tiên tri thì ông mới có quyền làm! Nhưng bằng một giọng thản nhiên, Gioan nói rõ: ông là tiên tri dọn đường Chúa Cứu thế thì cố nhiên phép rửa của ông cũng chính là phép dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu thế. Và ông nhấn mạnh thêm: Chúa Cứu thế đã đến rồi và hiện nay đang ở giữa họ, thế mà họ đã không nhận ra Ngài.
II. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI?
1. Là chứng nhân của Chúa
Kitô hữu là người được mang danh Chúa Kitô, danh hiệu này đã được thánh Phaolô lần đầu tiên gọi các tín hữu ở Antiochia. Kitô hữu là người thuộc về Chúa Kitô, được đồng hoá với Chúa Kitô đang sống giữa chúng ta. Chúng ta không như người Do thái phải mất mấy thế kỷ mong đợi Đấng Cứu thế đến. Hơn nữa, cũng không phải sống lại những biến cố đã qua. Đức Kitô đã đến. Ngài đang có đó. Liên tục hiện diện giữa chúng ta để loan báo Tin mừng cho người nghèo, để chữa lành các tâm hồn bị tan vỡ và giải thoát những kẻ bị xiềng xích.
Tuy Chúa Cứu thế đã đến rồi và ở giữa chúng ta, nhưng trong thực tế, chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài không? Phải chăng lời khiển trách của Gioan Tẩy giả lại không nhằm đến chúng ta, cũng như những người Do thái đời ông:”Giữa các ngươi có một Đấng, mà các ngươi không biết”. Do đó, lời mời gọi khẩn thiết được trao gửi cho ta, giúp chúng ta dễ chấp nhận những nỗ lực và hy sinh cần thiết, để từ bỏ mọi kiêu căng, thoát khỏi những lố lăng trần thế, hầu nhận biết Đức Kitô.
Truyện: Tình nghĩa vợ chồng.
Tại một trung tâm bài phong, đa số các bệnh nhân đều buồn chán, vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn còn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ. Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày ông chờ đợi nụ cười ấy, khuôn mặt người đàn bà khi xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười nơi trung tâm bài phong đó đã giải thích cho vị nữ tu đó như sau:
“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi ; trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy cho tôi. Mỗi ngày nàng lau chùi một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn. Nhưng cuối cùng nàng không thể giữ tôi lâu hơn, người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này, nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi, mỗi ngày nàng đến nhìn qua vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống, nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống”.
Người vợ đã làm sống lại niềm tin của chồng. Ông ta không còn thất vọng, không bi quan, không chán đời và còn muốn sống vì đã được tình thương của người vợ ấp ủ. Chính tình yêu của người vợ đối với chồng đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Người Kitô hữu cũng là chứng nhân của Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, nhà Thần học, linh mục Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động:”Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”.
Người vợ trong câu chuyện kể trên phản ảnh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới người khác, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân vì tình yêu Đức Kitô như thánh Phaolô nói:”Caritas Christi urget me”: Tình yêu Đức Kitô thúc đẩy tôi.
Mục sư Martin Luther King nói:”Chúng ta không làm chứng chỉ bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cả cuộc sống của mình”, đúng như người ta nói:
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
Có những tâm hồn dần dần được cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ.
J. Basquin nói:”Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.
Ước gì nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người có thể nói như đã nói về thánh Gioan Vianney:”Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người”.
2. Chờ đợi ngày Chúa trở lại.
Người Kitô hữu luôn nhớ lời Chúa hứa mà phấn khởi trong cuộc sống:”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó” (Ga 14,3).
Trong suốt Mùa Vọng, Giáo hội hướng lòng chúng ta về Chúa Kitô như một điểm qui chiếu. Giáo hội hành động giống như vị “tiền hô” của Ngài. Và cuối cùng Giáo hội giải thích cho chúng ta phải chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa Vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong dòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm ngày lễ Giáng sinh, mà còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa, để lúc ấy sẽ có trời mới đất mới.
Và việc Chúa sẽ trở lại lần thứ hai với loài người trong ngày chung thẩm, Tin mừng thánh Matthêu còn ghi rõ:”Khi con người đến với tư cách là vị Vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ đều qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra thành hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê... Nhà Vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hãy đến và lãnh lấy Nước Trời làm cơ nghiệp... Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi mặt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,34-41).
3. Chờ đợi trong niềm vui.
Đối với Kitô hữu, cuộc sống ở trần gian này là thời gian chờ đợi Chúa đến. Chúa đến trong ngày chung thẩm và Chúa đến với ta trong ngày sau hết của đời mình. Đời là một cuộc lữ hành đi về trời. Trong cuộc lữ hành đó có buồn vui sướng khổ xen lẫn nhau. Nhưng trong bài Thánh thư hôm nay, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica:”Anh em hãy vui mừng luôn mãi”(Tx 5,16).
Tại sao Ngài khuyên chúng ta “hãy vui mừng luôn mãi”? Ngài bảo chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Thiên Chúa cứu độ:”Linh hồn tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Ngoài ra, chúng ta là con cái Chúa, con cái Chúa thì phải vui luôn, vui trong lúc buồn, vui trong lúc khổ, vui trong thất bại vì tất cả nằm trong thánh ý Thiên Chúa.
Làm sao chúng ta mang một nét mặt buồn rầu khi chúng ta đến gần Chúa là nguồn vui, như lời thánh vịnh nói:”Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi thanh xuân tôi được vui tươi”. Chúa là nguồn vui, tại sao gần nguồn vui mà lại buồn? Ta hãy bắt chước thánh nữ Têrêsa Hài đồng mà chấp nhận trong vui tươi:
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.
Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong
Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.
(Têrêsa Hài đồng)
Truyện: Kịch sĩ hài lại buồn
Người ta cho biết tại một thành phố kia có một kịch sĩ nổi tiếng vì tài nhạo cười. Ai buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu nghe kịch sĩ này pha trò thì thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một nhà tâm lý nổi tiếng chữa được hầu hết mọi tâm bệnh. Ngày nọ một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày rầu rĩ đến xin gặp nhà tâm lý.
Được nhà tâm lý hỏi nguyên do, ông trả lời:
- Thưa bác sĩ, tôi là một người thiếu hạnh phúc, cuộc đời tôi quá buồn khổ. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui được không?
Nhà tâm lý hỏi:
- Ông có quá túng thiếu về tiền bạc không?
Ông đáp:
- Thú thật với bác sĩ, tôi là người khá giầu.
Nhà tâm lý hỏi tiếp:
- Thế vợ con ông ra sao?
Ông ta gật đầu nói:
- Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ thương.
Sau khi hỏi thêm một vài điều khác, nhà tâm lý đề nghị:
- Tôi nghĩ ông nên đến nghe kịch sĩ nổi tiếng trong thành phố chúng ta. Thế nào ông cũng quên đi được nỗi buồn chán và tìm lại được niềm vui.
- Thưa bác sĩ, tôi xin cám ơn lời khuyên của bác sĩ. Nhưng... Tôi lại chính là kịch sĩ đó!
Nghe câu chuyện có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế là vậy. Một con người có biệt tài làm cho người khác dù buồn chán đến đâu cũng phải vui lên được mà chính mình lại là nạn nhân của sự buồn rầu. Cái mâu thuẫn đó dễ hiểu vì kịch sĩ đó ngay trong tâm hồn không có nguồn vui thì làm sao mình cảm thấy vui được? Niềm vui đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là chính niềm vui vĩnh cửu cho chính Ngài và từ nơi Ngài, niềm vui ấy được trao ban cho con người.
Chúa Giêsu chính là hiện thân niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Ngài đến báo tin vui cho nhân loại và giải thoát con người khỏi mọi sầu khổ đau thương gây nên bởi tội lỗi và sự chết. Ngài đã đem niềm vui đó đến với nhân trần trong đêm Giáng sinh tại Belem: Vinh danh Thiên Chúa tên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy đến với Chúa. Gặp gỡ Chúa là đến với nguồn vui bất tận, có niềm vui Thiên Chúa trong lòng mình, chúng ta sẽ làm cho người khác hưởng được niềm vui chân thật và bền vững.
Chúng ta hãy nhớ một câu trong bản nhạc rất hay của nhạc sĩ trứ danh Sebastian Bach: “Lạy Chúa Giêsu su, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.
Lạy Chúa, xin hãy đến: Maranatha, xin viếng thăm và ban cho chúng con niềm vui Giáng sinh bất tận.
75. Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn
ĐỪNG DẬP TẮT THÁNH THẦN
Ai đã từng vuợt biển và sống qua các trại tỵ nạn hầu như đều chung cảm nghĩ rằng đó là những kỷ niệm không thể phai mờ.
Nhìn đại dương bao la cuồng nộ sóng rồi nhìn chiếc thuyền chài mỏng mãnh mong manh, ước vọng đến bờ bến bình an đã gần như tuyệt vọng. Và vì đã có thể chạm sờ cái chết trong gang tấc, ước vọng của mỗi thuyền nhân là khi thuyền cập bến tự do, sẽ gióng lên tiếng chuông sự thật về một trại tập trung mang hai tiếng Việt Nam kinh khiếp gấp ngàn lần trại tù Auschwitz.
