Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 409

Tổng truy cập: 1372279

CHÚA GIÊSU KÊU GỌI CON NGƯỜI HỢP TÁC

CHÚA GIÊSU KÊU GỌI CON NGƯỜI HỢP TÁC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

*I. DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Hôm nay chúng ta bước vào mùa Thường niên. Các bài đọc trong Thánh lễ sẽ dần dần dẫn bước chúng ta đi theo Chúa. Bước đầu tiên là Chúa đến gặp gỡ chúng ta và kêu mời chúng ta đi theo Ngài.

Xin Chúa giúp chúng ta nghe được tiếng kêu gọi của Ngài và mau mắn đáp lại.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Nhiều lần Chúa đã kêu gọi chúng ta, nhưng chúng ta không nghe thấy vì chúng ta mãi mê theo đuổi những chuyện vật chất, thế gian.

– Chúa mời 2 môn đệ đầu tiên “Hãy đến mà xem”. Chúa cũng kêu mời chúng ta như thế. Nhưng rất ít khi chúng ta chịu khó đến với Chúa và chiêm ngắm Chúa.

– Chúa đã tạo dựng cho chúng ta một thân xác để chúng ta xử dụng mà tôn vinh Chúa. Nhưng rất nhiều lần chúng ta lại dùng thân xác mình để làm chuyện tội lỗi.

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc I (1 Sm 3,3b-10.19)

Chuyện xảy ra vào cuối thời kỳ các Thủ lãnh (hay còn gọi là Quan án). Thủ lãnh lúc đó là thầy cả Hêli. Ông này có hai đứa con trai. Vì không được Hêli giáo dục kỹ, cho nên hai tên này rất vô đạo. Chúng lợi dụng chức vụ của cha chúng để làm nhiều điều xấu xa tội lỗi. Vì thế Thiên Chúa quyết định chọn người khác thay thế Hêli. Người đó là Samuel, khi ấy còn là một cậu bé được trao phó cho Hêli dạy dỗ trong đền thờ Silô.

Một đêm câu bé Samuel đang ngủ trong đền thờ thì Thiên Chúa gọi cậu 3 lần. Ban đầu cậu chưa biết đó là tiếng Chúa. Nhưng sau đó, được Hêli cho biết đó là tiếng Chúa thì Samuel đã mau mắn đáp lại : “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân do thái thay cho thầy cả Hêli.

*2. Đáp ca (Tv 39)

Đây là lời đáp ngoan ngoãn và quảng đại của kẻ được Chúa gọi : “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”.

*3. Tin Mừng (Ga 1,35-42)

Gioan và Anrê là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Một hôm, Gioan tẩy giả đang đứng với họ thì thấy Đức Giêsu đi ngang qua. Gioan tẩy giả chỉ Ngài cho môn đệ thấy và giới thiệu “Đây là con chiên Thiên Chúa”, kiểu nói có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe thế Gioan và Anrê liền đi theo Đức Giêsu. Sau đó Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho anh mình là Simon. Đức Giêsu lại kêu gọi Simon và còn đổi tên ông thành Phêrô.

*4. Bài đọc II (1 Cr 6,13c-15a.17-20) (chủ đề phụ)

Những giáo huấn của Thánh Phaolô trong đoạn thư này vẫn còn là căn bản cho giáo lý ngày nay về giá trị thân xác con người :

– Thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô,

– là đền thờ của Chúa Thánh Thần,

– đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Kitô.

– Vì thế chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.

*IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Cảm nghiệm nhớ đời

a/ Cảm nghiệm của thánh Gioan tông đồ : Trong bài Tin mừng này, Thánh Gioan ghi lại một cảm nghiệm rất sâu sắc mà Ngài được trải qua và nhớ mãi suốt đời, đến nỗi khi Ngài ngồi lại để viết đoạn Tin mừng này (khoảng năm 90), việc đó đã trôi qua khoảng 60, 70 năm mà Ngài vẫn nhớ rất rõ “lúc đó là khoảng giờ thứ 10”. Cảm nghiệm gì mà sâu sắc như vậy ? Thưa là cảm nghiệm được gặp Chúa và từ đó gắn bó với Chúa. Chính Thánh Gioan kể lại như sau :

