Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 39
Tổng truy cập: 1374761
CHÚA GIÊSU TỎ MÌNH RA
Dâng hiến vào đền thờ: Chúa Giêsu tỏ mình ra
(Chú giải của Hugues Cousin)
Trong bảng đối chiếu ở trang 38-40 # chúng tôi đã đặt cảnh này trong việc trình bày song song giữa Gioan và Chúa Giêsu. Hai em bé sơ sinh đã thực sự tỏ mình ra; bài thánh ca của ông Simêon (cc. 29-32), rồi lời sấm của ông (cc. 34-35) giữ một vai trò tương tự như Thánh vịnh tiên tri của ông Giacaria về Gioan. Nhưng Chúa Giêsu lại chiếm ưu thế trong cả hai giai đọan: việc sinh ra trong máng cỏ, là dấu chỉ cho các mục tử, đã đi trước việc mặc khải sẽ được diễn ra giữa cuộc sống Do Thái giáo. Sự song song về hình thức gặp ở đoạn trước lại hoàn toàn không thấy có ở đây, khoảng cách biệt giữa Đấng Mêsia và vị tiền hô của Ngài không được đặt lên hàng đầu nữa, dù rằng nó vẫn còn vết tích đây đó trong bản văn.
Việc Gioan đi vào lịch sử cứu độ được diễn ra trong Đền thờ, lúc cử hành việc phụng tự – nhưng chính Gioan lại không bao giờ đặt chân tới Đền thờ. Còn Chúa Giêsu, tuy được thụ thai một cách âm thầm lại sắp tỏ mình ra ở Đền thờ (cc. 22-24). Một biến cố kép đã được tiên liệu bởi luật Môsê là dịp cho sự tỏ mình này: việc thanh tẩy Đức Maria (cc. 22a.24) và việc chuộc lại con trai đầu lòng (cc. 22b-23). Điều đáng chú ý là chỉ duy có hai lần trong “Tin Mừng thời niên thiếu” Luca quy chiếu rõ ràng tới Thánh Kinh. Khi là người nghèo, một phụ nữ vừa sinh con “bắt hai con chim gáy hay hai con bồ câu, một để dùng sát tế một để dâng làm hy lễ đền tội; khi vị tư tế làm nghi thức thanh tẩy trên bà, bà sẽ được thanh tẩy” (Lv 12,8). Về việc chuộc lại con đầu lòng thì hợp với luật của Xh 13,12: “Mọi kẻ sinh ra..., tất cả những con cái của ngươi, là giống đực, ngươi hãy dâng hiến cho Chúa”. Nhưng không vì thế mà điều đó ngăn cản việc Thánh Thần có những ám chỉ tới Kinh Thánh: khuôn mẫu của các câu này được lấy từ 1Sm 1,22-24: bà Anna tiến lên dâng cho Thiên Chúa cậu bé Samuel vừa mới dứt sữa và cậu ở lại như người phục vụ trong nhà của Thiên Chúa.
Một cách trang trọng, công thức “những ngày (thời gian) đã hoàn tất” được nói lên lần thứ năm và cũng là lần cuối cùng trong Lc 1 và 2. Ngoài ra, sự chú ý của chúng ta đã được hướng tới những ghi chú về thứ tự thời gian nối kết các hoạt cảnh lại với nhau; cảnh này được nối với cảnh trước bởi quy luật của Lv 12,1-4 ấn định thời gian bốn mươi ngày từ khi sinh tới lễ thanh tẩy. Như vậy bảy mươi tuần trôi qua, đã hoàn tất, từ khi sứ thần Gabriel loan báo việc đản sinh của Gioan: việc giải phóng Giêrusalem trở thành một thực tại.
Cha mẹ là những người đạo đức và tuân phục luật Môsê (được nhắc tới ba lần trong các câu 22-24. Các Ngài thực hiện ngay cả những điều không bắt buộc: đích thân dâng em bé mới sinh theo gương bà Anna mà lời Kinh ca ngợi của bà đã gợi hứng cho Đức Maria.