Nhưng ngoài đại đa số thuyền nhân đã can đảm trở thành chứng nhân cho sự thật -những chứng nhân đã có lần đuợc gọi là “tiếng nói của luơng tâm nhân loại,” một thiểu số rất nhỏ nhoi, oái ăm thay, đã rất ngại ngùng, Chẳng những không dám nói lên sự thật về một chế độ rất hà khắc rất phi nhân, họ một sớm một chiều là nô lệ cho những giả trá từ vui thưởng vui phạt đến rất đê hèn.
Man khai hộ tịch là chuyện vẫn thuờng xảy ra nơi văn phòng Cao Uy. Khai tuổi thêm, sụt tuổi xuống; gia đình đùm đề vẫn an nhiên gạch vào ô đề chữ ‘single’, ôi thôi, chuyện dài tỵ nạn… Nhưng có một kiểu man khai đến rợn người đó là man khai tôn giáo: giả sơ; giả thầy; giả đến cả cha!!!
Thay vì được xức dầu và sai đi đem “Tin Mừng cho người nghèo khó,” họ tự xức ‘Channel 5’ rồi bịp bợm làm giàu có cho chính bản thân mình. Thay vì “băng bó những tâm hồn đau thương,” họ đã gây bao đau thương đến nhiều những tâm hồn. Thay vì khiêm cung cởi giây dày cho Con Thiên Chúa, họ huyên hoang khoác lác đòi buộc Con Thiên Chúa hằn tấm lưng sâu cởi giây dày cho họ. Không làm chứng về sự sáng mà tự vỗ ngực xưng mình là sự sáng, những con gián ngày thời đại kia đã ít nhiều làm nhòe đi trang sử son của dòng giống Tiên Rồng.
Phải chi họ suy ngẫm về Gioan Tẩy Giả trước khi thuyền rời bến! Gioan đã có thể dễ dàng man khai mình là tiên tri Êlia. Gioan cũng đã có thể lừa bịp cả toàn dân
Do Thái tuyên bố mình chính là Đấng KiTô. Nhưng không! Gioan ví mình chỉ như “tiếng kêu trong hoang địa” đi trước dọn đuờng. Hơn ai hết, Gioan hiểu rằng con người chỉ là một tạo vật bé hèn và con người phải làm tất cả những gì mình có thể để ánh sáng của Đấng Tạo Thành đuợc muôn đời rạng chiếu.
Và nếu muốn tả trọn vẹn trung thực con người Gioan, thiết nghĩ chẳng có gì xác đáng hơn hai chữ ‘khiêm cung’. Hai ngàn năm truớc công nguyên, Gioan đã nhận thức đuợc rằng Đức Kitô chỉ có thể đến khi có người dám khiêm cung mở lối dẫn đường. Khi khiêm cung nhìn nhận con nguời chúng ta không phải là sự sáng nhưng chỉ có thể làm chứng thôi về sự sáng Con Nguời.
Một trong những vấn nạn mà giáo hội Công Giáo chúng ta đang phải điên đầu đối phó là tệ nạn lạm quyền. Lạm quyền lại rất dễ dàng dẫn đưa tới lạm dụng, cộng tác viên trở thành thuộc hạ tay sai. Rồi kết bè kết phái. Rồi phe đảng hội hè.
Con Nguời đã nhập thể vì Mẹ, như thánh Gioan, nhìn nhận mình là “tôi tớ Chúa”. Mẹ đã sống rất mực khiêm cung và Thiên Chúa đã khiêm cung ngự trong cung lòng Mẹ. Hãy tâp sống khiêm cung, mãi mãi khiêm cung, để Hài Nhi Giêsu có thể nhập thể trong mỗi một tâm hồn. Hãy luôn sống như thế và đừng bao giờ dập tắt lửa khiêm cung bừng cháy từ dầu Thần Linh Chúa.
76. Suy niệm của Lm. Mark Link
ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?
Chủ đề: "Gioan là người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Hãy sẵn sàng! Đấng Cứu Thế sắp đến!"
Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề “Ngày Đức Kitô chết”. Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến. Đoạn văn đó như sau:
“Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia. Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin. Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ giấc ngủ đến. Đó là giấc mơ của người tóc đã hoa râm. Đó là điều mà trẻ em mong được nhìn thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến. Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai”
Vì thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất là phấn khởi. Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa biển chết. Đó là tụ điểm bình dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến. Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới. Vì thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giã bắt đầu rao giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng: “Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hay dọn đường cho Chúa đến, hãy làm một lối thật thẳng để Người đi” (Lc. 3,3-4)
Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan tẩy gỉa đã đến tai những nhà lãnh tôn giáo ở Giêrusalem. Vì thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan. Các tư tế đặc biệt lưu ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế. Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi tư tế. Nếu có ai là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền cầm người ấy thực hiện chức năng tư tế của mình. Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.
Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: “Ông là ai?”. Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ gì, nên ông nói: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế “. Các tư tế hỏi: “nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai? Ông có phải là Êlia không?”. Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe lửa vào cuối đời. Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến. Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ. Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đã được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.
Họ hỏi: “Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?” Gioan lại trả lời: “Không!Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel”. Họ hỏi tiếp: “Vậy thì ông là ai?” Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: “Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến”. Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy Gỉa, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người “tiền hô” còn có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Gỉa cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói: “Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”. (Mc.4)
Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người “tiền hô”cho Ngài. Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
Đó chính là những gì Giáo Hội làm suốt Mùa vọng. Giáo Hội tập trung mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu. Giáo Hội hành động giống như vị "Tiền hô" của Ngài. Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa.
Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: “Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê…Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hãy đến và hãy lãnh lấy nước trời làm cơ nghiệp…Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời” (Mt.25,34-41).
Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, Ông chỉ là người "Tiền hô" của Ngài. Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ăn năn thống hối như khi lãnh nhận bí tích hoà giải. Xin các bạn hãy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
“Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa. Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy nhớ đến con trong nước của Chúa. Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng”.
77. Chú giải của Noel Quesson
Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến để làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan: “Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là tiếng kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng Mê-si-a sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!". Và những câu chuyện tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành với nguồn góc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng.
Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp biết bao! Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả như "người rao giảng lòng sám hối" chỉ có Tin Mừng thứ tư cho ta hay, ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người chứng thứ nhất của Đức Giêsu Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng nhân đầu tiên" của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá" được sử dụng 14 lần, và động từ "làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất hiện, đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Liệu tôi có dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?"
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về "bí quyết” chúng con đang sống. Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô... cũng không phải là vị Ngôn sứ... tôi là một “Tiếng kêu”.
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là: "ông có nhận mình là Đức Kitô không?". Rồi một câu hỏi khác lại được gợi lên: “Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai: ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô... Rồi ông nói thêm, ông chỉ muốn là một "tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?". Không, tôi không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như những “kẻ độc quyền thừa hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận biết" và gọi tên " Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện "của Đấng đang" ở giữa cho dù Người chưa được người ta nhận biết. "Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền sống của ta... Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền được bảo vệ nhân phẩm cuả ta....Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ, đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức Kitô mà ban tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn...", như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết... Người sẽ đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét bão giông. Thiên Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay "thống trị". Người như "tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới đâu". (Ga 3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh, buộc tội”. Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là "Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể " của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu "(Vậy ông là ai'), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là "Thiên Chúa không thể biết được”, là "Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui của Người "bây giờ đã trọn vẹn" (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho Người...
Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo" Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ chối tước hiệu Kitô (Ga 1,20). ông mong ước được 'biến đi" để Người “lớn lên" (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ" không xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất "tác vụ " của mình, bằng cách tự đình chỉ công việc của mình để làm 'lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác " (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một chứng nhân" tuyệt hảo, mà cũng là "mẫu tín hữu" tiêu biểu: “Kẻ không thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con "tình yêu điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng con được trọn vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước.
Đó là những chuyên viên “thanh tẩy", các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động “tha tội" (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 1 9). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ “sạch”, những “Peruoushim", biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được phép hay cấm đoán... (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha tội... vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước... nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức của ông, thì "chiên xóa bỏ tội trần gian" sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem đến... từ thành thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch tới hai lần (Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng "thừa sai", không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên bờ sông bên kia.
78. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Người Do thái": Nơi Gioan, hạn từ này đôi khi ám chỉ các thành phần của dân Israel (3,25; 4,9.22..); nhưng trong hầu hết mọi trường hợp nó nhắm đến họ như những người đại diện cho một thế giới đang đi dần đến chỗ ngộ nhận rồi đối nghịch với Đấng Thiên Chúa sai đến, nghĩa là nó đặc biệt ám chỉ các quyền bính hiện hữu (2,18; 5,10-18; 7,1.13; 9,22 v.v.)