Khi ấy Ngài đang là môn đệ của Gioan tẩy giả. Một hôm Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy giả liền chỉ cho các môn đệ mình và nói : “Đấy là Con Chiên Thiên Chúa”. Nghe vậy, Gioan và một môn đệ nữa liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy họ đi theo sau lưng nên quay lại hỏi “Các anh tìm gì ?” Họ không trả lời nhưng hỏi lại “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” Đức Giêsu cũng không trả lời nhưng mời họ “Hãy đến mà xem”, rồi dẫn họ tới chỗ Ngài đang trọ. Họ đã đến và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Hẳn là một ngày rất ấm cúng, cho nên sau đó họ đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu luôn và 60, 70 năm sau Thánh Gioan còn nhớ kỹ lúc bắt đầu việc đó là “khoảng giờ thứ 10”. Thật đúng như lời của một thi sĩ rằng :

“Cái phút ban đầu lưu luyến ấy,

Nghìn năm hồ dễ đã mau quên”.

Thánh Gioan muốn chia xẻ cho chúng ta một kinh nghiệm quý giá, đó là : nếu có lần nào chúng ta được thực sự gặp Đức Giêsu và lưu lại trong tình thân mật với Ngài thì chúng ta sẽ không thể nào quên được Ngài, chúng ta sẽ mãi mãi gắn bó với Ngài.

b/ Cảm nghiệm của một số người khác :

– Văn hào Pháp Paul Claudel : một buổi chiều kia rảnh rỗi Paul Claudel rảo bước dạo chơi và tình cờ đi ngang một nhà thờ. Từ trong nhà thờ vang ra tiếng hát thánh ca thanh thoát, siêu phàm. Tiếng Thánh ca ấy đã thu hút ông buớc vào. Ông cảm xúc và ở lại cho đến hết buổi lễ. Và từ chiều hôm đó trở đi, Paul Claudel đã trở thành một tín hữu sốt sắng kiên trì trong Đức Tin. Ông viết nhiều quyển sách truyền bá Đức tin và ca tụng Thiên Chúa, ca tụng Đức Mẹ. Mọi sự bắt đầu vào một buổi chiều đáng nhớ.

– Thomas Merton : Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện : “Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại”. Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.

* 2. Chúa vẫn còn kêu gọi

Mặc dù Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà luôn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.

– Bắt đầu lịch sử cứu độ, Ngài đã kêu gọi Abraham.

– Khởi sự cuộc giải phóng dân do thái, Ngài kêu gọi Môsê.

– Mở màn thời Tân Ước, Ngài đã kêu gọi Maria.

– Khai mạc sứ vụ rao giảng Nước Trời, Ngài kêu gọi các môn đệ v.v.

Tóm lại, thời Cựu Ước vẫn thế, thời Tân Ước vẫn thế, và thời Giáo Hội cũng vẫn thế : Thiên Chúa luôn muốn kêu gọi con người hợp tác với Ngài trong công trình cứu độ.

Thánh Augustinô đã suy gẫm rất nhiều về điều này, và Ngài đã viết : “Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con”.

* 3. Chúa gọi, con người đứng lên

Tháng 3 năm 1998, Đức Cha Gioan Bta Phạm Minh Mẫn, Giám mục phó giáo phận Mỹ Tho, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục tổng giáo phận Saigon. Từ Lyon nước Pháp, nữ tu Marie Claude Faure, cựu Tổng quyền Dòng Chúa Quan Phòng Portieux, đã gởi đến ĐC Gioan Bta những lời khích lệ như sau :

Chúa cần một người cha cho dân Ngài

Ngài đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên…

Ngài cần một người phát ngôn.

Ngài đã chọn một kẻ nhút nhát nói năng ngọng nghệu. Thế là Môsê đứng lên…

Ngài cần một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài.

Ngài đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu nhất. Thế là Đavít đứng lên…

Ngài cần một tảng đá để đặt nền cho tòa nhà.

Ngài đã chọn một người chối thầy. Thế là Phêrô đứng lên…

Ngài cần một gương mặt để nói cho người ta biết tình thương của Ngài.

Ngài đã chọn một cô điếm. Đó là Maria Mađalêna.

Ngài cần một nhân chứng để hô to sứ điệp của Ngài.

