Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 26

Tổng truy cập: 1373732

CHÚA GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN

Chúa Giêsu đi trên mặt biển

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 14,22-33) là một trình thuật được viết theo thể văn “thần hiện”, trong đó, các yếu tố văn chương được sắp xếp để làm nổi bật một cuộc tỏ hiện lạ thường và bất ngờ của một hữu thể thần linh, dành cho một số đối tượng đặc biệt, nhằm mục tiêu mặc khải một phẩm chất hay một hành động thần linh.

Hôm ấy, sau khi dân chúng ăn no nê bởi phép lạ hóa bánh ra nhiều (14,13-21), “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng” (c.22). Đức Giêsu thúc giục, thậm chí là ép buộc, các đồ đệ xuống thuyền. Người muốn các ông mau chóng rời xa khung cảnh “huy hoàng” của một phép lạ cả thể, và rời xa đám đông đang phấn khích vì phép lạ đó. Chính Người đảm nhận việc giải tán đám đông dân chúng này.

“Giải tán xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Người vẫn ở đó một mình” (c.23). Đây là lần đầu tiên Mt nói về việc Đức Giêsu cầu nguyện, cho dù, như Lc cho thấy, đây là một việc làm rất thường xuyên của Người. Lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng Mt kể về việc Đức Giêsu cầu nguyện sẽ là trong câu chuyện ở vườn Ghếtsêmani (26,36tt). Điều này kín đáo cho chúng ta hiểu nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu tối nay trên núi, khi Người ở riêng một mình, còn các môn đệ thì đang ở trong thuyền lênh đênh trên biển. Quả thực, sự kiện Người vội vã bắt buộc các môn đệ rời xa đám đông sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, và sự song song của cảnh tượng cầu nguyện này với trình thuật Ghếtsêmani, cho phép chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở đây có liên quan đến cám dỗ về lý tưởng Mêsia hiển thắng mà các môn đệ của Người (và Hội Thánh mọi thời) phải đối diện. Nói cách khác, sự kiện Đức Giêsu buộc các môn đệ xuống thuyền khi Người giải tán đám đông, đề nghị một cách hiểu Đức Giêsu cầu nguyện suốt đêm cho các môn đệ, để họ không bị sa vào chước cám dỗ về một Đấng Mêsia quyền năng, hiển hách, “hoành tráng”.

Khi Đức Giêsu đang cầu nguyện một mình trên núi, thì chiếc thuyền của các môn đệ “đã ra xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (c.24). Trong Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Các môn đệ đang ở trong con thuyền ấy, còn con thuyền thì đang lênh đênh giữa biển.

Trong tư duy Thánh Kinh (x. Is 27,1; 51,9t; Đn 7; G 7,12…), biển là nơi cư ngụ của các mãnh lực tà thần. Khi con thuyền đã ra xa bờ “cả mấy cây số” (dịch sát: nhiều stađiôs; mỗi stađiôs = 185m), tức là con thuyền đang ở giữa vùng cư ngụ và hoạt động của các mãnh lực đó. Cộng đoàn các môn đệ, như thế, đang ở trong tình trạng bị đe dọa bởi các mãnh lực của bóng tối và quyền lực tà thần.