"Họ đã được biệt phái sai đến": người ta không biết phải dịch câu 24 này sao cho đúng. Có thể hiểu rằng phái đoàn gồm có cả Biệt phái, hay chỉ gồm Biệt phái, hoặc do Biệt phái sai đi (như cách dịch của BJ và Nguyễn thế Thuấn ở đây muốn hiểu). Nhưng cách dịch sau cùng này, nếu đúng, lại khác nữa nghi ngờ sự hiểu biết mà tác giả Tin Mừng thứ 4 có thể có về Do thái giáo trước năm 70. Các biệt phái bấy giờ thù nghịch với các tư tế và Lêvi (l, 19) những người mà họ không, có quyền sai phái được. Thành thử câu này là một trong các!ý chứng để gán Tin Mừng thứ 4 không phải cho Gioan sứ đồ, con của Dêbêđê, nhưng cho một Gioan khác (“Gioan Trưởng lão", mà papias đã nói đến?) môn đồ của vị sứ đồ.
"Vậy tại sao ông dám thanh tẩy?": Cái làm bận tâm quyền bính tôn giáo hơn cả chính là phép rửa giao ban. Vì đây không phải là các nghi thức thanh tẩy thường thấy giữa người Do thái mà trong đó mỗi người tự rửa cho mình, sông là một phép rửa được ban với uy quyền do một người vốn là thừa tác viên độc hữu. Đàng khác, đây chẳng phải là Gioan làm phép rửa cho lương dân, để họ gia nhập Do thái giáo, nhưng là cho những người Do thái tinh ròng. Sau cùng, ông đặt phép rửa này tương quan với Nước Thiên Chúa mà ông loan báo là gần đến; khiến cho người ta phải nghĩ rằng ông có những tư tưởng, hoài bão thiên sai. Tất cả những điều đó phải được làm sáng tỏ kỹ lưỡng.
"Bêthania, bên kia sông Giođanô": Khó xác định địa danh này. Thực vậy, một vài thủ sao ghi một tên rất là bác học: Bethabara, địa danh hy bá có nghĩa "chỗ lội qua được". Cách viết này không hẳn là không nguyên thủy, nhung có thể ngày xưa, ngoài ngôi làng của Mátta và Maria, có một nơi gọi là Bêtania mà nay bị lãng quên. Nếu nhân cách đọc Bethabara, chỗ lội qua được", thì đấy là một khúc cạn của sông Giođanô nằm phía bắc Biển chết. Như thế, Tin mừng được mặc khải tại chính địa điểm mà ngày xưa tuyển dân đã vượt qua sông Giođanô để đi vào đất hứa. Một lối điển hình luận như chẳng phải xa lạ với thánh Gioan. Thành thử không cấm ta đề cập đến nó, mặc dầu hình như đây là tư tưởng của origène hơn là của thánh sử.
KẾT LUẬN
Như vậy bản tổng kết của ngày thứ nhất này còn khá tiêu cực Lời nói của vị Tẩy giả như tạo nên một khoảng trống cần được lấp đầy. Gioan Tẩy giả không phải là Đức Messia. Cũng chẳng phải là Elia hay Đấng Ngôn sứ. Dĩ nhiên ông làm phép rửa, nhưng chỉ trong nước mà thôi. Ông tự nhận là không đáng cởi giây giầy cho Đấng đến sau mình. Như mọi người Do thái tới chất vấn, ông cũng chờ đợi Đức Messia. (ông không biết gì về Người hơn họ. Ông chỉ hay một điệu là ông xuất hiện trước Người. Để Chiên Thiên Chúa, tuyển nhân của Thiên Chúa được mặc khải, cần phải đợi "ngày” thứ hai.
Đem ra khỏi văn mạch chung, bản văn của chúng ta còn nhấn mạnh nhiều đến tính cách tương đối, tính cách phụ tùy hoàn toàn của công việc vị Tẩy giả. Nét này - nếu đem so sánh với Tin mừng Nhất lãm - đúng là nét căn bản trong hình ảnh mà Tin mừng thứ 4 phác họa ra cho ta về vị Tiền hô. Theo Tin mừng thứ 4, Gioan Tẩy Giả chỉ là nhân vật trong đó tập trung niềm chờ mong của cả Cưụ ước.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.
1. Cuộc xuất hành thứ nhất là cuộc xuất hành từ chốn nô lệ Ai cập về miền đất hứa dưới sự hướng dẫn của Môisen, ngang qua Biển đỏ và sa mạc, với manna làm của ăn và mạch suối hốc đá làm thứ giải khát. Cuộc xuất hành mới là cuộc xuất hành đưa người Do thái từ cảnh lưu đày Babylon về lại Thánh địa, dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, Mục tử của dân, ngang qua sa mạc Syria đầy chướng ngại đối với những kẻ thoát chỉnh lưu đày. Đó là cuộc phục hưng Israel để đợi chờ Đấng Messia đến. Vào thời của Đấng Messia, ta thấy cuộc xuất hành được làm lại. Gioan Tẩy giả, đứng ở sa mạc, bên bờ sông Giođanô, đưa đám người thống hối qua con sông thánh để tiến về Chúa Kitô (Mt 3, 1-11). Chúa Giêsu khai mạc cuộc đời công khai trong sa mạc của cám dỗ và của đói khát (Mt 4,1- 11). Việc người đi trên nước (Ga 6, 16-21) mở đầu cho lời hứa ban manna đích thực (Ga 6,31-34) là Mình Người, bánh sự sống chân thật (Ga 6,35), của ăn nuôi hồn (Ga 6,51-58). Việc Người bị gương cao trên Thập giá thể hiện hình ảnh biểu tượng con rắn đồng thời Xuất hành (Ga 3,4). Rồi Chúa Giêsu bàn về cuộc xuất hành của cái chết Người với Môisen và Elia trong cuộc biến hình trên núi (Lc 9,31). Vào ngày Thăng thiên, Người hoàn tất cuộc xuất hành về với Cha (Cv 1,9). Đến lượt chúng ta, trong Giáo hội của Chúa Kitô, chúng ta đi qua nước rửa tội và, nhờ được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta trở nên đủ sức thắng vượt các cơn cám dỗ vốn làm cho ta xa Chúa (lCr 10). Việc biến cải tâm hồn và lòng thống hối làm nên cuộc xuất hành của tội nhân, là kẻ chạy trốn ách thống trị của tội ác và tìm lại được, nhờ ơn tha thứ, sự bình an của tâm hồn (Mt 3,1-3.). Cái chết là cuộc Xuất hành đưa linh hồn nào đã dựa vào Chúa, tìm gặp Chúa Kitô và Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu (2Cr 5,6- 10).
2. Sau bài tựa là phần nhập đề tổng quát và là tóm lượt của cuốn sách, Gioan đặt ngay đầu Tin mừng của ông khuôn mặt vị Tẩy giả. Đối với thánh sử, ông này rõ ràng là khuôn mặt của mùa Vọng, là điển hình của con người đứng giữa quá khứ vào thời Chúa giá lâm. Thành thử chúng lạ gì khi, suốt mùa Vọng, giáo hội nhắc đến khuôn mặt của Gioan trong nhiều bài Tin mừng Chúa Nhật, để nói cho chúng ta biết rằng mùa Vọng, mùa Vọng của chúng ta là gì: vì nếu Chúa đã đến, Người cũng còn phải đến thực sự. Người đã có đấy, nhưng vẫn còn là vị Thiên Chúa mai ẩn giữa chúng ta, và vì thế chúng ta vẫn luôn luôn là những kẻ không có nơi cư ngụ vững chắc đời này, vẫn còn là lữ khách xuất hành đứng giữa thời gian và vĩnh cửu, còn là những kẻ phải chờ đợi Chúa đến, những kẻ vẫn cử hành Mùa Vọng ngay cả trong mùa Giáng sinh, những kẻ phải hiểu rằng đây luôn là khởi điểm và thời gian của cuộc hành hương, đây luôn là cuộc hành trình đi qua thời gian trong nguy nan gian khổ, cuộc hành trình vững tâm đi đc'n ánh sáng vĩnh cửu mà chúng ta còn chờ đợi. Đối với chúng ta, điều đó có nghĩa là vĩnh cửu chưa có đấy, nhưng không có nghĩa là chúng ta được phép bất quan tâm đến ánh sáng đã thắp lên, bất lưu ý tới trần gian này. Chúng ta phải lấy vị Tiền hô làm kiểu mẫu.