Ngài đã chọn một kẻ bách hại đạo. Đó là Phaolô thành Tarsô…

Ngài cần ai đó để tập họp dân Ngài và để Ngài đến với những kẻ khác.

Ngài đã chọn Đức Cha : dù Đức Cha run sợ, Đức Cha sẽ có thể không đứng lên sao ?

* 4. “Hãy đến mà xem

Đức Giêsu nói với Anrê và Gioan “Hãy đến mà xem”.

Ý của Đức Giêsu là muốn gọi họ làm môn đệ. Nhưng Ngài chưa nói rõ ý đó ra, Ngài chỉ mời họ đến và xem.

– Phải đến, đến gần Đức Giêsu thì mới hiểu Ngài rồi mới có thể làm môn đệ Ngài. Không thể tưởng tượng nổi kiểu môn đệ gì mà ở xa Thầy, không thường xuyên đến gần Thầy.

– Rồi phải xem nữa. Môn đệ không chỉ nghe Thầy dạy, mà còn phải xem cách Thầy sống để sống theo. Không thể chấp nhận kiểu môn đệ mà không sống theo gương Thầy.

Câu Tin Mừng này nhắc tôi phải thường xuyên đến gần Đức Giêsu bằng những lúc cầu nguyện, và phải chăm chỉ xem Đức Giêsu bằng việc nguyện gẫm.

*5. Giới thiệu Chúa cho anh em

Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một cô gái. Người ta không nói tên của cô ta.

Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman, vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.

Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ : “Giá mà ông chủ Naaman được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh” Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.

Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua để mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư : “Hãy đi tắm trong dòng sông Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi”.

Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đầy tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông “Hãy về bình an”.

*

Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.

Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.

Dường như mỗi lần Tin mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có“năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.

Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm người hài lòng, vì sau đó Người phán : “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”(Ga.12,32).

Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh.

Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong Thánh kinh.

Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”.

*

Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới. Amen.(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

*6. Một cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa

Trong đời của chúng ta có rất nhiều cuộc gặp gỡ.

Có những cuộc gặp gỡ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu và sớm rơi vào quên lãng. Đó là gặp gỡ hời hợt bề ngoài. Ta có thể nói chuyện với một người nào đó hàng giờ, có khi hàng năm nhưng vẫn thấy chưa thể cởi mở hết tấm lòng. Ta có thể sống chung một tập thể với một người nào đó nhiều năm trời nhưng không bao giờ hiểu được người đó.

Có những cuộc gặp gỡ mà sau khi chia tay, chúng ta cảm thấy mình còn nghèo nàn hơn trước.

Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ rất nhiều ý nghĩa, làm cho chúng ta giàu hơn, và có khi làm thay đổi hẳn cuộc đời chúng ta. Bạn có thể gặp một người nào đó chỉ một lần liền cảm thấy gắn bó với người đó. Với người đó, bạn có thể cởi mở hết tấm lòng.

Khi tình bạn nẩy sinh giữa ta với một người nào đó, ta không cảm thấy rõ ràng đời mình đã đổi thay, nhưng ta nhận thức được rằng đời mình đã có một cái gì đó khác trước, ta có thể yêu thương và chăm sóc người đó một cách dễ dàng không cần cố gắng.

Đừng nghĩ rằng hễ cứ sống với nhau lâu dài và kiên trì chiều chuộng nhau thì sẽ có tình yêu. Theo Kahlil Gibran, “Tình yêu là con đẻ của một sự thu hút vô hình. Nếu sự thu hút này không nẩy sinh trong một giây phút thì nó sẽ chẳng bao giờ nảy sinh cho dù trải qua nhiều năm và thậm chí nhiều thế hệ”.

Có những cuộc gặp gỡ rất tình cờ nhưng lại khiến người ta gắn bó với nhau suốt đời. Nhiều cặp vợ chồng đã kể về lần đầu tiên họ gặp nhau với những chi tiết mà suốt đời họ không thể nào quên.

Những điều nói trên giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và 3 môn đệ sau này sẽ trở thành tông đồ của Ngài : Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời, bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin Mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó : “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều).

Vừa khi gặp Đức Giêsu, họ đã bị Ngài thu hút. Tuy nhiên Ngài không hối thúc, Ngài để họ thong thả muốn tìm hiểu Ngài bao lâu tuỳ ý : “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và đã xem. Họ thấy Ngài thân thiện, niềm nở, nồng ấm. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là một tình nghĩa gắn bó được phát sinh.