Không có thành viên nào thuộc hàng tư tế được nêu lên trong các câu dẫn nhập này, vả lại những câu này không mô tả hai nghi thức đã được Luật ấn định. Nhưng có một người không phục vụ trong đền thờ lại đến vì được Thánh Thần thúc giục (cc. 25-35), ông không chỉ là người công chính và đạo đức. Như những người khác (c. 38) ông mong chờ việc thực hiện lời sấm về bảy mươi tuần lễ, ông đợi giờ cuối cùng khi Thiên Chúa sẽ đến cứu thoát dân Người một cách dứt khoát; đó là niềm hy vọng mà Sách An ủi đã tuyên bố (Is 40-55). Nhưng Simêon được thụ hưởng một ân huệ duy nhất: ông biết việc can thiệp này đã gần, ông sẽ thấy khoảnh khắc mà, cùng với việc Đấng Mêsia đến, lịch sử sẽ dứt khoát lật qua một trang mới. Sự biến chuyển xảy ra trong một cuộc gặp gỡ của con người; như trong cảnh thăm viếng (1,39-55) và trong câu chuyện về Cornay (Cv 10), tất cả đã được thực hiện khi hai con người được Thần Khí thúc đẩy, gặp gỡ và thông truyền cho nhau, cách này hay cách khác, những gì họ đã nhận được từ Thiên Chúa.
Là người lính canh cuối cùng của giao ước vũ trông đợi bình minh của thời Đấng Mêsia, ông ẵm trong tay Người Con đầu lòng của thế giới mới mà ông đã nhận ra. Ông lần lượt công bố một bài ca ngợi (cc. 29-32) rồi một sấm ngôn (cc. 34-35). Khác với Đức Maria và ông Giacaria nói về Chúa ở ngôi thứ ba trong các thánh ca của họ, Simêon nói trực tiếp với Chúa. Tước vị chủ tể đã giữ lời hứa, ông nhận biết rằng nhiệm vụ canh thức của ông đã chấm dứt: như tổ phụ Abraham, ông có thể ra đi bình an về với cha ông mình để được chôn cất (St 15,15); vị tổ phụ đã nhận lời hứa, còn ông, ông thấy lời hứa ấy được thực hiện. Hơn nữa, Thần Khí tiên tri ban cho ông một ánh sáng lạ lùng về vai trò của em bé – một sứ điệp mà thiên thần Gabriel đã không mặc khải cho Đức Maria: Đức Giêsu sẽ là Người Tôi Tớ mà Chúa đã ấn định cho trở nên ánh sáng của muôn dân, để ơn cứu độ của Người đạt tới tận cùng trái đất (Is 49,6). Các người lương sẽ không chỉ là chứng nhân mà còn là những người thụ hưởng ơn cứu độ vĩnh viễn, ngang hàng với Israel. Điều đó được nói đến sớm một cách kỳ lạ, bởi vì đấy là chương trình mà sau này Đấng Phục Sinh sẽ tuyên bố ở Lc 24,47 và sẽ thực hiện nhờ Phaolô, người sẽ nhân danh Chúa của mình mà hoàn tất, lời sấm ngôn ở Is 49,6 (Cv 14,46-47).