3. Kinh thánh nói Gioan Tẩy giả đã bị các sứ giả của người biệt phái chất vấn về lai lịch, trong thâm ý xin ông làm một cử chỉ, nói lên một lời để hợp pháp hóa cuộc sống, công việc của ông. Và ông đáp lại: ''tôi không phải là Chúa Kitô". rằng đời chúng ta há chẳng có chuyện tương tự, một kinh nghiệm tương tự, khi chúng ta phải kiên quyết mà bảo: Không! Tôi không phải thế. Tôi đâu có phải là một người mạnh, một kẻ chẳng cần Thiên Chúa và chẳng cần tìm hạnh phúc nơi Ngài". Vấn đề luôn luôn là xem con người tôi có bám chặt vào 'kinh nghiệm ấy chăng, có nói tiếng không chăng, vì ý nghĩa đích thực của đời tôi hệ tại chỗ thừa nhận ra sự yếu đuối của mình, tội trạng của mình và nhường chỗ cho cái duy nhất có thể đi vào đời tôi và ban cho nó ý nghĩa. Khắp nơi và luôn mãi, chúng ta phải từ bỏ sự tự tôn lẫn thói kiêu ngạo bằng cách bảo: "Tôi không phải thế. Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, theo kiểu nói của vị Tiền hô".
4. Ngày nay có nhiều kẻ đang bao quanh ta mà chất vấn: "Kitô hữu, bạn là ai?". Họ là người ngoài Kitô giáo, người quan sát vô tư hay người lưu ý đến lối sống của ta. Cũng hỏi ta như thế lương tâm ta ("Mày nói sao về chính mày") hay những kẻ, trong Hội thánh, đang coi sóc linh hồn ta và phải trả lẽ về ta trước mặt Chúa như: hàng giáo phẩm, cha giải tội, cha linh hướng.
5. Nếu thành tâm, ta sẽ không chấp nhận bị tưởng lầm, tưởng lầm là Chúa Kitô (như thể ta đại diện Người hoàn toàn, hay thử coi mệnh ngang hàng với Người), tưởng lầm là các ngôn sứ có trách nhiệm về vận mạng của kẻ đồng đạo) và đòi bất khả ngộ, tưởng lầm như là bậc thánh vì chúng ta là những tội nhân (1Ga 1,8).
6. Với lòng khiêm tốn của vị Tẩy giả, hãy chấp nhận trở thành một tiếng nói, một âm vang của Ngôi lời, Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga1,1-2). Dù chúng ta là phản ảnh của vinh quang Chúa Kitô (2cr 4,6), là hình ảnh sống động của Con Thiên Chúa (Rm 8,29), đấy vẫn là một ân huệ nhưng không của Ngài (Ep 2,8). Dù có thể làm gì cho Ngài, chúng ta bao giờ cũng chỉ là những tôi tớ (Lc 16,16).
79. Chú giải và suy niệm của Fiches Dominicales
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Ngài chỉ là chứng nhân của sự sáng.
Bài đọc cho Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay lấy trong
Tin Mừng của thánh Gioan. Trong lúc lời mở đầu được viết như một thánh thi: "Từ đầu đã có Ngôi Lời..., thì bỗng nhiên cung giọng trên như bị ngắt ngang (6-8), tác giả làm xuất hiện "một người" tên là Gioan.
- Khi khẳng định Gioan được "Thiên Chúa phái đến", thánh sử đã xếp ông vào hàng những ngôn sứ lớn.
Ngài được sai đến như "một chứng nhân" để làm chứng cho “Ánh Sáng”, bởi vì chính ngài không phải là ánh sáng.
2. Ngài chỉ là đấng mặc khải sự hiện diện huyền nhiệm.
Từ câu 19 đến câu 28, chúng ta thấy Gioan thực hiện điều mà đoạn mở đầu đã loan báo về ngài.
- Bị thúc bách bởi người Do Thái (phải hiểu là giáo quyền của phái Giuđa) muốn biết rõ ngài có phải là Đấng Mêsia họ đang mong đợi hay không, thì ba lần Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng cách phủ nhận:
Không, ngài không phải Đấng Mêsia cho dù hành động làm phép rửa của ngài gợi lên thời kỳ đã mãn đang đến, và có thể làm cho người ta tin như thế.
Không, ngài không phải là "Êlia”, đấng sẽ đến trước Đấng Mêsia như người ta khẳng định từ khi ông được cất lên trời trong cỗ xe bằng lửa (xem Mal. 3,23: "Này đây Ta sẽ sai Êlia, vị ngôn sứ trước khi ngày của Giavê đến").
Không, ngài không phải là "vị tiên tri vĩ đại" nhân vật mà Môsê đã loan báo sẽ đến (trong Đệ Nhị Luật 18,15-18).
Trước sự gạn hỏi của đối phương: "Nếu ông không phải là Đấng Messia, là Êlia hay vị ngôn sứ vĩ đại, tại sao ông lại làm phép rửa?”. Gioan Tẩy Giả xác định vị trí của mình đối với Đấng ngài loan báo, ngài có hai vai trò:
Trước hết ngài là "tiếng kêu" mở đường cho Đấng mà họ không biết. Ngài thực hiện lời tiên tri trong Isaia 40 nơi bản thân và trong sứ mạng của ngài: "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: hãy san bằng đường của Chúa như ngôn sứ Isaia đã loan báo" (bài đọc thứ nhất Chúa nhật II Mùa Vọng).
X. Léon Dufour dẫn giải: Tự giới thiệu mình là "tiếng kêu”, Gioan đảm nhận phẩm cách cao trọng của Kinh Thánh. Nếu tự ngài không có gì cả cho riêng mình, ngài nhận lấy Lời Hứa trong chính bản thân ngài. Nếu thánh sử không diễn tả những nét đặc biệt của Gioan Tẩy giả, là vì muốn mặc cho ngài khuôn mặt của Cựu ước để qua nhân chứng này, chính Thánh Kinh của Israel nhận ra và chỉ rõ Đức Kitô là Đấng Mêsia. Từ lúc mở đầu cuốn sách cái nhìn này là chủ yếu trong suốt cuốn Tin Mừng của Gioan. (Sđd., Tr. 161).
Sau đó, ngài là đấng làm phép rửa "trong nước, phép rửa khai tâm để hướng về phép rửa "trong Thánh thần”. A. Marchadour viết: "Đối với Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu phải được tiếp nhận như một ân huệ nhiệm mầu của Thiên Chúa, đấng mà không ai biết nguồn gốc. Chính ông cũng không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, một việc chỉ do hàng tôi tớ làm mà thôi. Điều đó nói lên sự cách biệt giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả” ("Tin Mừng thánh Gioan", Centurion, tr. 43).
Sự hiện diện của Đấng Mêsia sẽ hoàn tất lời Chúa hứa với Israel. Điều cần thiết là biết được Đấng sẽ đến là ai. Ít lâu sau, Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho thấy Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" (Tin Mừng Chúa nhật II, năm B).
BÀI ĐỌC THÊM
“Đáp lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy sẵn sàng để đón rước con Thiên Chúa làm người”.
(Sintas trong: "Lời Chúa để suy gẫm và dọn bài giảng năm B", Mediaspaul, tr. 14-15).
".. Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ trong cả cuộc sống của ngài... lời dạy của ngài là một lời kêu mời sám hối và đền tội. Đến nỗi giáo quyền Giêrusalem lo lắng và sai người đến hỏi ông: "ông là ai?". Đằng sau câu hỏi này, còn có một câu hỏi khác: ngài có phải là Đấng Mêsia mà tất cả truyền thống Do Thái chờ đợi không?
Gioan khẳng định ông không phải là Đấng "Mêsia", đồng thời ông loan báo một điều lạ lùng: Đấng Mêsia đã ở giữa họ mà họ không biết. Họ hãy mau chuẩn bị. Nếu muốn nhận ra Người thì hãy đọc lại lời tiên tri Isaia. Lời đó sẽ nói cho hay cứ dấu nào họ sẽ nhận biết Người.
Isaia đã hứa những gì? Chúng ta vừa nghe ông nói. Đấng Mêsia không tỏ mình ra trong sự huy hoàng mà loài người thường gán cho thần thánh. Ngài đến với người nghèo để loan báo Tin Mừng cho họ. Ngài đến với người tàn tật để loan báo họ sẽ được lành. Ngài đến với tù nhân để loan báo họ sẽ được tự do.
Để gặp được Đấng Thiên Chúa sai đến, điều quan trọng là chúng ta nhận ra mình đứng về phía những người mà Người được sai đến. Nếu chúng ta không muốn sống nghèo giữa người nghèo, chúng ta sẽ không gặp được Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta không nhận ra mình là người bệnh hoạn, và trái tim tan nát hay bị tù đày, Giáng sinh đích thực sẽ không phải là của chúng ta.