Khi ở với Ngài, họ cảm thấy hoàn toàn bình an thoải mái. Qua tiếp xúc với Ngài, họ còn khám phá chính bản thân họ. Thấy cung cách của Ngài, họ cảm mến và thấy rằng mình cũng phải cố gắng sống theo cung cách ấy.

Có một khác biệt vô cùng to lớn giữa uy quyền và ảnh hưởng. Những người hành quyền trên chúng ta thì muốn chế ngự chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ họ hoặc một bản sao của họ. Trái lại, những người có ảnh hưởng trên chúng ta thực ra không có ý gò ép chúng ta, thay đổi chúng ta hay khuôn đúc chúng ta thành người giống như họ. Họ ban cho chúng ta một không gian mà trong đó chúng ta có thể tìm gặp chính mình và sống theo cách thức của mình. Đức Giêsu không hành quyền trên các môn đệ. Nhưng Ngài có ảnh hưởng sâu đậm trên họ. Cuộc gặp gỡ hôm ấy đã biến đổi hẳn cuộc đời của Gioan, Anrê và Phêrô.

Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu trong xác thể, nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Ngài một cách thiêng liêng trong đức tin như gặp một người Bạn, một người Anh và một Đấng cứu tinh.

Ngày nay Đức Giêsu vẫn còn đi qua và luôn sẵn sàng đón tiếp những ai tìm gặp Ngài. Tuy nhiên Ngài không bao giờ ép buộc ai phải sống như Ngài. Đối với những ai có thiện chí muốn biết Ngài nhiều hơn, Ngài nói như đã nói với Gioan và Anrê “Hãy đến mà xem”. (Viết theo Flor McCarthy)

*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu mời gọi những người muốn theo Người “Hãy đến mà xem”, để hiểu biết Người hơn mà chọn lựa thái độ đối với Người. Chúng ta hãy tin tưởng dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây :

1). Xin cho mọi người trong Hội thánh biết năng tìm dịp gặp gỡ Đức Giêsu / để mỗi người càng hiểu biết và yêu mến Người hơn.

2). Xin cho mọi người trên thế giới chưa biết gì về Chúa Kitô / được có dịp gặp gỡ và hiểu biết Người là Đấng Cứu độ.

3). Xin cho mọi người đang gặp đau khổ và thử thách / biết tìm đến với Đức Giêsu Kitô để Người giải khổ và bồi dưỡng cho.

4). Xin cho anh chị em trong cộng đồng họ đạo chúng ta biết dùng lời nói và việc làm của mình như dấu chỉ và dụng cụ để giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho mọi người.

Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã mời gọi chúng con “Hãy đến mà xem”, xin cho mọi người chúng con biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

*VI. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha : Trong tâm tình sẵn sàng của những kẻ được Chúa gọi “Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa”, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa lời kinh Lạy Cha.

– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”

*VII. GIẢI TÁN

Ngày xưa Chúa đã kêu gọi Ông Samuel, Chúa đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Gioan, Anrê và Simon… Ngày nay Chúa cũng kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài để đem Tin Mừng của Ngài rao giảng cho thế giới. Chúng ta hãy đáp lại lời Ngài, suốt tuần lễ này nhiệt tình làm chứng cho Tin Mừng trong môi trường chúng ta sống và làm việc.

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN -B

CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN- Chú giải của Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Gioan Tẩy giả còn đứng đó với hai trong nhóm môn đồ của mình”: Về sự hiện hữu của nhóm môn đồ thường trực quanh Gioan Tẩy Giả, xem Mc 2,18 tt, Mt 11,2; 14,1; Lc 1,1; Ga 3,25. Lát nữa, bản văn sẽ xác định một trong hai môn đồ là Anrê, anh của Simon (câu 41); lai lịch của môn đồ kia vẫn còn bí ẩn. Có lẽ là “môn đồ Chúa Giêsu yêu dấu” (13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20), tức Gioan, con ông Giêbêdê, người được truyền thống cho là tác giả Tin Mừng thứ 4 và muốn giữ tính chất vô danh của mình dưới cách gọi đó.