Con thuyền của các môn đệ đang bị sóng đánh vì ngược gió. Trước đây, ở 8,24, tác giả Mt đã từng dùng một lối nói đặc biệt hơn nhiều để mô tả hoàn cảnh của cộng đoàn Hội Thánh: con thuyền bị tra tấn (basanizô) bởi các cơn sóng. Khi viết về tình trạng con thuyền ở 8,24 cũng như ở 14,24, có lẽ tác giả Mt liên tưởng đến những hoàn cảnh đau khổ mà Hội Thánh phải trải qua khi thi hành sứ mạng. Nhưng có sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh. Một bên là những cơn sóng “tra tấn” con thuyền, như thể có “động đất” (seismos) trên biển (x. 8,24), tức là những khó khăn đến từ xã hội bên ngoài, từ những hoàn cảnh biển đời nổi sóng “hành hạ/tra tấn” con thuyền Hội Thánh. Còn bên kia, trong 14,24, là một nguyên nhân bên trong: trạng thái tâm linh và tinh thần không đúng đắn của các môn đệ. Đức Giêsu sai các môn đệ xuống thuyền để “sang bờ bên kia” (c.22), là nơi mà các ông đã từng đến với Người (x. 8,28), tức là trong một vùng dân ngoại. Ngọn gió thổi ngược (c.24) ngăn cản các môn đệ thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, có lẽ chính là phản ứng của các ông khi phải rời bỏ nơi chỗ vừa diễn ra một biến cố hoành tráng cả thể, rời bỏ nơi chỗ trong đó vừa bùng lên niềm hy vọng về một sự chiến thắng hiển hách, tức là niềm hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ trở thành một thủ lãnh huy hoàng của đám đông dân chúng đang phấn khích vì được ăn no nê sau một phép lạ cả thể. Chính trạng thái tâm hồn không muốn rời xa niềm hy vọng đó đã làm cho con thuyền của các môn đệ tròng trành: con thuyền bị ngược gió.

“Vào khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (c.25). Trong sách Gióp, Thiên Chúa “đi trên mặt nước” (G 9,8: “Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”; x. 38,16). Bằng cách lướt đi trên mặt biển, Đức Giêsu cho thấy Người là Đấng được Thiên Chúa ban cho quyền lực thần linh tuyệt đối.

Nhưng phản ứng của các môn đệ lúc này là phản ứng của sự không tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. Trong cái trạng thái tâm linh không thích hợp như đã nói trên kia (“ngược gió”), khi được nhìn thấy sự thể hiện phẩm tính và quyền lực thần linh của Đức Giêsu qua việc Người đi trên mặt biển mà đến với họ, các môn đệ đã không có lòng tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. “Thấy Người đi trên mặt biển, các môn đệ hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’ và sợ hãi la lên” (c.26). Họ không nhận ra nơi Đức Giêsu vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. 1,23). Và vì thế, họ từ khước chấp nhận mọi tính cách hiện thực trong sự hiện diện của Người bên cạnh họ. Họ nghĩ đó là ma! Họ từ chối thực tại Người – Chúa nơi Ngài.

“Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (c.27). Đối diện với phản ứng tiêu cực và sợ hãi của các môn đệ, Đức Giêsu tự giới thiệu mình. Mệnh đề “cứ yên tâm” nhằm trấn an các môn đệ khỏi nỗi sợ mà các ông đang trải qua vì thiếu lòng tin. Ứng với lời kêu gọi đó là một khẳng định quan trọng “chính Thầy đây!”. Lời khẳng định này trước hết nhằm mục tiêu điều chỉnh: chính là Thầy đây chứ không phải là ma như anh em lầm tưởng. Nhưng đồng thời, lời khẳng định này lại trùng khít với biểu thức mà Thiên Chúa đã dùng để tự mặc khải về chính mình trong Cựu Ước (x. Xh 3,14; Is 43, 1.3.10t).

“Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (c.28). Ông Phêrô có vẻ tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó là lòng tin vào quyền năng làm những sự lạ lùng của Đức Giêsu chứ không phải là lòng tin vào tình yêu của Người. Ông muốn được “đi trên mặt nước” tức là muốn được tham dự vào cái điều kiện và thân phận thần linh của Đức Giêsu. “Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” (c.29a). Chúa không từ chối ông Phêrô, trái lại, còn mời ông thực hiện ước muốn của ông. Vấn đề không phải là Người sẵn sàng thỏa mãn tham vọng của ông Phêrô. Thực ra, mọi kẻ đi theo Người đều được mời gọi đón nhận và sống trong tư cách và thân phận của người con Thiên Chúa (x. 5,9). Vì thế, Đức Giêsu không ngần ngại bảo ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Vậy “ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (c.29b).

“Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ” (c.30a). Ông mong được hưởng một điều kiện thần thiêng không có bất cứ chướng ngại vật nào. Ông vẫn mang tâm tính của một người mong phép lạ. Ông vẫn ước mong một cuộc “đến với Thầy” theo một cách thức lạ thường, huy hoàng và không khó khăn. Ông đã quên mất rằng người ta trở nên con Thiên Chúa là giữa những chống đối, bách hại và khó khăn mà thế gian gây ra, như chính Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,10-11).