Tự nhận và muốn mình là người nghèo của Thiên Chúa, đó là thống hối, đó là phép rửa mà chúng ta được Gioan mời gọi, nếu chúng ta muốn dọn mình để mừng Con Chúa làm người. Lẽ tất nhiên sự hoán cải này là bổn phận thiêng liêng và thuộc nội tâm. Nhưng nếu sự tiến triển bên trong không được diễn tả ra bên ngoài bằng việc làm và một đời sống cụ thể thì không có gì là thật. Bởi thế, Mùa Vọng mới gọi chúng ta đến gặp những anh em nghèo vật chất hay tinh thần, bệnh hoạn và tù nhân. Không phải với một thái độ trịch thượng, thương hại. Ta phải đến với họ như đến với người anh em, bởi lẽ những gì biểu hiện ra trong thân xác, trong cuộc sống của họ, là dấu chỉ những gì xảy ra trong thâm tâm ta. Chúng ta thuộc về họ và họ thuộc về chúng ta. Có lúc do nghề nghiệp mà chúng ta đến gặp họ. Nếu không, chúng ta cũng có thể tình nguyện đến gặp họ. Lẽ tất nhiên, trước vô vàn những khốn khổ, chúng ta cũng không làm được bao nhiêu. Nhưng ít ra nó cũng gợi lên trong ta niềm hy vọng đích thực mà đôi khi chúng ta cũng cần có. Niềm hy vọng ấy giúp ta quay trở về với Thiên Chúa để ước ao Ngài ban cho ta một Đấng Cứu Độ, Đấng có thể hoàn tất mỹ mãn những gì mà lòng quảng đại của chúng ta chỉ mới bắt đầu. Niềm hy vọng ấy cũng sẽ cho ta của những việc chúng ta định làm và đã bắt đầu dù cho là thật nhỏ bé.
80. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
Việc xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả (1,6-8)
Điều ghi chú về ông Gioan Tẩy Giả khiến chúng ta rơi từ thế giới siêu nhiên và thần linh xuống thế giới nhân trần: “Có một người”. Sự thay đổi giọng điệu khiến độc giả ngạc nhiên và rất có thể đoạn văn về ông Gioan Tẩy Giả này (cũng như câu 15) mới được tác giả đưa vào về sau để khuyên ngăn các môn đệ của mình không nên đặt vị ngôn sứ vĩ đại này ngang hàng với Chúa Giêsu. Giữa hai vị, có một sự khác biệt triệt để, phân cách “Đấng đã có từ lúc khởi đầu, vẫn hướng về Thiên Chúa” với con người này, được Thiên Chúa sai đến để làm chứng. Ông không phải là Ánh Sáng, nhưng làm chứng về Ánh Sáng. Ông Gioan là một nhân chứng làm chứng trước quyền lực Do Thái (1,19-28), trước dân Israel (1,31-34) và trước những môn đệ của mình (1,35-37). Khi được nhắc đến lần cuối cùng trong Tin Mừng, ông được ca tụng như là một nhân chứng trung thực: “Mọi điều ông ấy nói về Chúa Giêsu đều đúng” (Ga 10,41)
Ông Gioan: tiếng người hô của Ngôi Lời (1,19-28)
Người Do Thái (ở đây ý nói: quyền bính Do Thái) yêu cầu ông Gioan xác định mình so chiếu với niềm mong đợi Đấng Cứu Độ. Ông Gioan tuyên bố ba lần mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ. Ông chỉ là tiếng hô mở đường cho Đấng Mêsia.
Vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái đợi mong Đấng Mêsia (Chúa Kitô theo tiếng Hy Lạp), nhưng mà sự đợi mong này mang nhiều hình thức khác nhau. Ta hiểu rằng người Do Thái đã có thể coi ông Gioan Tẩy Giả là Đấng Mêsia vì hoạt động làm phép rửa của ông có thể nhắc nhớ thời cánh chung gần đến. Chắc ông có liên hệ với nhóm Étxênô ở Cumran, và điều đó có thể giải thích ba tước hiệu trên, bởi vì nhóm Étxênô chờ mong ba nhân vật đó xoay quanh Đấng Mêsia. Ông Gioan Tẩy Giả không nhận mình là Đấng Mêsia được đợi mong. Ông cũng không nhận mình là Êlia, người được tiên đoán sẽ trở lại trước khi Đấng Mêsia đến. Êlia được lên trời trên chiếc xe của mình (1V 2,11) làm phát sinh những tục truyền về sự sống còn và sự trở lại của vị ngôn sứ vĩ đại này. Có người cho rằng ông vẫn còn sống như sách Sử Biên Niên quyển 2 trích dẫn bức thư của Êlia gửi cho vua Giôram sau khi được cất lên trời (2Sb 21,12). Sau thời lưu đầy, có tục truyền cho rằng Êlia sẽ trở lại vào thời cánh chung. Như ngôn sứ Malaki quả quyết: “Này, trước khi ngày cao cả kinh khiếp Chúa đến, Ta sẽ cử tiên tri Êlia đến cùng các ngươi” (Ml 3,23). Dáng vẻ bên ngoài của Gioan có thể làm tưởng nhớ đến Êlia “người mặc áo lông, thắt lưng da” (2V 1,8). Vị ngôn sứ được mong đợi này ám chỉ nhân vật mà Môsê loan báo sắp xuất hiện trong Đệ Nhị Luật 18,15-18: “Ngay trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một ngôn sứ như ta”. Ông Gioan nhận cho mình hai vai trò đối với Đấng sắp đến: trước tiên ông là tiếng người hô mở đường cho “Đấng mà họ không biết”, đối chiếu với Isaia 40,3 loan báo sự xuất hiện của một sứ giả đến dọn đường cho những người bị phát lưu từ Babylon trở về. Tin Mừng Gioan, cũng như các Tin Mừng Nhất Lãm, đều trích dẫn Isaia, nhưng không theo bản dịch Hipri mà theo bản dịch Hy Lạp, gọi là Bản LXX. Việc người Do Thái không nhận biết Đấng Mêsia không phải là một lỗi phạm. Chính Gioan cũng thuộc vào nhóm những kẻ không biết Người (1,33), có lẽ ám chỉ đến một tục truyền dân gian theo đó Đấng Mêsia sẽ ẩn mình và thình lình xuất hiện trước dân chúng.
Sau nữa, ông là người làm phép rửa khai tâm chuẩn bị cho phép rửa trong Thánh Thần. Đối với Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu phải được đón nhận như một ân huệ mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà không ai nhận biết cội nguồn của Người. Chính ông không đáng cởi quai dép cho Người, một công việc dành riêng cho nô lệ. Điều đó nói lên sự cách biệt giữa Chúa Giêsu với ông.
Lời chứng đầu tiên này là khởi điểm sứ mạng của Gioan: tác giả trần thuật dành cho lời chứng này một sự trang trọng khi xác định địa điểm: “Tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa” (1,28). Địa điểm này đã được đặt thành vấn đề và có vài người, tiếp sau ông Ôrgiên, đọc thành Bêtharaba, gần sông Giođan. Đúng hơn là Bêtania, cách đọc được hầu hết các bản chép tay minh định. Không nên nhầm lẫn thành Bêtania của ông Ladarô. Ở chương 10, thánh sử sẽ nhắc lại quang cảnh đầu tiên này để gây chú ý đến kết quả sứ mạng của Gioan Tẩy Giả: “Đức Giêsu sang bên kia sông Giođan, đến chỗ trước kia ông Gioan đã làm phép rửa (…). Nhiều người bảo nhau: “Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào đó, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng” (10,40-42). Đây là cách xác nhận sứ mạng của Gioan là để làm chứng.
81. Trích chú giải của William Barclay
Chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô (Ga 1,6-8)
Một sự kiện lạ lùng trong Phúc Âm Gioan là mỗi lần đề cập đến Gioan Tẩy Giả, là mỗi lần giá trị của ông bị giảm đi. Có một cách giải thích sự kiện ấy: Gioan Tẩy Giả là một tiếng nói ngôn sứ. Từ bốn trăm năm, tiếng nói ngôn sứ đã im bặt, bấy giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên. Qua đó, một số người ngưỡng mộ ông đến độ dành cho ông một địa vị cao hơn địa vị thích đáng. Nhiều dẫn chứng cho thấy có một hệ phái đã thật sự đặt ông lên địa vị cao nhất. Âm vang ấy được thấy trong Công Vụ 19,3.4. Tại Êphêsô, Phaolô gặp số người chẳng biết gì khác hơn là phép rửa của Gioan. Không phải Phúc Âm Gioan muốn phê phán hay làm giảm đi tầm quan trọng của Gioan Tẩy Giả, nhưng Gioan biết một số người đã giành cho Gioan Tẩy Giả một địa vị lấn át địa vị của Chúa Giêsu.