“Hai môn đồ… đi theo Chúa Giêsu”: Lời tuyên bố của Gioan Tẩy giả đã khiến hai ngươi quyết định rời bỏ sư phụ mà theo Chúa Giêsu. Một lần nữa, như trường hợp Samuen, ơn gọi của họ đã được gợi lên cho một kẻ khác, do một người không phải là “ánh sáng”, nhưng là “chứng nhân ánh sáng” (1,8; 3,3) Chẳng một chi tiết giai thoại hoặc tâm lý, chẳng một chi tiết về nơi chốn, hoàn cảnh hay tâm tình các nhân vật người kể lã thu tóm tất cả trong một lược đồ giản đơn, với những ghi chú và đối thoại vắn gọn.

“Hãy đến mà xem, Người bảo họ”: Chúa Giêsu chẳng muốn cho một chỉ dẫn địa hình. Nói cách khác, không thể biết Chúa Giêsu “ở” đâu nếu không đích thân “đến xem” Người. Động từ hy lạp “thấy” được dùng ở đây (hoàn) không chỉ nói lên việc xem thấy thể lý (mà người ta vẫn thường diễn tả qua tiếng emblopein (ngó) như ở c.36). Nó bao hàm sự nhận thức và thấu hiểu một thực tại thiêng liêng. Nhưng nhận thức và thấu hiểu này đòi hỏi một sự dấn thân trước. Câu “Ai từ chối tin vào Con sẽ chẳng thấy sự sống” (3,36) hiểu theo ý nghĩa như vậy. Thành ra “thấy” không có nghĩa là chứng kiến từ bên ngoài một quang cảnh, nhưng chính là kết quả của cuộc hành trình đi theo Chúa Giêsu: “Phàm khi trở lại với Chúa, màn mới được cất đi ” (2Cr 3,16).

“Họ đã lưu lại với Người”: Đây là giai đoạn đầu của một cuộc sống chung sẽ được triển nở trong sự hiệp thông sâu xa nhất: Hãy lưu lại trong Ta như Ta trong các ngươi. Như cành nho không thể tự sinh trái nếu không lưu lại trong thân nho, thì các ngươi cũng vậy, nếu không lưu lại trong Ta” (15, 4).

Lúc đó khoảng chừng giờ thứ mười!: Với mỗi ưu tư đặc biệt luôn ghi chú chính xác những khoảng thời gian (4,25; 18,28; 19, 14. 20, 19), Gioan bảo lúc đó là chừng giờ thứ mười (theo lối phân chia vận hành của mặt trời thành 12 giờ từ bình minh đến hoàng hôn), tức lối 4 giờ chiều. Ghi nhận này phải chăng là một hồi tưởng cá nhân hay một chi tiết biểu tượng? Trong vài bản văn Cựu ước hay Do thái giáo đương thời, số 10 tượng trưng con số hoàn hảo, nên giờ thứ mười ở đây có lẽ là giờ của sự hoàn thành và đánh dấu khởi đầu công việc của Chúa Giêsu. Thật vậy, ở 11,9, ngày là một hình ảnh đặc trưng thời Gioan sứ vụ tại thế của Chúa Giêsu (x. 9,4t; 12,35).

“Anrê, em của Simon Phêrô, là một trong hai…”: Tên Hy lạp Andreas, cũng như tên Simon (là cách viết theo hy ngữ của tên Himéon), chứng tỏ hai anh em có nguồn gốc hy lạp. Đúng vậy, hai anh em là người vùng Bethsaiđa-Guilia, ngày nay là Et-Tell, phía đông bắc hồ Tibêria, trong đồng bằng được con sông El-Ebtebah tưới gội, thuộc quyền Phillp quận vương. Những hoài vọng- thiên sai vẫn còn sống động ở đấy Người Galilê luôn được chú ý vì lòng nhiệt thành của họ. Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đã vang dột đến miền này và ông có nhiều môn đồ người Galilê.