“Khi bắt đầu chìm, ông Phêrô la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (c.30b). Nỗi sợ hãi của ông Phêrô ở đây cũng giống như nỗi sợ hãi của các môn đệ trước đây trong câu chuyện con thuyền của các ông bị “tra tấn” bởi các con sóng lớn trên biển (x. 8,23tt). Trong câu chuyện đó, cũng như trong câu chuyện hôm nay, các môn đệ hoặc ông Phêrô đều kêu cầu với Đức Giêsu, xin Người can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Thái độ và cách hành xử này, xét theo một khía cạnh, là thái độ đáng khen. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng lời xin của ông Phêrô ở Mt 14,30 phảng phất thái độ và quan niệm được diễn tả trong Tv 18,5-18 và Tv 144,5-7, theo đó, người cầu xin mong chờ một sự can thiệp ngoại thường của Thiên Chúa từ trời cao để giải quyết tình trạng bi đát và tuyệt vọng của con người.

“Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (c.31). Tất nhiên Đức Giêsu sẵn sàng can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải là những can thiệp ngoại thường, mà là sự ở với của Người. Khi có Người ở với, người ta có thể làm được mọi sự (x.19,26) và chắc chắn sẽ được cứu.

“Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng” (c.32). Sự đối nghịch và thậm chí là phản kháng của các môn đệ đối với lệnh truyền phải rời xa tham vọng về một vương quốc Mêsia huy hoàng chiến thắng, bây giờ chấm dứt: “Gió lặng”. Cơn gió thổi ngược ấy vốn là sự kiếm tìm sự vẻ vang phàm trần.

Bấy giờ, “những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (c.33). “Những kẻ ở trong thuyền” tức là cộng đoàn Kitô hữu ở trong Hội Thánh. Cộng đoàn ấy bây giờ tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và tuyên xưng lòng tin ấy.

Lời tuyên xưng này được đặt ở cuối trình thuật, tức là sau khi Đức Giêsu đã lướt đi trên mặt biển đồng thời tự mặc khải về mình bằng cách sử dụng chính biểu thức mà Thiên Chúa tự nói về Người trong Cựu Ước (“Ta là”), và sau khi Đức Giêsu đã can thiệp để cứu ông Phêrô khỏi tình trạng bị chìm xuống biển. Vì thế tước hiệu “Con Thiên Chúa” được áp dụng cho Chúa Giêsu ở đây vừa mang giá trị Kitô học, vừa mang ý nghĩa cứu độ học. Đồng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học) và quyền lực ấy được thi thố để cứu các môn đệ (phương diện cứu độ học).

Đó chính là xác tín đức tin vĩ đại mà Hội Thánh muốn công bố với chúng ta hôm nay, và đồng thời cũng là xác tín đức tin làm nền tảng cho cuộc sống của mỗi tín hữu và của tất cả Hội Thánh trong hiện tại.

