Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1374697

CHÚA GIÊSU ĐỒNG HÀNH

Chúa Giêsu đồng hành – Lm Đan Quang Tâm

 

 

Tam Nhân Đồng Hành Tất Hữu Ngã Sư Yên

 

Ở đây người thày đó chính là Thày Chí Thánh của chúng ta. Còn hai người kia là ai? Ta hãy nghe Lu-ca thuật chuyện.

Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số (c. 13). Hôm ấy là Chủ Nhật Phục Sinh. Có hai người trong nhóm môn đệ Đức Giê-su đi từ Giê-ru-sa-lem về quê là làng Em-mau. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra (c. 14). Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ (c. 15).

Cựu Ước viết: "Thiên Chúa cùng đi với họ" trong vườn địa đàng. Đức Giê-su, "Con Một Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật", một lần nữa cùng đi với con người. Ở đây Ngài đi cùng con người đang khi họ thất vọng não nề, lòng tin lung lay, mộng đẹp tan vỡ. Ngài đi cùng họ trong cuộc hành trình đức tin, trên con đường lữ thứ trần gian.

Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." Đức Giê-su hỏi: "Chuyện gì vậy?" (c. 17-19a). Được lời như cởi tấm lòng, họ được dịp trút hết nỗi phiền muộn âu lo đang đè nặng tâm tư. Họ thưa: "Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân" (c. 19b).

Câu trả lời của Cơ-lê-ô-pát tóm tắt cuộc đời và sứ mạng của Đức Ki-tô. Ông kể lể về cuộc thương khó và cái chết của Ngài: "Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá" (c. 20). Ông bày tỏ nỗi thất vọng não nề của các môn đệ: "Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi" (c. 21).

Ông thuật lại sự việc vừa mới xảy ra buổi sớm mai còn tươi rói trong tâm trí của mình: "Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy" (c. 22 - 24).

Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh" (c. 25 - 27).

Trước đó, Đức Giê-su đã bảo người Do-thái: "Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi" (Ga 5, 39). Khi tuyên bố điều ấy, Ngài chỉ cho ta một phương thế chắc chắn để nhận biết Ngài. Đức Phao-lô IV dạy ta rằng ngày nay cũng vậy, việc chuyên cần đọc Sách Thánh và tôn kính Lời Chúa là một ơn linh hứng rõ rệt của Chúa Thánh Thần. "Các tiến bộ đạt được trong lĩnh vực nghiên cứu Kinh Thánh, việc phổ biến, phát hành Sách Thánh ngày càng gia tăng, và trên hết là gương mẫu của truyền thống và tác động từ bên trong của Đức Chúa Thánh Thần có chiều hướng giúp người Ki-tô hữu thời nay ngày càng sử dụng nhiều Kinh Thánh như cuốn sách kinh nguyện căn bản và kín múc, rút ra từ đấy nguồn linh hứng thực sự và các gương mẫu tuyệt vời vô song" (Đức Phao-lô VI, Marialis Cultus, 30).

QUA THẬP GIÁ BƯỚC VÀO VINH QUANG

Thấy các môn đệ sa sút, xuống tinh thần, Đức Giê-su kiên nhẫn mở lòng trí cho họ hiểu ý nghĩa các đoạn Kinh Thánh nói về Đấng Mê-si-a: "Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (c. 26). Với lời này, Ngài gột rửa khỏi tâm trí các ông hình ảnh về một đấng Mê-si-a trần tục nặng về tính chính trị và tỏ bày cho các ông thấy sứ mạng của Đức Ki-tô là một sứ mạng siêu nhiên: cứu chuộc cả nhân loại.

Kinh Thánh nói tiên tri về Thiên Chúa quyết ý ban ơn cứu độ cho nhân loại qua cuộc thương khó và cái chết của Đấng Mê-si-a. Thập Giá không phải là thất bại, mà là thắng lợi vĩ đại nhất, thắng lợi của sự sống trên sự chết, của ân sủng trên tội lỗi, tình yêu chiến thắng hận thù, ánh sáng chiếu soi trên bóng đêm u tối. Mác-cô thuật cho chúng ta vào chiều thứ sáu Tuần Thánh trên đồi Can-vê, "bóng tối bao phủ khắp mặt đất" (Mc 15, 33) nhưng vào buổi sáng Phục Sinh "mặt trời hé mọc" (Mc 16, 2).

Phao-lô quả quyết rằng thập giá chính là con đường Thiên Chúa đã chọn cho Đức Ki-tô qua đó chiến thắng tội lỗi và sự chết: "Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa" (1 Cr 1, 22-24).