Như những người khác trước mình (x. 1,63; 2,18), cha mẹ Ngài ngạc nhiên, sửng sốt, như vậy con của họ, đã là Đấng Mêsia của Israel, cũng sẽ là Đấng Cứu Tinh của toàn thế giới! Nhưng mà tiếp theo bài ca ngợi hân hoan là một sấm ngôn có tính cách đe dọa (cc. 34-35), người con của Đức Maria sẽ trở nên nguồn gốc chia rẽ trong Israel – lời sấm ngôn mà Chúa Giêsu sẽ nói lại: “Ta không đến để đem bình an, nhưng đem chia rẽ. Bởi vì, từ nay trong một nhà năm người sẽ có chia rẽ, ba chống lại hai và hai chống lại ba” (Lc 12,51-53). Việc Israel loại trừ Chúa Giêsu và lời của Người sẽ chạy xuyên suốt như một sợi chỉ đỏ trong tác phẩm của Luca cho tới đọan kết cuộc đáng sợ của sách Công vụ: nói với những người Do Thái bị phân tán ở Rôma, Phaolô sẽ quả quyết rằng chính là cho dân ngoại mà ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được gửi đến, bởi vì họ sẽ nghe lời (Cv 28,24-29). Thực vậy, phải xảy ra việc tuyên bố ủng hộ hoặc chống lại Đấng Thiên Chúa sai phái, và điều đó nhất thiết sẽ bày tỏ tư tưởng thầm kín của nhiều người, nghĩa là sự cứng lòng của họ. Một lời tiên tri như thế là thể hiện một xác tín của Thánh Kinh: cùng những hồng ân của Thiên Chúa sẽ là nguồn phát sinh sự sống hoặc sự chết tùy theo thái độ của những kẻ đón nhận. Simêon vắn tắt cho thấy rằng một sự chia rẽ như thế sẽ làm Đức Maria đau đớn một cách sâu xa. Ta đừng coi đây như lời loan báo những đau khổ của Đức Maria ở dưới chân thập giá – Luca sẽ không nói tới sự kiện này. Nhưng là mẹ Đấng Mêsia, Đức Maria sẽ đau khổ hơn mọi người Israel khác để cho thời Đấng Mêsia sẽ được thể hiện. Lần đầu tiên ta thấy thảm kịch đã thấp thoáng.
Trình thuật có thể kết thúc ở đây. Bà cụ tiên tri Anna tiến vào không mang một mặc khải nào mới (cc, 36-38); bằng cách tiên báo, bà nói theo thể văn gián tiếp, nhưng chính nơi bà cụ này, mẫu gương cho góa phụ Do Thái hay Kitô giáo, mà Luca làm vang dội lại bài thánh ca ông Simêon – điều đó cho phép Luca kết thúc cảnh mặc khải này với một sắc thái hân hoan.
Phần kết luận (cc. 39-40) nhắc nhở một lần nữa lòng trung thành của hai cha mẹ đối với lề luật. Rồi sau đó là việc trở về Galilê trái với Gioan ở trong hoang địa. Chúa Giêsu sống ở Nagiaret. Điệp khúc về việc tăng trưởng song song với 1,80; nhưng Chúa Giesu nên mạnh mẽ, đầy khôn ngoan trong khi thần khí của Gioan nên mạnh mẽ. Những tương quan giữa Chúa Giêsu và Thần Khí lại mang một bản chất khác...
22. Chú giải của William Barclay
Các nghi lễ được tuân giữ: 2,21-24
Ở đây, chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu đã tuân thủ ba nghi lễ cổ mà người Do Thái phải giữ.
1. Cắt bì. Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày Sabát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và như chúng ta đã biết, trong ngày đó đứa trẻ được đặt tên.
2. Chuộc con đầu lòng. Theo luật (Xh 13,2) thì mọi con đầu lòng dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho loài người sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kỳ trẻ con còn được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu tục đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mặt đất. Vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 15,16). Người ta quy định rằng: dâng một số tiền năm shekel-chừng 15 shillings- cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải cho các tư tế và không thể nộp trước 31 ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn lâu.
3. Lễ Tẩy sạch sau khi sinh nở. Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu con gái thì mẹ phải chịu ô uế trong 80 ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hằng ngày, nhưng không thể vào Đền Thờ hoặc tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền Thờ, đem theo một con chiên làm của lễ và một bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém, vì thế luật cũng định (Lv 12,8), nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai bồ câu thay vì một con chiên và một con bồ câu gọi là “Của Lễ của Người nghèo”. Maria đã dâng của lễ đó. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút sang trọng, ở đó mỗi đồng xu của phải được tính kỹ, ở đó các phần tử trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gian nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mọi mùi cay đắng đó rồi.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cũ và lạ, nhưng cả ba cũng nói lên một niềm tin: con cái là phúc lộc Chúa ban. Nhưng người khắc kỷ nói con cái không phải được ban cho cha mẹ mà là cho mượn. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến, không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái.