Gợi ý suy niệm và chia sẻ

  1. Hơn một lần Đức Giêsu mời gọi các môn đệ rời xa lý tưởng Do Thái về một vương quốc Mêsia đắc thắng kiểu thế gian. Trong bài Tin mỪng hôm nay, Người bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước, tránh xa cám dỗ tận dụng phép lạ hóa bánh ra nhiều để mơ tưởng về một phong trào Mêsia hoành tráng… Ngày nay, hình như Người vẫn thường phải yêu cầu chúng ta xuống thuyền ngay và sang bờ bên kia như vậy, thay vì mơ tưởng về một Hội Thánh bách chiến bách thắng bề ngoài với hàng loạt lễ hội không có thực chất Tin Mừng.
  2. Sẽ có gió ngược làm cho con thuyền Hội Thánh tròng trành, và gió ngược đó trước hết là ngược với hướng mà Chúa Giêsu yêu cầu các mộ đệ nhắm tới. Chính những mơ tưởng về một Hội Thánh đắc thắng ngược với lý tưởng của Đức Giêsu sẽ là một trong những ngọn gió ngược đó. Rồi biết bao toan tính, biết bao chương trình, biết bao tham vọng ngược với bản chất và sứ mạng đích thật của Hội Thánh…
  3. Lướt đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ trong đêm, sử dụng chính biểu thức “Ta là” của mặc khải Cựu Ước về Thiên Chúa để tự trình bày về chính mình, Đức Giêsu cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa và nắm trong tay quyền lực thần linh tuyệt đối. Và Ngài đến với con thuyền Hội Thánh trong tư cách Con Thiên Chúa có quyền linh tuyệt đối đó. Đó không chỉ là chuyện xưa, mà còn là chuyện của ngày hôm nay nữa. Chúng ta có tin thế không? Chúng ta có cảm nghiệm về thực tại đó không?
  4. Chấp nhận cho ông Phêrô tham gia vào thân phận Con Thiên Chúa (= đi trên mặt nước) của mình, cứu ông khi ông chìm xuống biển vì thiếu lòng tin, cùng ông lên thuyền và khiến gió ngược phải yên lặng, Đức Giêsu cho thấy chính Người, trong tư cách là Con Thiên Chúa có quyền lực thần linh tuyệt đối, là Đấng cứu độ nhân loại. Chúng ta trải nghiệm quyền năng cứu độ đó như thế nào?

 

  1. Những cơn sóng

Thiên Chúa tạo dựng con người. Ngài ban cho họ tự do. Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta thấy trong bài phúc âm hôm nay.

Sau khi cho dân chúng ăn no nê (Mt 14, 13 – 21) Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên thuyền sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu để các môn đệ lên thuyền rời khỏi đó; còn phần mình, Ngài lên núi cầu nguyện một mình. Chúa Giêsu phải thúc giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng: tránh quan niệm sai lầm của dân chúng muốn tôn Người lên làm vua theo kiểu trần thế. Đàng khác, Người muốn dạy các môn đệ bài học: “phục vụ không phải để được danh vọng, quyền uy”.

Vâng lời Thầy nên các môn đệ ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng, các ông không vui vì họ ít ra đã đóng góp trong phần thành công của bữa tiệc no nê hôm nay mà chỉ vỏn vẹn có “năm chiếc bánh và hai con cá” (Mt 14, 17). Phép lạ hoá bánh ra nhiều này là một chiến tích lẫy lừng. Một chiến tích mang lại cho họ những thành công mà họ đang mong mỏi đợi chờ. Một thành công làm cho họ phấn khích. Một thành công xứng với niềm mong mỏi mà các ông đã bỏ công đi theo Thầy Giêsu. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm Vua, cơ hội đó hôm nay đã đến nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội mà Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ nơi đó, bỏ lại những thành công trước mắt mà không phải hối tiếc. Bỏ lại tất cả để đi vào sứ vụ mới. Đó là ý Chúa Giêsu muốn. Đứng trước lời mời gọi này, các ông hết sức ngỡ ngàng, nuối tiếc; nuối tiếc đã dẫn các ông đến chỗ bất mãn, chán nản. Chán nãn, bất mãn gây cho các ông mệt nhọc. Mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Các ông đã bước đi nhưng bàn chân rã rời. Chân bước đi nhưng lòng mình còn bị níu kéo. Từng bước đi đang nặng trĩu cõi lòng. Nhịp đập con tim vẫn mãi dan díu. Ánh mắt con người ngoái lại đắng sau.

Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết rất rõ tâm trạng của học trò mình. Không những Ngài biết họ bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Bởi vì Ngài là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn mà!  Các môn đệ chèo chống vất vả bởi lẽ thuyền các ông đi ngược với sóng gió và hơn nữa chính các ông còn gặp trở ngại lớn hơn là gặp ngược lại với cả ý muốn. Ý muốn của Chúa Giêsu lại ngược lại với ý muốn, ngược lại với sở thích của mình. Tư tưởng, ước muốn làm cho các ông cứ ở mãi trong vòng lẫn quẫn. Con thuyền đang gặp phải sóng gió chòng chành. Sóng trên biển cả. Sóng trong cõi lòng. Sóng dâng trong ước muốn. Sóng cứ mãi vỗ về. Sóng cứ mãi nhấp nhô. Từng đợt sóng cứ di chuyển. Sóng sau xô sóng trước. Sóng sau cao hơn sóng trước. Sóng đánh mất phương hướng. Sóng làm cho lòng người thêm rối rắm. Sóng vỗ tan vỡ tình người. Sóng vỗ tan tình hiệp thông. Sóng làm lạc xa niềm tin. Sóng làm cho lòng người nôn nao. Sóng càng da diết thì càng làm cho lòng người càng nuối tiếc! Sóng vô hình và hữu hình đang sánh đôi. Sóng vô tình ly tán. Ôi con sóng xôn xao!

Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài vẫn hiện diện. Ngài đến gần hơn. Ngài làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có quyền trên bánh ăn no nê, Ngài có quyền trên cơn sóng, Ngài có quyền năng trên biển cả. Ngài có quyền năng  chế ngự thiên nhiên. Ngài có quyền năng và thấu suốt từng cơn sóng trong cuộc đời mỗi người. Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy. Đi trên sóng nước, Chúa Giêsu cũng để chuẩn bị cho các môn đệ tin vào thiên tính của Người. Vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có được quyền năng như thế. Điều này mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương và quyền năng cứu sống của Chúa khi chúng ta phải đương đầu với những sự dữ do thiên nhiên hay những sự dữ bởi ma quỷ.

Nếu trong Cựu Ước, Môisen dẫn dân Do Thái đi qua Biển đỏ một cách an toàn thì trong Tân Ước, Thánh sử Matthêu cho chúng ta thấy Chuá Giêsu là Môi sen mới. Đấng nuôi dưỡng dân chúng nơi hoang địa cũng chính là vị Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái khỏi ách Aicập: “Con đường Người nằm trên sóng biển” (Tv 77, 20).  Và sự chiến thắng trên sóng nước tử thần này thuộc về Chúa Phục Sinh, vì Chúa chế ngự sóng biển là cách diễn tả Chúa tỏ uy quyền trên thiên nhiên, trên sự dữ và như vậy Người cũng là Đấng chiến thắng sự chết. Ngài đầy quyền năng, có khả năng đem dân Chúa qua biển cuộc đời còn an toàn hơn nhiều và an toàn đến Thiên đàng vĩnh cửu.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa. Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa để Chúa làm nên cuộc đời chúng con như ý Ngài muốn. Xin dẹp tan những con sóng xô vô tình đang làm xon xao cõi lòng chúng con. Xin cho chúng con một niềm tín thác vào Chúa. Amen.

 

  1. Hãy an tâm vì luôn có Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).

Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hui hui, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x. 1V 19, 9a. 11-13a).

Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu “giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước” (14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là “những người ở bên này”. Việc các môn đệ phải “sang bờ bên kia”, nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.

Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao!

“Người lên núi cầu nguyện một mình” (Mt 14, 23). Người cầu nguyện cho ai? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn.

Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, “xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước” (Mt 14,29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.

Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.

Với lời kêu cứu của Phêrô: “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14, 31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: “Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây”, cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh ” Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây”. Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định “chính Thầy đây mà” (x. Lc 24; Mt 14).

Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo hội để sang bờ bên kia.

Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.

Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). Amen.

 

  1. Thầy đây, đừng sợ

Sau phục sinh, Chúa Giêsu hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày tận thế. Ngài đã thực hiện lời hứa đó trong Hội thánh, trong Bí tích Thánh thể để ở với từng người chúng ta cách đặc biệt và luôn nâng đỡ chở che cho chúng ta mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.