Vinh quang Phục Sinh gắn liền với cây Thập Giá như hai mặt của cùng một tấm huy chương. Đúng như Chúa đã nói với hai môn đệ thành Em-mau: "Đức Ki-tô phải chịu khổ hình để bước vào vinh quang của Ngài" (Lc 24, 26).

Cho nên nhà thần học Burno Forte đã viết một cách chí lý: "Khuôn mặt của Chúa Ki-tô được tỏ bày cách đầy đủ trong sự nối kết cái chết nhục nhã của Ngài với sự phục sinh của Ngài: Không có sự phục sinh, cây thập giá sẽ là sự thú nhận sau cùng của bất lực của con người, nhưng được rực sáng bởi sự Phục Sinh, cây thập giá đã là Thập Giá của Con Thiên Chúa, chết thay cho ta và vì ta, vì Ngài liên đới với những đau khổ của nhân loại. Còn nếu không có thập giá, sự Phục Sinh sẽ là lời công bố một chiến thắng không có kẻ thù; trái lại, liên kết với cây thập giá, sự sống lại của Đấng bị đóng đinh trên Thập Giá sẽ là lời công bố cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên trái đất này, trái đất của những kẻ chết và những tên đao phủ. Không có Phục Sinh, Thập Giá sẽ như mù, không có tương lai, không có hy vọng; nhưng không có thập giá, phục sinh sẽ rỗng tuếch, không có quá khứ và không có gốc rễ. Khoa Ki-tô học phải luôn giữ cả hai, Thập Giá và Phục Sinh, nếu muốn tìm kiếm khuôn mặt của Chúa Giê-su, mà không làm sai lệch hoặc không bóp mép khuôn mặt đó theo mẫu mực những chân trời nhân loại". (The Navarre Bible St Luke, Nhà Xuất Bản Four Courts Press, Kill Lane, Blackrock, Co. Dublin, Ireland, 1997)

Có ai hiểu Kinh Thánh cho bằng Đức Ki-tô. Và sau Ngài, Hội Thánh được uỷ thác sứ mạng giữ gìn và giải thích kho tàng Lời Chúa: "Mọi điều liên hệ đến việc giải thích Kinh Thánh cuối cùng đều phải tuỳ thuộc vào phán quyết của Hội Thánh vì Hội Thánh được Thiên Chúa giao cho sứ mạng và chức vu giữ gìn và giải thích Lời Chúa" (Vatican II, Dei Verbum, 12).

GẶP GỠ ĐỨC KI-TÔ PHỤC SINH, NIỀM VUI VÀ BÌNH AN

Trong cuộc chuyện trò với Đức Ki-tô, hai môn đệ đang từ tâm trạng buồn chán, thất vọng chuyển sang mừng rỡ hân hoan. Họ cảm thấy an vui, phấn khởi, hy vọng trở lại. "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" (c. 32)

Khi hai môn đệ bắt đầu cuộc hành trình, lòng các ông lạnh giá, ảo não nặng nề, chua chát. Họ đã chắc mẫm hai năm rõ mười rằng Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a mà lòng họ mong đợi. Thế nhưng cái chết của Ngài đã dập tan mọi hy vọng nhen nhúm. Một Đấng Mê-si-a chịu khổ hình thập giá nhục nhã! Thật chẳng tài nào xảy ra sự kiện đó được! Chẳng thể tưởng tượng được!

Thế nhưng khi có Đức Giê-su đồng hành và soi lòng mở trí cho họ hiểu về Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Lời Ngài sáng soi và sưởi ấm cõi lòng u tối và lạnh giá của họ. Khi được Ngài mạc khải qua việc bẻ bánh, họ được biến đổi. Họ được biến đổi sâu xa đến nỗi ngay lập tức họ quày quả hăm hở trở về chính nơi họ vừa mới bỏ mà ra đi. Dù trời nhá nhem chạng vạng, lòng họ sáng. Dù đôi chân nặng nề vì cuộc hành trình mới trải qua, tâm hồn họ nhẹ nhõm lâng lâng.

Điều gì đã thực sự xảy ra? Đức Giê-su đã mở trí cho họ. Hẳn nhiên rồi! Nhưng còn hơn thế nữa: Ngài đốt lửa trong lòng họ khiến tim họ bừng cháy. Thánh Âu-tinh mách ta một bí quyết để gặp Chúa: "Nếu bạn muốn có sự sống, hãy làm điều các môn đệ đã làm. Họ ban tặng Ngài lòng hiếu khách. Chúa làm như thể cương quyết tiếp tục cuộc hành trình nhưng họ cố nài ép, lưu Ngài lại. Kết thúc cuộc hành trình của mình, họ nói với Ngài: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn". Chúa tự mạc khải qua việc bẻ bánh. Lòng hiếu khách đã phục hồi điều mà sự thiếu lòng tin đã lấy đi. Vậy, nếu bạn muốn nhận ra Đấng Cứu Thế, hãy đón nhận người lạ. Hãy tìm kiếm Chúa trong việc chia cơm sẻ bánh".