“Lúc ban sáng”: cách đọc này không chắc. Nhiều thủ sao đáng tin (Sinaiticus, L.W …) lại viết prôtos (premier, thứ nhất). Nếu cách đọc sau là đúng, thì câu văn muốn nói: Anrê là người thứ nhất đã tìm gặp anh của mình (idion) -Hiểu ngầm rằng người bạn của ông sau đó cũng đã tìm gặp anh của y, tức là Gioan đã dẫn Giacôbê đến và như thế là ở đây ta mặc nhiên có tên 4 môn đồ đầu tiên được gọi tên bờ hồ (theo Tin Mừng Nhất lãm). Cách đọc này có vẻ tinh vi quá! Đa số các thủ sao đáng tin khác (P.66, P.75, Sinaiticus col Úrecteur A. B. X…) lại viết là prôton (trước tiên, d’abord). cách đọc này có ý nghĩa hơn và được giải thích dễ dàng là để chỉ cuộc gặp gỡ đầu hết trước cuộc gặp gỡ ở câu 43 và 45: Trước tiên Anrê đi tìm Phêrô (nghĩa là trước lúc làm bất cứ chuyện gì khác), còn môn đồ kia làm chi, chẳng thành vấn đề. Sau cùng, hai bản dịch cổ kính nhất là bản Cựu Latinh và Cựu Syriát lại viết mano (lúc ban sáng), tương ứng với prôi trong nguyên bản.

Cách đọc này được giữ lại trong BJ (Mollat), Boismard, pernard… Cho dù ít được xác nhận, nó vẫn là tuyệt vời nhất vì xác định thời gian theo tinh thần của cả phần này, phần mà nhiều đoạn khởi đầu với một ghi chú thời gian: ngày hôm sau, lúc còn sớm hay lúc tảng sáng, Anrê vội vã đi thông báo tin vui rằng ông đã khám phá được Đấng Messia. Dẫu sao, về phương diện phê bình văn bản, cách đọc prôi quá ít chắc chắn, đến nỗi người ta phải ngạc nhiên khi thấy vài tác giả nổi tiếng chuộng nó hơn. Do đâu vậy?

Cách đọc Prôi hiển nhiên ám chỉ là người ta đã đi sang một ngày mới trong cái “tuần, khai mạc mở đầu Tin Mừng Gioan: đúng thế, các câu đi trước xác định công chuyện đã xảy ra vào lúc 4 gtờ chiều, thành thử ghi chú “lúc còn sớm” đưa về ngày hôm sau. Điều này giúp đạt được con số bảy trúng cách tính thời gian ở những trang đầu Tin Mừng Gioan, cách tính gợi lên sự đối xứng biểu tượng giữa lúc khởi đầu việc sáng tạo (trong 7 ngày) và lúc khởi đầu việc tái tạo do sự xuất hiện của Chúa Giêsu. Theo ý chúng tôi, đấy là lý do chính khiến Boismard và nhiều tác giả khác chọn cách đọc prôi thay vì protos hay prôton. Nhưng quả là luôn luôn nguy hiểm nên chỉ dựa vào những giả thuyết thần học để chọn một cách đọc cho bản văn. Trên quan điểm khoa học, cách đọc prôi hầu như không thể chấp nhận được. Nhưng phải chăng vì thế mà phải loại bỏ sự đối xứng thật hấp dẫn giữa Gioan và Sáng thế, sự đối xứng được tăng cường do việc Tin Mừng thứ 4 cũng chấm dứt bằng một tuần lễ được tính toán kỹ lưỡng? (Ta có thể so sánh thêm: cuối tuần đầu tiên của sứ vụ, “Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang người” bằng việc làm phép lạ đầu tiên trong 7 dấu chỉ thánh sử kể lại; cũng thế, cuối tuần sau cùng của sứ vụ trần gian. Chúa Giêsu “biểu lộ vinh quang” bằng việc hoàn thành dấu chỉ thứ 7, dấu chỉ lớn nhất, là cuộc phục sinh của Người): phải chăng phải loại bỏ tính cách biểu tượng tuyệt vời đó chỉ vì lý do là cách đọc prôi không thể chấp nhận? Vài tác giả hình như nghĩ vậy, nên đành hy sinh cách đọc chắc chắn hơn. Tuy nhiên, chúng tôi thiết tưởng rằng có thể loại bỏ cách đọc prôi để khỏi cưỡng ép bản văn mà vẫn giữ được lối biểu tượng như ta vừa trình bày.

Đúng thế, dù đọc protos hay prôton, thì cũng phải có một quãng thời gian giữa câu 39 là 43. Hình như Anrê và người môn đồ vô danh đã đàm thoại lâu giờ với Chúa Giêsu, khá lâu đủ để có được xác tín hồ hởi rằng Chúa Giêsu là Đấng Messias. Thế mà ta biết cuộc đàm thoại đã chỉ bắt đầu từ 4 giờ chiều và, đàng khác, rằng ngày tiếp theo chỉ bắt đầu 2 giờ sau đó (vì ngày hôm sau, theo người Do thái đương thời, là luôn bắt đầu lúc mặt trời lặn). Thành ra thực là hữu lý khi giả thiết cuộc đàm thoại đã kéo dài trong đêm khuya và nhu vậy giai thoại tiếp theo liên quan đến Anrê và Simon có lẽ đã xảy ra vào sáng hôm sau. Và lúc đó Anrê vội vàng tìm anh trước khi làm việc gì khác (cái chữ trước tiên này quay về prôton là cách đọc đáng tin hơn cả). Như vậy ta có thể giữ được cách tính 7 ngày, dù phải loại bỏ cách đọc lúc ban sáng (prôi) của BJ.

“Chúng tôi đã gặp Đức Messia”: “Gặp (heuriskein) sẽ được lồng nhiều lần trong phần này và phần kế tiếp (ch.2-4). Anrê “gặp” Phêrô, báo với ông rằng họ đã “gặp” Đấng Messia; cả hai gặp” Philíp, Philíp lại gặp Nathanaen và báo tin là mình đã “gặp” Đấng Messia. Việc lặp lại cùng một động từ để diễn tả một thực tại hoàn toàn khác với ý nghĩa thứ nhất của động từ, chứng tỏ một cách nào đó sự nghèo nàn của ngữ vựng Gioan. Tuy nhiên việc này hình như muốn ngụ ý: sự gặp gỡ và khám phá Đấng Messia khiến cho những ai đã gặp được Người đều muốn làm cho những kẻ mình gặp sau đó cũng khám phá ra Người. Ở trong Tân ước, chữ Messias (hy hóa chữ Mâsiah) chỉ được Gioan dùng nơi đây và 4,25 thôi. Nhưng thì thánh sử dịch ra Hy lạp là Christos. “Ngươi sẽ được gọi là Kêpha”: Kêphas (hy hóa chữ kêphâ, tảng đá) là một tên biểu tượng mà ý nghĩa sẽ được hiện rõ về sau. Cũng như chữ rabbi (c.38) và Messias (c.41), tên của Phêrô được trích dẫn bằng tiếng Aram một cách ngoại thường, khiến chợt trong đoạn văn này đã có đến 3 tiếng Aram. Ta có cảm tưởng là Gioan suy nghĩ bằng tiếng Aram hay ít nhất quen với những thành ngữ Aram.

KẾT LUẬN

Trong trình thuật này có các yếu tố chính của một cuộc trở lại: sự gặp gỡ với đích thân Chúa Giêsu (chứ không phải là một trần thuyết về (Chúa Kitô), sự khám phá nơi Người một con người có cái gì khác hẳn, và cuối cùng là sự thay đổi vận mạng.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

*1. “Các ngươi tìm gì? (1,38). Trong Tin Mừng thứ 4, đây là lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu: một câu hỏi. Cũng là lời đầu tiên Người ngỏ với chúng ta. Nó đưa chúng ta về lại với chính mình, mời gọi, chúng ta sáng suốt, tự do lựa chọn. Chúa Giêsu không để ta đi theo Người lâu ngày chỉ vì lời chứng của một kẻ khác (dù là của Gioan Tẩy giả), vì hiếu kỳ hay vì thói quen; Người muốn ta lưu tâm, ý thức, và vì thế Người hỏi ta: “Các người tìm gì?”. Dĩ nhiên người biết ta tìm gì, nhưng trước khi trả lời những thắc mắc hay khát vọng của ta, Người bắt ta hãy ra khỏi sự lãnh đạm, vô tình tự nhiên. Câu hỏi đầu tiên Hội Thánh đặt cho ta khi lãnh bí tích Rửa tội cũng tương tự: “con xin gì?” và ta đã thưa “Xin đức tin”. Đó cũng là điều là hai môn đồ đã trả lời tự thâm tâm khi muốn đi theo Chúa Giêsu đến nơi ở củ a Người.