Giấc mơ thành tựu: 2,25-35
Không có người Do Thái nào không coi dân tộc mình là dân tộc được ưu tuyển. Những họ biết rõ bằng phương tiện tự nhiên, đất nước của họ không thể đạt được tầm cỡ tuyệt với trên thế giới mà họ chỉ tin đó là phần phúc cho họ. Đa số họ tin rằng vì Do Thái là tuyển dân nên một ngày kia họ sẽ có một vĩ nhân, một anh hùng từ trời giáng trần, nhiều người khác tin rằng sẽ có một vị vua bởi dòng dõi Đavít và mọi vinh hiển xa xưa sẽ trở lại, nhiều người khác tin chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp bước vào lịch sử bằng những cách siêu nhiên! Nhưng ngược lại, cũng có một số ít người được gọi là “những kẻ yên lặng trong xứ”. Họ không mơ tưởng gì về sức mạnh và quyền thế, về quân đội với cờ bay trống giục, họ tin cậy vào một đời sống kiên trì cầu nguyện và lẳng lặng đợi chờ cho đến khi Thiên Chúa ngự đến. Suốt đời sống, họ trông đợi Chúa cách lặng lẽ và nhẫn nại. Simêon là một trong số những người đó, bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng, cứ khiêm nhường trung tín đợi chờ, ông trông mong được thấy người Thiên Chúa an ủi dân Ngài. Thiên Chúa đã hứa với ông qua Thánh Thần là ông sẽ không qua đời trước khi được xem thấy Đấng Xức Dầu của Ngài. Ông nhận biết vị Vua đó nơi hài nhi Giêsu và ông mừng rỡ. Bấy giờ ông sẵn sàng ra đi bình an và những lời của ông đã trở thành bài ca “Bây Giờ Xin Chết” (Nunc Dimittis), cũng là bài ca tuyệt tác của Hội Thánh.
Trong câu 34, Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu.
1. Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người vấp ngã. Câu đó nghe lại tai và khó chịu, nhưng đó là sự thật. Không phải Thiên Chúa đoán xét người ta cho bằng người ta tự đoán xét mình, và đoán xét của mỗi người là do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu. Nếu khi đối diện với lòng nhân từ, thương yêu của Chúa Giêsu, họ mở lòng ra tiếp nhận tình yêu đó thì họ được ở trong vương quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài, đồng thời không thiếu những người sẵn sàng nhận Ngài làm Chủ đời sống họ.
2. Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy. Triết gia Seneca nói rằng nhu cầu lớn nhất của loài người được một bàn tay đưa xuống để nâng họ lên. Chính bàn tay Chúa Giêsu đã nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vũng bùn tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi những nhục nhã và bước vào chốn vinh quang.
3. Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối. Đối với Chúa không có sự trùng lập. Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.
Tuổi già đáng yêu: 2,36-40
Anna cũng là một trong số những người lặng lẽ trong xứ. Chúng ta không biết nhiều về bà, ngoài mấy câu Kinh Thánh này, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta có một bức hoạ về tâm tính bà.
1. Anna là một quả phụ. Bà đã từng nếm trải đau buồn nhưng lòng bà không hề cay đắng. Sự buồn rầu có thể đem đến cho cta một trong hai điều: nó có thể làm cho chúng ta cứng lòng, cay đắng, uất hận, phản nghịch lại Chúa, hoặc làm cho chúng ta mềm mại hơn, dịu dàng hơn, nhân từ hơn. Nó có thể cướp mất lòng tin tưởng của chúng ta hoặc có thể giúp đức tin chúng ta đâm rễ sâu hơn, và trở nên bất khuất. Tất cả tuỳ thuộc cách chúng ta suy hiểu về Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như một loại bạo chúa thì chúng ta sẽ oán hận Ngài. Nếu nghĩ về Ngài như một người cha nhân từ thì chúng ta tin chắc rằng: tay của một người cha sẽ không làm cho con mình phải đổ một giọt nước mắt vô ích nào cả.