KẾT LUẬN

Đức Ki-tô có thể đến với tôi như một người lạ tôi gặp trên đường đời, cho dù tôi chỉ gặp mỗi một lần. Lại còn phê bình tôi - mà rất đúng - "Ôi, chẳng hiểu gì cả! Lòng trí chậm tin!" Ngài còn có thể đến với tôi trong Kinh Thánh và qua tiệc Thánh Thể khi Linh Mục "bẻ bánh", nghĩa là Ngài đến với tôi trong Hội Thánh qua Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể. Sau cùng Ngài có thể đến với tôi khi tôi ân cần tiếp đãi người khác. Cử chỉ ấy có thể bù đắp cho sự "trì độn, chậm tin" của tôi, giúp tôi được ơn gặp Chúa.

Gần suốt cuộc đời rong ruổi, bôn ba, suy gẫm lại hoá ra cái đáng quý, "sự cần duy nhất" của đời tôi là chính Đấng Phục Sinh vẫn đồng hành cùng tôi trong cuộc sống. Và rồi khẩn khoản nài xin: "Mời Ngài ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn".

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Cha Pi-ô:

"Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa.

Chúa thấy con dễ bỏ Chúa chừng nào.

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.

Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say.

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.

Con cần thêm sức mạnh để khỏi dừng lại dọc đường.

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.

Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn."

 

 


 

 

32. Dừng chân.

Hôm nay chúng ta chú ý tới một sự kiện trong đoạn Tin mừng, đó là Chúa Giêsu Phục Sinh đã dừng chân ở lại quán trọ làng Emmau với hai môn đệ khi họ ngỏ ý mời Ngài.

Quả thực, đây không phải là lần đầu Chúa Giêsu dừng lại. Ngài luôn luôn dừng lại khi được yêu cầu và sẵn sàng ở lại với những ai cần đến Ngài. Các sách Tin mừng đã ghi lại cho chúng ta biết: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Chúa Giêsu luôn luôn dừng chân và ở lại với tất cả những ai cần đến Ngài, chẳng hạn: Ngài đã dừng chân và ở lại với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết mười hai năm, đang theo Ngài trong đám đông. Ngài đã dừng chân lại nhà ông Giakêu trong khi ông chỉ mong muốn được nhìn thấy Ngài thôi cũng đủ mãn nguyện rồi. Ngài đã dừng chân lại với các trẻ em khi chúng đến với Ngài, mặc dù các môn đệ xua đuổi chúng. Ngài đã dừng chân và ngồi ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế. Trên đường đi Giêrusalem nhận cái chết, Ngài cũng đã dừng chân để cứu giúp một người hành khất ngồi bên lề đường. Cuối cùng, trên thập giá, trong lúc hấp hối, Ngài còn dừng lại với một tử tội cũng đang hấp hối bên Ngài để ban ơn tha thứ và hứa cho anh được ở với Ngài trong nước trời… Tóm lại, Chúa luôn luôn ở lại với những ai cần đến Ngài. Chúa luôn luôn quan tâm và thương xót tất cả mọi người.

Tuy nhiên, những chuyện xảy ra trong khi Chúa Giêsu còn sống ở trần gian, thì cũng xảy ra như vậy sau khi Ngài đã sống lại, cho đến chúng ta hôm nay. Trong đời sống của chúng ta, đã biết bao lần chúng ta cảm thấy bản thân mình chẵng được ai để ý tới và cũng chẳng ai thèm nghe mình khiến chúng ta cô đơn lại càng cô đơn hơn, đã buồn chán lại càng buồn chán hơn. Nhưng có một điều chắc chắn là không có gì có thể ngăn cản được Chúa đến với chúng ta, và cũng chẳng có gì làm cho Ngài phải từ chối để rời xa chúng ta. Ngài sẽ ở lại với chúng ta như Ngài đã ở lại với hai môn đệ trên đường Emmau, nếu chúng ta biết đến với Ngài và nhìn lên Ngài.