Cho nên qua suốt Phúc Âm, Gioan đã cẩn thận bày tỏ nhiều lần, địa vị của Gioan Tẩy Giả trong kế hoạch chung là cao quý, dù vậy nó vẫn ở hàng thứ yếu so với Chúa Giêsu Kitô. Ở đây ông thận trọng bảo Gioan Tẩy Giả không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng ấy (1,8). Ông cho chúng ta thấy Gioan đã bác bỏ, không nhận mình là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là ngôn sứ (1,20). Lúc người Do Thái đến với Gioan Tẩy Giả, kể cho ông nghe Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai, hẳn họ trông mong ông sẽ nổi giận về việc xâm phạm quyền đó. Nhưng Phúc Âm Gioan cho thấy Gioan Tẩy Giả đã từ chối không nhận địa vị hàng đầu đó thuộc về mình, và tuyên bố mình phải hạ xuống, còn Chúa Giêsu phải được tôn lên (3,25-30) Gioan Tẩy Giả đã cho thấy Chúa Giêsu còn thành công hơn Gioan Tẩy Giả trong việc kêu gọi mọi người (4,1). Ông cho biết cả đến dân chúng cũng nhận xét là Gioan Tẩy Giả không làm được những điều Chúa Giêsu đã làm (10,41)
Trong Hội Thánh, có một nhóm người muốn dành cho Gioan Tẩy Giả một địa vị quá cao. Chính ông không khuyến khích việc ấy, ông làm đủ mọi cách để bác bỏ. Gioan biết khuynh hướng đó vẫn còn, nên ông ngăn chặn. Việc này vẫn còn xảy ra ngày nay. Người ta có thể sùng bái một người hơn cả Chúa Cứu Thế, họ chú mục vào sứ giả thay vì vào vị vua đã sai phái sứ giả ấy. Gioan Tẩy Giả không đáng trách chút nào về việc xảy ra, nhưng tác giả Phúc Âm thứ tư quyết định không để ai lấn Chúa Giêsu ra khỏi địa vị hàng đầu.
Một từ quan trọng khác cần phải lưu ý trong Phúc Âm thứ tư là nhân chứng hay lời chứng. Phúc Âm Gioan đưa ra hết nhân chứng này đến nhân chứng khác về địa vị tối cao của Chúa Giêsu. Ít ra có 8 lời chứng:
Lời chứng của Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Cha, Đấng đã sai Ta làm chứng về Ta” (5,37; 8,17). Chúa Giêsu muốn xác định điều gì? Ngài muốn đưa ra hai điều:
a) Điều đang tác động trên chính Ngài. Có tiếng của Đức Chúa Cha nói trong lòng Ngài, tiếng nói đó xác quyết Ngài là ai, và được sai đến để làm gì. Chúa Giêsu biết Ngài không tự chọn việc đến thế gian, Ngài tin Chúa Cha đã sai Ngài đến thế gian để sống và chết cho nhân loại.
b) Điều tác động trên loài người. Khi một người trực diện với Chúa Giêsu, trong lòng họ có một xác tín đây chính là Con Thiên Chúa. Linh mục Terell bảo, thế giới không bao giờ trốn tránh được “nhân vật xa lạ treo trên thập giá”. Năng lực trong lòng đó luôn luôn hướng đôi mắt chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu ngay cả khi chúng ta quên Ngài. Tiếng nói trong lòng đó cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Chuộc của nhân loại. Tiếng nói đó là lời chứng của Thiên Chúa Cha, ở trong linh hồn chúng ta.
Lời chứng của chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Ta tự làm chứng cho Ta” (8,18); “Dẫu Ta tự làm chứng về mình, nhưng lời chứng Ta là đáng tin” (8,14). Điều này có nghĩa Chúa Giêsu là nhân chứng tốt nhất cho chính Ngài. Ngài tự xưng là ánh sáng, là sự sống, là chân lý, và là đường đi; Ngài tự xưng là Con Thiên Chúa, là một với Đức Chúa Cha; Ngài tự xưng là Đấng Cứu Thế, là Thầy, Chủ của mọi người. Nếu chính đời sống và bản chất Ngài không đúng như vậy thì những lời tự xưng đó của Chúa Giêsu chỉ là phạm thượng, chướng tai. Nhưng đời sống của Chúa Giêsu là lời chứng hùng hồn nhất, những gì Ngài tuyên bố là đúng thật.
Lời chứng của những việc Ngài làm. Chúa nói: “Các việc Cha đã giao cho Ta làm… làm chứng cho Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta” (5,36). “Những việc Ta nhân danh Cha Ta mà làm đều làm chứng cho Ta” (10,25). Chúa Giêsu nói với Philipphê, Ngài với Cha là một, rồi Ngài tiếp: “Hãy tin Ta qua những việc Ta làm” (14,11). Một trong những điều kết tội loài người là họ thấy công việc Chúa làm mà không chịu tin nhận Ngài (15,24). Chúng ta cần lưu ý khi nói đến những công việc của Chúa Giêsu làm, Gioan không chỉ nghĩ đến những phép lạ Chúa Giêsu làm, nhưng ông nghĩ đến cả cuộc sống Chúa trên trần gian; ông không chỉ nghĩ đến thời điểm quan trọng nổi bật, mà đến từng giây phút Ngài sống hằng ngày. Không ai có thể làm được những việc quyền năng Chúa Giêsu đã làm, vì Ngài đã sống gần gũi với Chúa Cha hơn ai hết. Cũng vậy, không ai có thể sống đầy yêu thương, nhân từ, tha thứ, phục vụ, giúp đỡ trong cuộc sống hằng ngày nếu không ở trong Thiên Chúa và không có Thiên Chúa trong mình. Không phải bởi phép lạ chứng minh chúng ta thuộc về Chúa Giêsu, nhưng bởi đời sống hằng giống Chúa từng giây phút của chúng ta. Chính trong những điều bình thường hằng ngày chứng tỏ chúng ta thuộc về Chúa.
Có lời chứng của Kinh Thánh. Chúa Giêsu phán: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh vì nghĩ rằng trong đó các ông có được sự sống đời đời, chính Kinh Thánh lại làm chứng về Tôi” (5,39). “Nếu như các ông tin ông Môsê, hẳn các ông cũng sẽ tin Tôi, vì ông ấy cũng đã viết về Tôi” (5,46), và Philipphê tin rằng ông đã gặp Đấng mà Môsê, luật, và các ngôn sứ đã viết (1,45). Trong cuộc sống lịch sử, dân Israel mơ ngày Đấng Mêsia của Thiên Chúa giáng thế. Họ đã vẽ nên những hình ảnh và ý nghĩ của họ về Ngài. Bây giờ ngay trong Chúa Giêsu tất cả các ước mơ, các hình ảnh, các niềm hy vọng đó cuối cùng đều đã được thể hiện trọn vẹn, Chúa Giêsu là Đấng thế gian trông đợi đã đến.
Có lời chứng của ngôn sứ cuối cùng là Gioan Tẩy Giả: “Người đến để làm chứng, là làm chứng về sự sáng” (1,7.8). Gioan chứng nhận ông đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu. Vị ngôn sứ cao cả này là nhân chứng cho Chúa Giêsu, Đấng mà mọi lời ngôn sứ đều nói tới.
Có lời chứng của những người Chúa Giêsu từng tiếp xúc. Người đàn bà Samari đã làm chứng về cái nhìn thấu suốt và quyền năng của Chúa Giêsu (4,39); người mù từ thuở sinh ra làm chứng về quyền phép chữa bệnh của Chúa Giêsu (9,25.38). Khi dân chúng chứng kiến những phép lạ, họ ngạc nhiên trước những việc Chúa Giêsu làm (12,17). Có một truyền thuyết về việc Tòa Công Luận tìm nhân chứng xử án Chúa Giêsu. Đám đông đến và xác quyết: “Tôi là một kẻ phong cùi đã được Ngài chữa lành”; “Tôi bị mù và Ngài đã mở mắt tôi”; “Tôi điếc, Ngài đã làm cho tôi nghe được”. Đó là những lời chứng mà Tòa Công Luận không muốn. Qua mọi thời đại, mọi thế hệ, có đông quần chúng luôn luôn sẵn sàng làm chứng về những gì Đấng Cứu Thế đã làm cho họ.
Có lời chứng của các môn đệ và đặc biệt là của chính tác giả Phúc Âm này. Chúa Giêsu đã giao nhiệm vụ cho các môn đệ Ngài: “Còn các ngươi sẽ làm chứng về Ta, vì các ngươi đã ở cùng Ta từ ban đầu” (15,27). Chính tác giả Phúc Âm làm chứng và bảo đảm cho những điều ông ghi lại. Lúc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông viết: “Kẻ đã thấy thì làm chứng về việc đó” (lời chứng của ngươi là thật) (19,35), ông tiếp: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra” (12,24). Câu chuyện ông kể không phải là câu chuyện được lưu truyền, cũng không phải được nghe người khác kể lại mà chính ông mục kích và kinh nghiệm. Người làm chứng tốt nhất là người có thể nói rằng: “Điều đó là thật vì tôi biết như thế từ kinh nghiệm của tôi”.
Có lời chứng của Thánh Thần: “Khi nào Đấng Yên Ủi đến, tức là Thần Chân Lý… chính Ngài sẽ làm chứng về Ta” (15,26). Gioan viết: “Chính Thần Khí là chứng nhân và Thần Khí là sự thật” (1Ga 5,7). Với người Do Thái, Chúa Thánh Thần có hai chức vụ: đem chân lý đến cho con người và giúp con người nhận biết chân lý ấy. Khi thấy Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta, giúp chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là ai và tin cậy những gì Ngài làm.
Gioan viết Phúc Âm Thứ Tư để trình bày cho loài người lời chứng không ai chối cãi được. Chúa Giêsu Kitô là tâm trí của Thiên Chúa được mặc khải trọn vẹn cho loài người.