2. Bà đã già (84 tuổi) và không hề thôi hy vọng. Tuổi già cướp mất màu tươi thắm và vẻ cường tráng của thân thể chúng ta, nhưng còn tệ hại hơn, là năm tháng có thể giết chết sự sống trong tâm hồn chúng ta, đến nỗi bao hy vọng từng ôm ấp cũng chết lịm và chúng ta trở nên ảm đạm, ê chề, an phận thủ thường, không còn thiết tha điều gì nữa. Và điều đó cũng tuỳ thuộc vào cách chúng ta nhìn về Chúa: nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là một Đấng xa cách, không hề quan tâm đến chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ tuyệt vọng. Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa có liên hệ mật thiết với cuộc sống chúng ta, Ngài điều khiển mỗi bước của chúng ta trên đường đời thì chúng ta sẽ thấy tương lai thật tốt đẹp. Tuổi tác, thời gian, sẽ không thể giết được hy vọng của chúng ta. Nhưng bà Anna làm sao để giữ vững niềm hy vọng đó?
a. Bà không hề ngưng nghỉ trong việc thờ phượng. Bà dâng đời sống mình trong nhà Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Hội Thánh của Ngài để làm mẹ chúng ta trong đức tin. Chúng ta đánh mất một kho tàng vô giá khi chúng ta không muốn thông công trong việc thờ phượng với dân Chúa.
b. Bà hằng cầu nguyện không ngừng. Việc thờ phượng công cộng là quan trọng, nhưng việc thờ phượng riêng cũng quan trọng. Có người đã nói rất đúng: “Người nào biết cầu nguyện riêng tốt sẽ biết cầu nguyện chung tốt”. Năm tháng đã không đem cay đắng vào lòng Anna, không làm tan hy vọng của bà vì mỗi ngày bà biết kết hợp với Đấng vốn là Nguồn sức mạnh, và trong sức mạnh của Ngài, sự yếu đuối của chúng ta trở nên mạnh mẽ.
23. Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
I. LỊCH SỬ NGÀY LỄ.
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được "mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy" (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma. Nội dung Thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc âm thánh Luca 2,22-40.
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu ước qua ông Simêon và bà tiên tri Anna; Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do thái (Lv 12).
Khi du nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế, từ thế kỷ thứ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.
Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rôma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh.
(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh, tập 1, tr 68).
II. Ý NGHĨA NGÀY LỄ
1. Theo tập tục của luật Maisen.
Bài Tin mừng cho thấy Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Maisen liên quan đến việc hạ sinh Đức Giêsu. Luật Maisen qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21).
Khi được một tháng tuổi, trẻ phải được đưa tới Đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Người, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13, 2.12-13; Ds 18,15-16).
Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Maria đã làm (x. Lv 5,7; 12,8).
Mặc dù biết Đức Giêsu con của mình, là Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
Sách Xuất hành qui định: "Giavê phán cùng Maisen rằng: Hãy hiến thánh cho Ta mọi con đầu lòng: vật gì bất cứ, khi thông dạ mẹ, thì thuộc về Ta". Điều luật này tưởng nhớ sự kiện Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Vì thế, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa và phải dành riêng cho Người. Tuy nhiên, sau khi việc phụng tự được dành riêng cho chi tộc Lêvi, thì con trai đầu lòng thuộc các chi tộc khác không phải lo việc phụng tự nữa.
Nhưng để tỏ ra chúng vẫn thuộc sở hữu của Thiên Chúa, nên người ta thực hiện một nghi thức chuộc lại. Sách luật qui định con dân Israel phải hiến dâng một lễ vật tượng trưng để chuộc lại con trai.
2. Đức Maria dâng con theo lề luật.
Theo luật Maisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế.
Vậy sau khi Chúa Giêsu sinh ra được 40 ngày, Đức Maria đem con lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo luật Do thái. Mẹ Ngài hoàn toàn thanh sạch, không cần phải giữ luật ấy, nhưng Mẹ cũng thi hành đầy đủ lễ nghi, trước là vâng theo ý Chúa, sau là để người ta khỏi sai lầm mắc phải.