Nói rõ hơn, tâm sự chán nản và sầu buồn của hai môn đệ ấy cũng là tâm sự sầu buồn, chán nản mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống. Bởi vì nỗi buồn cuộc đời nào ai thiếu: chúng ta buồn vì mục đích đời mình không đạt hay chưa đạt được như ý. Chúng ta buồn vì không ai hiểu tâm tư của mình, chúng ta buồn vì người khác nghi ngờ, ghen ghét, chơi xấu mình, chúng ta buồn vì không ai nâng đỡ mình, không ai về phe với mình để một mình cô đơn… Đó là chưa kể những chuyện không may, thất bại, thua lỗ, bất hòa, đắng cay… có khi lẻ tẻ, có khi dồn dập xảy đến trong gia đình hay bản thân chúng ta… vào những giờ phút đó, chúng ta rất dễ bị cám dỗ nghi ngờ về sự có mặt của Chúa và nghi ngờ về tình thương của Ngài.

Có lẽ chúng ta cho rằng Chúa biết thì biết vậy thôi, chứ bóng dáng Ngài chả thấy đâu cả, có thấy Ngài giúp đỡ được gì đâu… nhưng suy nghĩ và lý luận như thế là chúng ta đã mắc phải cái lỗi lầm thiếu lòng tin của hai môn đệ Emmau mất rồi. Đáng lẽ những lúc như thế, chúng ta phải vận dụng đức tin để đổi buồn thành vui, thì chúng ta đã không làm mà lại để tình cảm lấn át. Ai phản ứng theo tình cảm thì sẽ bị tình cảm chi phối, che khuất, quật đổ, vùi dập. Chúng ta hãy nhớ rằng: Chúa đến với hai môn đệ kia cách rất bình thường và nhẹ nhàng như một người bạn đường tự nhiên, thì Chúa cũng sẽ đến an ủi và ở bên chúng ta cách nhẹ nhàng như thế. Có thể là một lời Kinh thánh, một lời giáo huấn giảng dạy ở nhà thờ, một lời khuyên răn của cha mẹ, một lời an ủi, động viên của bè bạn, hay cũng có thể là một sự bình an êm dịu nào đó Chúa ban trong tâm hồn… chỉ cần chúng ta mở rộng tâm hồn sẵn sàng đón nhận… Cho nên, chúng ta cần phải bình tĩnh và tỉnh thức để nhận diện ra Chúa, và đừng bao giờ vì một nỗi buồn thường tình nào đó mà quên Chúa, bỏ Chúa hay xa cách Chúa. Trái lại, càng buồn càng cầu xin Chúa, càng buồn càng neo chặt lòng tin vào Chúa hơn.

 

 


 

 

33. Nồng cháy.

Có một câu chuyện nhỏ về một nhà sư Phật giáo khi sắp chết, đã yêu cầu một vị linh mục Công giáo hướng dẫn ông về những chân lý đức tin. Vị linh mục này làm hết sức mình để thỏa mãn những mong ước đó của nhà sư.

Sau đó, nhà sư này cám ơn vị linh mục, nhưng ông còn nói thêm “Ông đã đem đến cho tâm trí tôi đầy những tư tưởng hay đẹp, nhưng ông vẫn để cho tâm hồn tôi còn trống rỗng” – Như vậy, tâm hồn nhà sư này vẫn còn trống rỗng – trống rỗng cái gì thế? Ông thực sự mong muốn điều gì? Tôi đặt giả thiết là ông bị trống rỗng niềm an ủi và sự an tâm. Nói tóm lại, ông bị trống rỗng tình yêu. Những tư tưởng đẹp có thể nuôi dưỡng tâm trí. Nhưng chúng không thể nuôi dưỡng tâm hồn. Chỉ có cảm nghiệm về tình yêu mới nuôi dưỡng được tâm hồn.

Câu chuyện về cuộc hành trình của hai môn đệ đi Emmau chủ yếu là một câu chuyện về tâm hồn. Trong khi hai môn đệ này lên đường trở về nhà, họ nói chuyện về Đức Giêsu. Tương tự như chúng ta không thể ngưng nói về một người mà chúng ta yêu dấu đã qua đời, cũng vậy, hai môn đệ này không thể không nói về Đức Giêsu. Người đã đem đến ý nghĩa, hy vọng và niềm vui cho cuộc sống của họ. Và bây giờ, Người đã chết, họ đã bị ám ảnh vì sự vắng mặt của Người.

Khi còn đang trên đường đi, tâm hồn họ lạnh lẽo và trống trải, nặng trĩu ưu phiền, bị thương tích vì nỗi thất vọng, và tê liệt do nỗi đau khổ. Họ tin tưởng chắc chắn rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Nhưng cái chết của Người, và đặc biệt là cách thức Người chết, đã làm cho niềm hy vọng nơi họ bị tan tành. Một Đấng Mêsia bị sỉ nhục, chịu đóng đinh! Đó là một điều không thể được, thật không thể hiểu nổi.