*2. “Họ thưa Người: Rabbi, Ngài ở đâu?”. Lờl đáp trả của ta cũng phát biểu dưới hình thức câu hỏi. Nhưng một điểm căn bản bây giờ đã sáng tỏ: chúng t.a tìm nơi Người lưu trú. Người là ai, chúng ta còn chưa biết hay chúng ta chỉ lờ mờ linh cảm: ít nhất là một vị thầy. Ta trực giác tiên khởi của ta phải được xác định hay đào sâu hơn; việc tiếp xúc đầu tiên phải được bén rễ sâu trong một mối thân tình càng lúc càng đậm. Kẻ đối thoại gặp gỡ trên đường trở thành vị thầy mà ta thăm hỏi nơi cư trú, mà ta muốn đến làm môn đồ. Trước hết, ta phải đi theo Người tới nơi Người ở đã, rồi con người của Người sẽ được mặc khải cho ta.

*3. Sau khi theo Chúa Giêsu và ở lại bên Người một ngày, Anrê đã thấy, đã gặp được kẻ ông đi tìm: không phải một Rabbi, nhưng là Đấng Messia. Ông chẳng giữ riêng cho mình khám phá đó, nhưng trở thành tông đồ thừa sai cho anh và đem anh tới gặp Chúa (c.42). Không một tranh luận nào giữa hai anh em, không một lý luận nào của Anrê nhằm thuyết phục Simon, nhưng chỉ là một lời quả quyết đơn giản. Như Anrê đối với Gioan Tẩy giả, Simon tín nhiệm vào em mình. Như các môn đồ, đức tin của ta vào Chúa Giêsu cuối cùng đặt cơ sở trên một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa; nhưng đức tin đó luôn khởi phát từ đức tin của một người anh em, của một cộng đoàn gia đình và Giáo Hội, từ sinh chứng của một người ta tín nhiệm và mến yêu. Tín nhiệm và đức tin là hai chữ cùng một gốc.

*4. “Chúa Giêsu nhìn ông và bảo: Ngươi là Simon, con của Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá” (c.42). Một cách dễ dàng, tức khắc, cái nhìn của Chúa Giêsu thấu suốt nơi sâu thẳm của con người mới đến. Ơn gọi của kẻ này ngay từ phút đầu tiên đã được xác định: ông đổi tên và như vậy, theo quan điểm Thánh Kinh, đổi cả nhân cách, cả con người. Ông trở thành kẻ Chúa Giêsu gọi tên Phêrô (Đá). Đó là quyền ưu tiên tuyệt đối của lời Chúa mời gọi trên tất cả những thiên tư tự nhiên hay giải thích chủ quan của con người. Cũng thế, ngay từ lời đầu tiên Người ngỏ với ta. Chúa Kitô biến đổi ta tận gốc và, bắt lấy tương lai ta ngay tức khắc và toàn diện mà có lẽ ta còn chưa ý thức. Từ những Simon, những cá nhân mang một nhãn hiệu như mọi người, chúng ta nhận đức tin gọi đích thực, cá tính độc đáo và sứ mệnh đặc biệt của ta. Chúng ta trở thành kẻ phục vụ nơi người: Kêpha, nghĩa là Đá, là nền tảng và rường cột của Giáo Hội. Ai trong ta dám đoán trước được điều này? Khi gọi ta, Chúa Giêsu mặc khải cho ta biết đối với Ngài ta là ai, có thể là ai, phải là ai: là người tốt hơn và đẹp hơn ta tưởng.

*5. Đã lần nào ta có ý nghĩ sẽ đưa một người đến gặp gỡ Chúa Giêsu chưa? Như Gioan Tẩy Giả, ta biết Chúa Giêsu là ai; như Anrê, ta đã gặp Đấng Cứu thế. Ta có ưu tư để đừng giữ riêng cho ta sự khám phá này không?. Để có thể mời gọi một người trong anh em ta, có lẽ Chúa đang chờ đợi ta đem họ đến gặp Người.

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- B

HÀNH TRÌNH ƠN GỌI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt

Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.

1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.

Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe.

Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng.

Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Đức Giêsu.

2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.

Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.

3- Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa.

Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha – Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương.

Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi.

Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.

Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa.

Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.

4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa.

Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.

Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết.

Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội.

Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng.

Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.

Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không?

2- Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa?

3- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa?

home Mục lục Lưu trữ