Lời chứng của Gioan Tẩy Giả (Ga 1,19-28)
Với đoạn này, Gioan bắt đầu phần tường thuật trong Phúc Âm của ông. Trong lời nói đầu, ông đã cho thấy việc ông định làm, ông viết Phúc Âm để chứng minh Chúa Giêsu là Trí, là Lý, là Lời của Thiên Chúa đã đến thế gian với hình thể một con người. Sau khi đã ổn định phần tư tưởng chính yếu đó, bây giờ ông bắt đầu kể chuyện về đời sống Chúa Giêsu.
Không ai cẩn thận chép các chi tiết về thời gian cho bằng Gioan. Bắt đầu ở đây và tiếp tục cho đến 2,11, ông từng bước kể lại tuần lễ đầu tiên rất bận rộn trong đời sống công khai của Chúa Giêsu. Các biến cố của ngày đầu trong 1,19-28, câu chuyện của ngày thứ hai trong 1,29-34, ngày thứ ba được gói ghém trong 1,35-39. Ba câu 1,40-42 kể lại câu chuyện trong ngày thứ tư. Các biến cố trong ngày thứ năm được kể trong 1,43-51 và 2,1-11. Ngày thứ sáu được bỏ trống. Trong các đoạn sách này, Gioan đã kể một loạt các biến cố quan trọng xảy ra từng ngày, đánh dấu tuần lễ đầu tiên trong sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Không có Phúc Âm nào khác ghi lại các mốc thời gian kế tục nhau cẩn thận như thế.
Trong cùng một phần sách từ 1,19-2,11, Phúc Âm Gioan đã đưa ra ba loại lời chứng khác nhau về tính duy nhất và vĩ đại của Chúa Giêsu. 1) Lời chứng của Gioan Tẩy Giả (1,19-34); 2) Lời chứng của những người nhận Chúa Giêsu làm Thầy và trở thành môn đệ Ngài (1,41); 3) Lời chứng từ các quyền năng diệu kỳ của Chúa Giêsu (2,1-11). Gioan đã đặt trước mặt chúng ta ba bối cảnh khác nhau, và trong mỗi bối cảnh ông đều chứng minh rõ sự kỳ diệu tối cao của Chúa.
Chúng ta thấy Phúc Âm Thứ Tư quan tâm đến sự kiện Gioan Tẩy Giả được dành cho một địa vị vượt quá xa điều chính ông xưng nhận. Khá lâu về sau, khoảng 250SC, sách Clementine Recognitions kể lại rằng: “Có một số môn đệ của Gioan Tẩy Giả giảng dạy về thầy họ như Đấng Mêsia vậy”. Trong đoạn Kinh Thánh này, chúng ta thấy đó là một quan điểm, mà chính Gioan Tẩy Giả đã dứt khoát bác bỏ.
Bây giờ chúng ta trở lại với chính đoạn Kinh Thánh này. Ngay từ đầu, chúng ta đã gặp một đặc điểm của Phúc Âm Gioan, đó là một số người được người Do Thái sai đến chất vấn Gioan Tẩy Giả. Từ người Do Thái (Ioudaioi) xuất hiện trong Phúc Âm Gioan không dưới 70 lần, họ luôn luôn là nhóm người Do Thái chống đối. Họ là những người đặt mình trong tư thế chống lại Chúa Giêsu. Việc người Do Thái chống Chúa đã được đề cập thật sớm ở đây. Phúc Âm IV làm hai việc: Thứ nhất là giãi bày Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, thứ hai là kể chuyện về Thiên Chúa. Phúc Âm này là câu chuyện về tình yêu của Thiên Chúa và tội lỗi của loài người, câu chuyện về lời mời gọi của Chúa Giêsu và việc loài người khước từ lời mời gọi ấy. Phúc Âm Thứ Tư là sách trong đó tình yêu cùng với lời cảnh báo được kết hợp cách sống động, có một không hai.
Phái đoàn đến phỏng vấn Gioan Tẩy Giả gồm hai hạng người: Thứ nhất, có các tư tế và người Lêvi. Họ chú ý đến Gioan Tẩy Giả là điều tự nhiên, vì ông là con trai của Dacaria, mà Dacaria là tư tế (Lc 1,5). Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để được chức vụ tư tế là cha truyền con nối. Người nào không phải là hậu duệ của Aharon thì chẳng có thể trở thành tư tế; còn nếu người ấy là con cháu Aharon thì không có gì cản ngăn người ấy trở thành tư tế được. Do đó, dưới mắt các nhà cầm quyền, Gioan Tẩy Giả quả thật là một tư tế, và tự nhiên các tư tế phải tìm hiểu tại sao một tư tế lại hành động bất thường như vậy. Thứ hai, có những người đại diện cho Pharisêu. Rất có thể sau lưng họ có Tòa Công Luận. Một trong các nhiệm vụ của Tòa Công Luận là đối phó với bất cứ ai bị nghi ngờ là ngôn sứ giả. Gioan Tẩy Giả là một nhà truyền giáo được dân chúng theo rất đông. Có lẽ Tòa Công Luận thấy họ có trách nhiệm tra xét con người này xem ông có phải là ngôn sứ giả không.
Tất cả sự việc trên đây cho chúng ta thấy tôn giáo chính thống thường nghi ngờ bất cứ việc gì khác thường. Gioan Tẩy Giả đã không theo đúng quan niệm bình thường về một tư tế mà ông cũng không theo đúng quan niệm bình thường về một thầy giảng đạo. Vì vậy, các chức quyền tôn giáo thời đó nhìn ông đầy nghi kỵ. Giáo Hội thường rơi vào chỗ nguy hiểm là hay kết án những cái mới chỉ vì nó mới. Về một phương diện, ít có tổ chức nào khác trên thế gian lại hay chống đối sự thay đổi như Giáo Hội. Giáo Hội thường phủ nhận một giáo sư lỗi lạc và cũng thường khước từ một số công tác tiên phong quan trọng, chỉ vì Giáo Hội muốn được yên thân và nghi ngờ tất cả những gì có vẻ mới.
Những đại diện được phái chính thống sai đến chắc đã nghĩ về ba điều Gioan Tẩy Giả có thể phủ nhận.
Họ hỏi ông có phải là Đấng Mêsia không? Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày nay vẫn đang trông chờ Đấng Mêsia. Bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Dân Do Thái tin rằng họ là tuyển dân của Chúa, họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để giải cứu dân Ngài. Không chỉ có một quan niệm về Đấng Mêsia. Có người trông mong Đấng Mêsia sẽ đem đến hòa bình cho cả thế giới; có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Đa số trông mong một vị tướng lãnh vô địch, sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do Thái đi chinh phục cả thế giới. Có người trông chờ một nhân vật siêu nhiên đến từ Thiên Chúa. Một số khác lại trông mong một nhà vua sẽ dấy lên từ dòng dõi Đavít. Thường có những người nổi lên tự xưng là Đấng Mêsia và hay khởi loạn. Thời đại của Chúa Giêsu là một thời đại căng thẳng. Hỏi Gioan Tẩy Giả có xưng là Đấng Mêsia là một câu hỏi không tự nhiên. Ông hoàn toàn bác bỏ lời xưng đó, nhưng lại tiết lộ một phần khác. Trong tiếng Hy Lạp có vẻ như Gioan muốn nói: “Ta không phải là Đấng Mêsia, nhưng Đấng Mêsia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.
Họ hỏi ông có phải là Êlia không? Dân Do Thái tin rằng, trước khi Đấng Mêsia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp đón Ngài. Đặc biệt Êlia đến để dàn xếp mọi bất hòa; ông sẽ định những gì, những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ông sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại; ông sẽ đem lại đoàn kết, hòa thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau. Họ tin tưởng điều đó đến nỗi luật xưa của dân Do Thái ghi rằng số tiền bạc và của cải đang tranh chấp, hoặc bất cứ tài sản nào bị xem là vô chủ đều phải “chờ cho đến chừng nào Êlia đến”. Niềm tin Êlia phải đến trước Đấng Mêsia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia sẽ xức dầu cho Đấng Mêsia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu, vậy ông sẽ gọi kẻ chết sống lại để cùng chung hưởng vương quốc mới. Nhưng Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận hết những vinh dự đó.
Họ hỏi ông có phải là ngôn sứ được hứa ban và mọi người đang trông đợi không. Lắm lúc người ta cũng tin Isaia và đặc biệt nhất là Giêrêmia sẽ trở lại lúc Đấng Mêsia đến. Nhưng thật ra việc đó chỉ nhằm nhắc lại lời bảo đảm của Môsê với dân chúng trong Đnl 18,15: “Từ giữa anh em ngươi, Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi sẽ lập một đấng ngôn sứ như ta, các ngươi hãy nghe lời đấng ấy”. Đó là lời hứa dân Do Thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là ngôn sứ vĩ đại nhất và trông mong nhân vật ấy đến như là “ngôn sứ lý tưởng”. Nhưng một lần nữa, Gioan Tẩy Giả không nhận vinh dự ấy là của mình.