Nhưng Đức Giêsu đã cùng đi với họ, và Người mở tâm trí họ đến với ý tưởng về một Đấng Mêsia chịu đau khổ. Nhờ những lời của Đức Giêsu, ánh sáng và hơi ấm bắt đầu thấm nhập vào tinh thần tăm tối và lạnh lẽo của họ. Đến bữa ăn tối, ngay khi Người tự mặc khải chính Người, họ đã được biến đổi, và biến đổi quá nhiều, đến nỗi họ quay trở lại Giêrusalem ngay tức khắc. Ngay cả mặc dù bóng đêm tối tăm, nhưng trái tim của họ vẫn bừng sáng. Ngay cả cho dù đôi chân của họ còn nặng nề, nhưng trái tim của họ vẫn nhẹ nhỏm.

Điều gì xảy ra với họ? Đức Giêsu làm gì cho họ? Chắc chắn Người đã soi sáng tâm trí họ – không còn thắc mắc gì về điều đó nữa. Nhưng Người còn làm một điều gì đó tốt đẹp hơn nữa. Người nhóm lửa trong tâm hồn họ. “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, phải chăng tâm hồn của chúng ta không bừng cháy lên sao?”.

Đức tin liên quan đến trí tuệ, đến nỗi tác động đến các chân lý, giáo điều, học thuyết, lòng tin, giáo lý. Nhưng đức tin thậm chí còn liên quan nhiều hơn đến tâm hồn. Đức tin cốt yếu hệ tại ở tương quan tình yêu với Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Nếu không có tình yêu, thì đức tin giống như một lò sưởi không có lửa.

“Chúng ta sẽ không bao giờ biết tin tưởng bằng một đức tin mạnh mẽ và không hề đặt vấn đề, trừ phi Thiên Chúa tác động vào trái tim của chúng ta. Tiếng gọi của Thiên Chúa xuất phát từ chính tâm hồn con người”.

Điều chính yếu đã đến với hai môn đệ trên đường Emmau là gì? Đó là niềm tin rằng Đức Giêsu yêu thương họ. Chính niềm tin này làm cho tâm hồn họ bùng cháy lên. Câu chuyện trên chứng tỏ lòng từ ái của Thiên Chúa Đấng làm cho những ước mơ sâu thẳm nhất nơi chúng ta trở thành hiện thực, bằng một cách thức đáng kinh ngạc nhất. Và câu chuyện trên cũng cho chúng ta biết tất cả sứ vụ của Đức Giêsu Người luôn song hành với con người, hiện diện bên cạnh họ, và lắng nghe họ – đây chính là những “công trình tốt đẹp” chủ yếu của thời đại ngày nay.

 

 


 

 

34. Emmau.

Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai môn đệ đang trên đường tiến về làng Emmau. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ trên đường về làng cũ. Chúa Kitô đã xuất hiện không phải để chỉ mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, nhưng như một người nêu lên thắc mắc và giúp họ đi đến tận cùng sự tìm kiếm của mình.

Cảm nghiệm về Đấng Phục sinh của hai môn đệ cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Chúa Kitô Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống; Ngài luôn đi bên cạnh để chuyện vãn, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống mỗi ngày chính là nơi Ngài đến gặp gỡ con người, là nơi hẹn hò của Đấng Phục Sinh với con người. Bên kia niềm vui là nỗi khổ, bên kia thành công là thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình, để rồi từ đó nêu lên câu hỏi đâu là ý nghĩa của thân phận con người.

Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, nhưng không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết như một người giữa chúng ta, một người cũng đã từng nêu lên câu hỏi ấy về thân phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn, Ngài đã nói với tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy, và cuối cùng, với cái chết đau thương trên thập giá xem ra Ngài cũng đành bỏ cuộc. Thế nhưng, chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Ngài chính là kinh nghiệm mà người bạn đồng hành là Chúa Kitô Phục Sinh đã chia sẻ với hai môn đệ trên đường Emmau. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao ban. Mắt của hai môn đệ đã mở ra để nhận ra Ngài, hiểu được các biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.

Ngày nay, trong từng biến cố cuộc sống của chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến. Ngài đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ, Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như một người bạn đồng hành để chia sẻ và chuyện vãn, thì đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó trong ánh sáng Phục sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.

Ước gì sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà hai môn đệ trên đường Emmau đã cảm nhận được cũng lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không lầm lũi bước đi trong đơn độc, nhưng hân hoan tiến bước với Ngài.

 

 


 

 

home Mục lục Lưu trữ