Trong đức tin, chúng ta được gặp gỡ Chúa và nhận được sự trợ giúp của Ngài. Xưa kia thánh Phêrô và các Tông đồ trong đêm tối chống chọi với sóng gió, họ sợ hãi vì không cảm thấy Chúa đang ở với mình. Ngay khi Chúa xuất hiện và tiến đến gần, họ cũng không nhận ra vì lòng còn bối rối. Thế nhưng, Chúa Giêsu không muốn các Tông đồ phải sợ hãi quá nhiều. Ngài đã lên tiếng xoá tan nỗi hoảng hốt của các ông: “Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Phêrô là người đầu tiên đáp lại lời Thầy nói, ông tỏ niềm tin vào Đức Giêsu và không còn sợ hãi những cơn sóng to gió lớn còn đang bạt vào thuyền: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14,28). Trước niềm tin và sự hăng hái của Phêrô, Đức Giêsu đã ban cho ông đặc ân đi trên mặt biển. Tuy nhiên, khi đối diện với thực tế vượt quá sức phàm nhân, Phêrô bắt đầu sợ hãi, không ý thức vững vàng vào sự trợ giúp của Thầy. Chính lúc đó, thân phận phàm nhân của ông đã theo quy luật tự nhiên bắt đầu chìm xuống nước. Nhưng Phêrô đã biết kịp thời nài xin Chúa cứu giúp cho lòng tin còn non kém của ông. Lòng tin đó chỉ vững vàng sau ngày Chúa Phục sinh. Tuy nhiên, sau sự kiện đó, lòng tin của các môn đệ dần dần tiến triển và hiểu rằng Đức Giêsu là Mêssia Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.

Ngày nay, nhiều lúc chúng ta cũng gặp những trường hợp giống như Phêrô, có những lúc cuộc đời gặp gian nan sóng gió, chúng ta hay quên rằng Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng trợ sức cho chúng ta, chúng ta dễ lo lắng, không nhận ra Chúa đang tiến lại gần chúng ta, không nhận ra Chúa đang nhắn nhủ hay nhắc nhở chúng ta. Thường khi, lúc gặp hoạn nạn chúng ta hay phiền trách người xung quanh không giúp đỡ, nhưng khi Chúa cho cuộc sống khá lên, chúng ta lại quên giúp đỡ những anh em kém may mắn hơn mình về vật chất và tinh thần. Thật ra, nhiều lúc Chúa cũng để cho chúng ta gặp khó khăn để thanh luyện chúng ta. Xưa kia, Chúa Cha cũng để cho Con mình gặp khó khăn vất vả đến chết vì muốn cứu độ chúng ta, Ngài đã vui lòng đón nhận những hình phạt mà loài người chịu trên Thánh giá. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Mêssia đau khổ đến cứu loài người khỏi nô lệ tội lỗi chứ không phải một vị vua trần thế đem lại lợi lộc vật chất theo ý loài người! Nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa thì chúng sẽ đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến, dù là thánh giá hay hoa hồng, miễn là trong đó có dấu hiệu tình yêu của Chúa đối với chúng ta.

Chúa đến để nâng cao đời sống tinh thần, cho chúng con thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất chóng qua chóng tàn này và hướng về sự thật vững bền. Đời này là đời tạm. Chúng ta không bỏ những bổn phận đời này nhưng biết hoàn thành bổn phận cho thật tốt: bổn phận kính Chúa và phục vụ anh em trong tình bác ái để xứng đáng nhận phần thưởng của Chúa trao, được kết hợp với Chúa và nên con Chúa đời đời trên Thiên đàng hạnh phúc.

Chúng ta hãy mạnh dạn xin Chúa cho mình vượt qua những khó khăn sóng gió cuộc đời như thánh Phêrô hôm nay. Những lúc gặp khó khăn như Phêrô đang bước đi trên mặt biển là lúc chúng ta kiểm chứng được niềm tin của mình: Chúng ta còn hoài nghi tình yêu của Chúa hay đã vững tin, chúng ta có thật là chứng nhân của Chúa chưa hay hoài nghi khi gặp thử thách gian nan? Chúng ta có mạnh dạn chèo thuyền để vượt qua những khó khăn hay buông xuôi và đổ thừa Chúa không giúp sức!

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến trợ giúp niềm tin yếu kém của chúng con. Xin cho chúng con ngày một trưởng thành trong đời sống đức tin, ý thức nhiệm vụ và bổn phận cải thiện cuộc đời mình, gia đình mình, xã hội mình đang sống theo sự hướng dẫn của Chúa trong Kinh thánh, qua Giáo huấn của Giáo hội, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong lương tâm của mình.

 

home Mục lục Lưu trữ