Vậy họ hỏi ông là ai? Ông đáp mình chỉ là tiếng nói khuyến giục mọi người dọn đường cho Nhà Vua. Câu trích dẫn trong Is 40,3, tất cả các Phúc Âm đều trích dẫn câu này để ám chỉ Gioan Tẩy Giả (Mc 1,3; Mt 3,3; Lc 3,4). Ý niệm tìm ra trong câu ấy là: đường đi bên phương Đông mặt đường không bằng phẳng, không chắc chắn và thường chỉ là những lối mòn. Khi một vị vua sắp đến thăm một tỉnh, hoặc khi nhà chinh phục sắp kéo quân đi qua lãnh thổ của mình thì đường xá phải được san bằng, dọn thẳng và sắp xếp sao cho có trật tự. Điều Gioan ngụ ý là: “Ta chẳng là ai cả, ta chỉ là tiếng kêu gọi các ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng đợi nhà vua đến”. Ông muốn nhắc rằng: “Hãy tự sửa soạn đi, nhà vua đã lên đường rồi đó”.
Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền giáo, các giáo sư đều phải bắt chước, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Điều cuối cùng ông mong muốn là mọi người hãy nhìn vào nhà vua. Ông muốn mọi người hãy quên ông, chỉ thấy nhà vua mà thôi.
Nhưng các Pharisêu lại thắc mắc một điều khác: Gioan lấy quyền gì để ban phép rửa? Nếu ông là Đấng Mêsia, là Êlia, hay là một ngôn sứ thì ông có thể ban phép rửa. Isaia có viết rằng: “Người này sẽ vảy rửa nhiều dân” (Is 52,15); Êdêkien cũng nói: “Ta sẽ rưới nước tinh khiết trên các ngươi, và các ngươi sẽ được sạch” (Ed 36,25). Dacaria nói: “Trong ngày đó, sẽ có một suối mở ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem vì tội lỗi và sự ô uế” (Dcr 13,1). Thế nhưng tại sao Gioan Tẩy Giả lại ban phép rửa?
Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm thì không dành cho người Israel mà cho những người ngoại nhập và Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới theo đạo Do Thái. Một người Israel chẳng bao giờ chịu phép rửa, họ đã thuộc về Chúa, nên không cần được rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại đến gia nhập Do Thái giáo thì phải chịu phép rửa. Gioan Tẩy Giả đã bắt dân Israel làm một việc mà chỉ có các dân ngoại mới phải làm. Ông có ý nói là tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan Tẩy Giả tin, nhưng ông đã không trả lời trực tiếp.
Ông nói: “Về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, cởi dây giày là công việc của một nô lệ. Một ngạn ngữ của các rabbi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy mình bất cứ việc gì một đầy tớ phải làm, ngoại trừ việc “cởi dây giày”. Việc đó quá nhàn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dù vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ý: “Với Đấng đang đến thì cả việc làm đầy tớ cho Ngài ta cũng không xứng đáng”. Chúng ta phải hiểu là lúc ấy Gioan Tẩy Giả đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đã nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ý đó một lần nữa và ngụ ý: “Nhà vua đang đến. Để chuẩn bị đón Ngài, các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại nào. Hãy dọn mình sẵn sàng để đi vào lịch sử của nhà vua”.
Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ của người dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được cũng đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Ông là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa mình đi để người ta chỉ nhìn thấy Chúa Cứu Thế. Ông nhận thấy mình là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế. Nguyện Chúa ban cho chúng ta ơn biết quên mình, chỉ biết đến Chúa Cứu Thế thôi.
82. Minh họa Lời Chúa
Chúa Cứu Thế ở giữa anh em mà anh em không biết
1. Đi Giảng Đạo
Ngày nọ, Thánh Phanxicô Assisi nói với thầy trong dòng:
- Nào chúng ta cùng đi giảng đạo.
Thế là hai cha con ra đi, đi hết đường này, sang đường kia, rồi quẹo, sang ngã khác về nhà. Khi về đến nhà, thầy dòng thắc mắc hỏi:
- Thưa Cha, con nghe Cha nói mình đi phố giảng đạo cơ mà?!....
- Chúng ta đã giảng đạo rồi đó. Khi chúng ta đi đường, mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghe về đời sống của ta, rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống của linh hồn họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi đó sao?
---------
Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào kết quả cho bằng chính đời sống chứng tá của mình. (Theo “Minh họa Lời Chúa”).
2. Sống giữa người nghèo
Trong tác phẩm “Bản nhạc của Thiên Chúa”, tác giả kể câu chuyện sau đây.
Một ông vua nọ có đứa con trai duy nhất kế vị ông. Người con trai này có nhiều đức tính tốt., nên toàn dân vui mừng khi nghe vua cha sẽ nhường ngôi cho cậu. Nhưng trước khi lên ngôi kế vị, cậu xin phép du hành một chuyến để tìm hiểu đất nước và tình hình dân sự.
Sau khi người con ra đi, vua cha ngã bệnh nặng băng hà. Tình trạng trống ngôi vua khiến đất nước lâm cảnh rối ren, dân chúng lầm than khốn khổ. Người ta biết hoàng tử đang ở trong nước, nhưng không xác định được ông đang ở đâu. Triều thần đổ xô đi tìm khắp nơi nhưng không ai tìm thấy dấu vết nào. Có số người vào tìm trong thành thị giàu có sang trọng, nhóm người khác tìm nơi các nhà chính trị hoặc kinh doanh nhưng cũng chẳng ai tìm gặp hoàng tử.
Trong khi đó, tại một xóm nghèo người ta thấy có một thanh niên ngày ngày tận tâm phục vụ người nghèo. Tiếng tăm của người thanh niên đó ngày càng lan rộng khắp nơi. Nhờ đó mà người ta nhận ra đó là hoàng từ và đặt lên kế vị ngai vàng. Và toàn dân mến phục vi vua này…
----------
Chúa Cứu Thế đã đến ở giữa mọi người, nhứt là tận tâm tận lực phục vụ người nghèo khổ bất hạnh, đến nỗi chết treo trên khổ giá để cứu độ họ. Thế mà mấy ai nhìn nhận? mấy ai biết ơn? Mấy ai mến phục?... (Theo “Chờ đợi Chúa”)
3. Tại vì anh hút thuốc
Greg Louganis là nhà vô địch thế vận hội về môn bơi lội. Anh đang chuẩn bị rời hồ bơi. Bỗng anh nghe thấy một chú bé ngậm điếu thuốc chạy về phía anh. Anh gọi nó và bảo:
- Em không nên hút thuốc. Tại sao em hút thuốc?
Đứa bé trả lời một cách hết sức tự nhiên:
- Tại vì anh hút thuốc, nên em bắt chước anh!...
Greg mới nhớ sực lại mình đang ngậm điếu thuốc trên môi.
Sự kiện đó tác động mạnh đến việc anh bỏ hút thuốc. Anh nói:
- Tôi có bổn phận phải làm gương tốt cho các em nhỏ.
----------
Muốn làm sứ giả dọn đường cho Chúa đến cứu độ tôi và mọi người, tôi có bổn phận làm gương tốt như anh Greg trên đây không? Tôi có cần chửa bỏ tội lỗi và thói xấu để kẻ khác bắt chước không? Tôi có cần thực hiện điều lành việc tốt để làm gương không? (Theo “Vision 2000”).
4. Ánh sáng muôn dân
Trong truyện cổ Phi Châu có câu chuyện sau đây:
Cụ già kia có 3 con trai. Nhờ cần cù làm việc, ông có được gia tài khá nhiều. nay ông thấy gần đất xa trời rồi, muốn để gia tài cho đứa con nào khôn ngoan, để nó gìn giữ và phát triển được.
Hôm nọ, ông gọi 3 người con đến tro cho mỗi người 5 đồng, bảo đi mua cái gì có thể làm đầy phòng khách nhà ông. Mọi người lãnh tiền ra đi.
- Ngày hôm sau, ba an hem đến bên giường cha già, đem theo vật đã mua. Người anh cả đem bó rơm trải lên chỉ đầy sàn nhà.Người anh kế mở túi lông gà chỉ đủ rải qua loa. Người cha nhìn hai đứa con lớn tỏ vẻ buồn, rồi ông quay sang hỏi đứa con út:
- Còn con, con mua gì đâu?
Cậu rút ra cây nến và bao diêm. Cậu bật diêm lên, đốt cây nến và ánh sáng tỏa khắp phòng. Người cha thấy thế hài lòng sung sướng, chia phần gia tài nhiều nhứt cho cậu.
--------
Chúa Giêsu đã đem ánh sáng đến cho muôn dân, và ở giữa mọi người, mà con người không nhìn thấy Ánh Sáng cứu rỗi của Người. Người là Ánh Sáng chân lý, Ánh Sáng hy vọng, Ánh Sáng ban sự sống…. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đón nhận Ánh Sáng của người, và thắp lên tia sáng tình thương cho những người sống xung quanh chúng ta.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam