Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1371126

CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI– Lm. Phêrô Lê Văn Chính

 Cái chết là định mệnh của con người. Ai rồi cũng phải chết, dù giàu nghèo sang hèn. Dầu vậy lời hứa của Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta tin tưởng và can đảm để sống những thực tại mới mẻ của sự phục sinh. Bài đọc sách tiên tri Giêrêmia nhắc lại những lời hứa ban tặng sự sống mới của Thiên Chúa nhắc nhở mỗi người hướng đến sự sống mới đầy tràn mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Sự sống mới này bắt nguồn từ Thánh Thần Thiên Chúa, lôi kéo con người ra khỏi nấm mồ sự chết để đến với sức mạnh Phục sinh viên mãn của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ biểu lộ sức mạnh chiến thắng sự chết này của Thiên Chúa khi làm phép lạ cho Lazarô sống lại để mời gọi mọi người tin vào Người để được tham dự vào sự sống vĩnh cửu muôn đời. Chúa nhật thứ V mùa chay cũng là chúa nhật đi trước tuần thánh, chúng ta được mời gọi tin vào phép lạ Chúa Giêsu làm cho Lazarô sống lại để tin tưởng chính Người là sự sống và là sự sống lại. Đây là dấu chỉ thứ bảy trong tin mừng Gioan, dấu chỉ lớn nhất đến độ được xem là tiền báo cho sự thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu.

          Hai chị em Marta và Maria là những người thân tín và tin tưởng vững mạnh vào quyền năng của Chúa Giêsu. Ngược lại, họ cũng là những người được Chúa Giêsu rất yêu mến. Khi Lazarô lâm trọng bệnh, hai chị em đã nhắn tin cho Chúa Giêsu, mong ước người sẽ đến để chữa cho Lazarô, người mà Chúa Giêsu yêu mến, được lành bệnh. Dầu vậy, Chúa Giêsu đã không đến như hai chị em mong đợi, người để cho đến khi Lazarô chết và được chôn cất bốn ngày mới đến thăm. Chúa Giêsu đã nhân dịp này chứng tỏ cho các môn đệ hiểu người có quyền năng làm cho người chết sống lại. Vì thế người nói với các ông :  «Lazarô bạn của chúng ta đang ngủ, thầy đi để đánh thức anh ấy dậy ». Theo lời Chúa Giêsu nói,  các môn đệ vẫn còn nghĩ rằng Lazarô chỉ ngủ một giấc bình thường, dầu vậy Chúa Giêsu đã ám chỉ đến cái chết của Lazarô và việc người sẽ làm cho anh được sống lại. Phản ứng của các môn đệ luôn đi sau những gì mà Chúa Giêsu muốn nói. Đứng trước những lời của Chúa Giêsu, các môn đệ chứng tỏ sự thiếu hiểu biết và vì thế cần được huấn luyện và dạy bảo bởi lời Chúa.

Khi Chúa Giêsu đến, hai chị em đã đón tiếp người, và Martha đã thưa với Chúa Giêsu là Lazarô đã chết được bốn ngày. Dầu vậy, bà vẫn biểu lộ một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Ngay cả khi Lazarô đã chết, Martha cũng tin rằng Chúa Giêsu có thể xin Cha để cho Lazarô được sống lại : «Con biết ngay cả bây giờ, thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho thầy ». Trong lời đối thoại với Chúa Giêsu, Martha đã diễn tả lòng tin mạnh mẽ của mình như một người do thái đạo đức. Chúa Giêsu nói với bà : « em con sẽ sống lại ». Martha đã thưa : «Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại thì em con sẽ sống lại ». Martha đã tuyên xưng đức tin của một người do thái đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một lời mạc khải quyết định về quyền năng ban sự sống của mình, Người chính là Đấng ban tặng sự sống, nên những ai tin vào người sẽ không phải chết và dù có chết cũng sẽ được sống. Chúa Giêsu còn muốn xác định rõ hơn nữa chính người là Đấng ban sự sống cho những ai sẵn sàng tin vào người: «Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin Ta thì sẽ không chết bao giờ ». Martha đã tuyên xưng rất mạnh mẽ xác tin vào Chúa Giêsu, «Thầy  là Đấng Kitô, và cũng là Con Thiên Chúa ». Martha là hình ảnh báo trước người tín hữu là người sẽ đạt tới lòng tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đến trong thế gian để ban tặng sự sống vĩnh cửu. Người là Đấng ban tặng sự sống theo hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng hằng sống: «Vâng con tin thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian ». Không những chỉ có Martha, hình ảnh mới mẻ của người tín hữu mà Phúc âm cũng trình bày hình ảnh rất dễ mến của Maria. Maria đến gặp Chúa Giêsu và bà cũng nói lời gần giống với lời của Martha : «Thưa thầy, nếu thầy ở đây thì em con không chết », diễn tả phần nào thái độ thiếu sót trong lòng tin, dầu vậy, Phúc âm cũng cho chúng ta thấy những phản ứng rất bình thường của con người đứng trước cái chết. Maria đã khóc nức nở, những người do thái cũng đã khóc nức nở, và Chúa Giêsu đã thổn thức và xúc động.

          Tình yêu và lòng tin tưởng của các môn đệ cũng như của chị em Martha và Maria dù sao vẫn còn nhiều giới hạn so với lòng mong đợi của Chúa Giêsu. Sự xác tín của các ngài vào quyền năng của Chúa Giêsu vẫn còn bị ràng buộc vào cảm nghiệm của con người trước sức mạnh của cái chết và sự yếu đuối bất lực của con người đứng trước cái chết. Các ngài đã tin là Chúa Giêsu có thể làm phép lạ, nhưng vẫn chưa có được nhận thức rõ rệt là chính Chúa Giêsu có quyền lực chiến thắng sự chết và ban tặng quyền lực này cho những ai tin. Hành động của Chúa Giêsu vượt lên trên những kinh nghiệm của con người và mạc khải điều thực mới mẽ. Lòng tin vào Chúa Giêsu giải thoát con người chúng ta khỏi những giới hạn của kinh nghiệm hạn hẹp của con người để hướng tới đời sống phục sinh vĩnh cửu.

          Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô được sống lại từ trong cõi chết muốn nói lên nhiều điều vượt quá việc ông được trở lại với đời sống bình thường và đem đến cho mọi người lòng tin tưởng mới. Việc Lazarô đã chết rồi được sống lại báo trước hành trình đi từ sự chết đến sự sống của Đức Giêsu và của mỗi người chúng ta. Việc Chúa Giêsu cho Lazarô chết được sống lại lớn lao như thế nào thì quyền năng Phục sinh của Người trên sự chết sẽ lớn lao hơn và sẽ được mạc khải nơi sự phục sinh của người. Lazarô được trở lại đời sống của con người, nhưng dù sao sau đó ông cũng sẽ lại chết, trái lại sự Phục sinh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện và ban tặng cho chúng ta là một Đời sống mới bất diệt, khi mà chúng ta sẽ không còn phải chết nữa. Đây là quà tặng của đời sống mới, của ơn cứu độ, do bởi Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong cõi chết. Câu chuyện Lazarô dẫn đưa chúng ta vào mầu nhiệm vượt qua mà chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống mới Phục sinh của Chúa Giêsu. Martha và Maria cũng như dân chúng đã tin vào Chúa Giêsu bởi vì họ đã chứng kiến dấu lạ Lazarô được sống lại. Thách đố của chúng ta là phải đạt đến chiều sâu của niềm tin sẽ giải thoát chúng ta khỏi những mong đợi giới hạn của con người, khỏi những kinh nghiệm tự nhiên để sống thực sự cảm nghiệm sức mạnh quyền năng Phục sinh của Chúa Giêsu trong những công việc bình thường hằng ngày. Kinh nghiệm mới mẻ này sẽ là tin tưởng mạnh mẽ mà không gặp thấy dấu chỉ nào trong những góc cạnh đen tối và mờ nhạt của đời sống hằng ngày. Chúa Giêsu đã xác định với Martha rằng người là sự sống và là sự sống lại cho những ai có lòng tin vào người. Điều ngạc nhiên khi chúng ta lắng nghe lại lời khẳng định này của Chúa Giêsu, đó là chúng ta đã bắt đầu chia sẻ sức mạnh phục sinh này trong cuộc đời hiện tại rồi. Hẳn nhiên là chúng ta chỉ có thể chia sẻ trọn vẹn mọi sức mạnh của quyền năng này sau khi chúng ta lìa đời, nhưng ân sủng của sự phục sinh đã bắt đầu được khai triển trong đời sống hiện tại của chúng ta bởi vì Thánh Thần của Thiên Chúa đã được ban tặng cho chúng ta. Vì thế, thánh Phaolô nhắc nhở rằng ngay từ cuộc đời hiện tại, quyền năng Phục sinh của Chúa Giêsu đã bắt đầu khai triển và người tín hữu được mời gọi sống theo Thánh Thần và biết xa tránh đời sống theo xác thịt. Khi sống theo Thánh Thần, người tín hữu đã bắt đầu cảm nghiệm đời sống mới phục sinh trong thân xác mình, như chính Thánh Thần đã tác động cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.

 CHÚA NHẬT V MÙA CHAY-B

GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB

‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.

Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.

Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)

Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”

Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?

Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.

 CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B

TRAO BAN LÀ NHẬN LÃNH-  Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Người đời thường nghĩ rằng: hễ cho là mất, là thua thiệt; vì thế tốt nhất là đừng dại dột cho đi, mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.

Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giê-su dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.

 Hy sinh nhiều thì được nhận nhiều; không hy sinh, thì không thu được gì cả

Hôm ấy, ông Phi-lip-phê và An-rê dẫn các người Hy-lạp đến gặp Chúa Giê-su. Bấy giờ, Ngài nói với họ: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

Tiếp đó, Chúa Giê-su kêu mời mọi người áp dụng bí quyết sinh tồn và phát triển của hạt lúa vào đời sống mình: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25).

Khi nói như thế, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta rằng: Ai xả thân phục vụ Thiên Chúa và con người, thì sẽ nhận được nhiều thành quả tốt đẹp; Ai sống ích kỷ chỉ lo cho mình mà không hy sinh phục vụ, người ấy sẽ không thu được gì.

Ba minh hoạ sau đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn bài học của Chúa Giê-su.

Thân phận hạt lúa

Khi những hạt thóc giống được gieo xuống ruộng đồng, hạt nào chịu chôn vùi trong bùn đất, chịu phân huỷ đi thì vài hôm sau sẽ nảy mầm, rồi sẽ mọc thành cây, sẽ triển nở sum suê và sẽ đơm bông kết hạt dồi dào. Trong khi đó, những hạt rơi trên bờ ruộng, rơi trên đất cứng, tuy không phải chịu cảnh phân huỷ mục nát như những hạt lúa dưới bùn, nhưng chúng không thể mọc thành cây, không thể nảy chồi đâm nhánh, không thể đơm bông kết hạt, rốt cuộc chỉ trở thành lương thực cho chim, cho kiến hoặc bị chà nát dưới chân người qua lại.

Hình ảnh hai cánh tay

Tôi có hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.

Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi phải cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.

Thế là, tuy cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, nhưng vì tay trái theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hy sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.

Hạt lúa Giê-su tự huỷ mình và được tôn vinh

Chúa Giê-su như một “Hạt Lúa” chấp nhận tự huỷ đi. Dù Ngài là Thiên Chúa, đồng hàng với Chúa Cha nhưng Ngài đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Ngài đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Ngài được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).

Vì Chúa Giê-su chấp nhận tự huỷ như thế, nên “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”. (Phi-líp-phê 2, 9-11)

Lạy Chúa Giê-su,

Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một hoả tiển phải tiêu hao nhiều năng lượng mới có thể được phóng lên không gian…

Xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hy sinh mỗi ngày, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp và được vươn đến gần Chúa hơn.

home Mục lục Lưu trữ