Hôm ấy, ông già Simêon là người hằng mong đợi được trông thấy Đấng Cứu Thế, lên Đền thờ cũng là ngày cha mẹ dâng Hài Nhi Giêsu trong Đền thờ. Vừa trông thấy Hài Nhi, được ơn trên soi sáng chỉ dẫn, ông rất vui mừng, vội đưa tay ẵm kính Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa:"Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài" (Lc 2,29-32).
Hai Ông Bà thấy và nghe như thế thì lấy làm lạ, chưa kịp hỏi han gì thì cụ già Simêon nhìn lên Đức Mẹ mà thưa:"Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người ta chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà"(Lc 2,34-35).
Đồng thời, nữ tiên tri Anna trông thấy Chúa Hài Nhi, bà cũng nói lên lời chúc tụng Thiên Chúa và nói lại cho người ta biết rằng chính Ngài là Vị Cứu Thế muôn dân đang chờ đợi.
Mặc dầu biết Đức Giêsu, con mình, là Con Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Và sau cùng, để chuộc lại con mình, hai Ông Bà vì nghèo nàn chỉ dâng lên Thiên Chúa một đôi chim gáy với tất cả tấm lòng thành.
3. Lễ hôm nay cũng là Lễ Nến
Khi lễ này được du nhập vào phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I lại thêm vào nghi thức rước nến, vì vậy lễ dâng Chúa Giêsu vào Dền thờ hôm nay cũng được gọi là Lễ Nến, vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân.
Chính cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Thánh Xôprôniô, Giám mục Giêrusalem đã nói:"Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là Ánh Sáng thật đã đến, Ánh Sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy tỏa sáng" (Kinh Sách, các bài đọc ngày 02.02).
Cuộc rước trong phụng vụ hôm nay nói lên đời sống của mỗi tín hữu phải giãi chiếu ánh sáng cho người khác. Chúa Kitô là ánh sáng cho trần gian. "Ánh Sáng" là một từ thường được dùng để chỉ về sự sống và chân lý. Thiếu ánh sáng là cô đơn, nghi nan và lầm lạc. Chúa Kitô là Sự Sống cho thế gian và cho mọi người, Là Ánh Sáng chiếu soi, là Chân Lý giải thoát, Là tình Yêu viên mãn... Mỗi khi cầm nên đi trong đoàn kiệu, chúng ta thông phần vào ánh sáng của Chúa Kitô.
III. BƯỚC THEO MẸ MARIA.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết theo gương Mẹ để biết khiêm nhường phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.
Trước hết, Lễ này dạy chúng ta bài học khiêm nhường vâng giữ luật Chúa và Hội thánh. Thật ra luật Cựu ước không buộc Đức Maria và Chúa Giêsu, vì Đức Maria không thụ thai cách bình thường như người đời. Ngài mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, nên Ngài không bị ô uế theo luật Maisen và không buộc phải thanh tẩy.
Đức Giêsu cũng không buộc phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật dạy, vì rồi đây chính Ngài sẽ bị sát tế và dâng hiến lên Chúa Cha trên thánh giá để làm của lễ chuộc tội loài người. Việc hiến dâng các trẻ em Do thái theo luật Maisen chỉ là hình bóng việc tự hiến của Ngài mà thôi. Thế nhưng chỉ vì khiêm tốn vâng phục mà Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn luật Cựu ước cho Chúa Giêsu để nêu gương cho chúng ta.
Thứ đến, Đức Maria sẵn lòng dâng hiến Con mình cho Thiên Chúa. Qua đó, Mẹ lặp lại lời Fiat, và một lần nữa, trao phó trọn đời mình cho Thiên Chúa an bài sử dụng. Chúa Giêsu được hiến dâng lên Chúa Cha trên tay của Mẹ Maria. Đây là cuộc hiến dâng đặc biệt nhất tại Đền thờ, và không bao giờ được lặp lại. Hơn ba mươi năm sau, Chúa Giêsu đã dâng chính thân Người, nhưng ngoài thành, ở trên đồi Calvê.
Mẹ Maria đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời để Chúa sử dụng trong cuộc việc cứu chuộc loài người. Mẹ không từ chối Chúa một sự gì. Tiếng Fiat luôn chiếm hữu tâm trí Mẹ để mọi việc được diễn tiến theo thánh ý Chúa, cho dù thân xác Ngài phải bị hao mòn.
Truyện: Ngụ ngôn về cây bút chì.
Người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm của mình trước khi cho nó vào hộp. Ông nói với bút chì: "Có 5 điều mày cần phải nhớ trước khi tao để mày bước vào thế giới hỗn độn ngoài kia. Lúc nào mày cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều ấy, khi đó, mày mới trở nên một cây bút chì đẹp nhất, hiểu không?
Thứ nhất, mày luôn có thể tạo ra những thứ rất vĩ đại, nhưng chỉ khi nào mày nằm trong tay một ai đó.
Thứ hai, mày phải liên tục chịu đựng những sự gọt giũa rất đau đớn, nhưng hãy nhớ, tất cả đau đớn ấy chẳng qua để làm cho mày đẹp hơn mà thôi.
Tiếp theo, mày phải nhớ lúc nào mày cũng có thể sửa chữa những lỗi mà mày ghi ra.
Và một điều nữa, hãy biết phần quan trọng nhất trên cơ thể của mày chính là phần ruột, phần bên trong chứ không phải là lớp vỏ ngoài.
Cuối cùng,, mày, bút chì, phải để lại vết chì của mày trên bất cứ bề mặt nào mà mày được sử dụng để viết, và phải liên tục viết, bất kể chuyện khó khăn gì, được không?
Cây bút chì hiểu rõ những lời người thợ nói và nó tự hứa sẽ nhớ tất cả những điều ấy, và rồi, nó vào nằm trong hộp để bước ra thế giới với những mục đích riêng mà nó đã định.
Qua câu truyện ngụ nôn về cây bút chì, bạn hãy thử đặt chính bạn vào vị trí cây bút chì xem. Lúc nào bạn cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều này, khi đó, bạn sẽ trở thành một con người vĩ đại cho mà xem.
Bạn hãy cố thực hành:
Thứ nhất, bạn có thể làm nên những chuyện vĩ đại, nhưng chỉ khi nào bạn biết đặt mình vào trong vòng tay của Thiên Chúa, hãy để cho mọi người được sử dụng những món quà mà Thiên Chúa ban cho bạn.
Thứ hai, bạn sẽ phải liên tục nếm trải những đau đớn và thất bại trong cuộc sống, nhưng có trải qua ngần ấy đau khổ, bạn mới có thể mạnh mẽ hơn được.
Cũng cần phải nhớ lúc nào bạn cũng có thể khắc phục những sai lầm trong quá khứ.
Tiếp theo đó, bạn phải biết phần quan trọng nhất của cơ thể bạn không phải là ngoại hình mà là tấm lòng bên trong của bạn
Còn điều cuối cùng, trên mọi nẻo đường mà bạn đi qua, bạn hãy để lại những dấu ấn riêng của bạn và trong bất cứ trường hợp nào, bạn cũng phải hoàn thành nhiệm vụ của minh.
Hãy làm theo ngụ ngôn về bút chì, nó sẽ giúp cho bạn cảm thấy bạn đúng là một con người đặc biệt và chỉ có bạn mới có thể hoàn thành được những trách nhiệm mà ngay từ khi sinh ra, bạn đã được giao phó.
Đừng bao giờ để mình bi quan và cũng đừng bao giờ cho rằng cuộc đời bạn thật tầm thường và rằng bạn không thể thay đổi bất cứ thứ già cả.
Trong Thánh Lễ hôm nay, cùng với lễ dâng trọn hảo là chính Chúa Giêsu, được Đức Maria và thánh Giuse tiến dâng trong Đền thờ, chúng ta cũng xin hiến dâng tuổi xuân và cả cuộc sống của chúng ta làm lễ dâng lên Thiên Chúa. Xin Ngài chúc phúc và hướng dẫn đường đời chúng ta trong thánh ý Ngài, hầu cả cuộc sống chúng ta trở nên lễ dâng tình yêu trong Tình Yêu Thiên Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam