Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 82
Tổng truy cập: 1370861
CHÚA GIÊSU – VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
CHÚA GIÊSU – VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (cc. 11-21)
Dụ ngôn về vị mục tử và đoàn chiên gợi nhớ đến Lc 15,3-7 và Mt 18,12-14. Tuy nhiên nơi Gioan điều lý thú tập trung trước tiên vào Chúa Kitô: Vị Mục Tử nhân lành đối nghịch với kẻ trộm cướp (c.1) và người lạ (c.5). Ở đây được miêu tả các mối tương quan liên kết mục tử với đoàn chiên của mình. Khác với những kẻ làm thuê, Chúa Giêsu là mục tử đích thực (nhân lành) vì hai lý do: trước tiên Người liều mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên; và nhất là Người duy trì với các chiên mối tương quan hiểu biết duy nhất bởi vì được ăn rễ sâu trong sự hiểu biết Chúa Cha của Người (như Chúa Cha biết Tôi).
Dụ ngôn, lúc đầu bóng bẩy, ám chỉ rõ ràng cái chết của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (10,15); cũng một giới từ như trong Mc 14,24 (máu đổ ra cho muôn người) và trong Lc 22,19 (mình Thay hy sinh cho anh em).
Khi đối chiếu Chúa Giêsu với kẻ làm thuê, có một điều chắc chắn được xác định về Chúa Giêsu: người làm thuê bỏ chiên mà chạy (“Thầy sẽ không để anh em mồ côi” 14,18); lúc bấy giờ sói có thể vồ lấy chiên (“không ai cướp được các chiên của Tôi khỏi tay Tôi” 10,28) và làm cho chúng tán loạn (Chúa Giêsu chịu chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” 11,52).
Kể từ câu 16, diễn từ vượt quá tình huống lịch sử của Chúa Giêsu để thâu gom tất cả mọi tín hữu đến từ thế giới ngoại giáo và nhờ qua trung gian các môn đệ, sẽ tin vào Người (17,20). Việc quy tụ các tín hữu, mong đợi vào thời cuối cùng, sẽ được thực hiện chung quanh Chúa Giêsu và lời của Người. Sự hiệp nhất hằng mong đợi này được trao ban trong cái chết của Chúa Giêsu (11,52); nó ăn rễ sâu trong sự hiệp nhất hằng hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đây là một cuộc chinh phục thiết yếu đầy khó khăn mà Chúa Giêsu phải cầu xin trước khi Người trở về cùng Chúa Cha (17,21).
Kể từ câu 17, Chúa Giêsu bày tỏ tình thân mật của Người với Chúa Cha, ở đó sự sống và sự chết của Người đều có ý nghĩa. Nhịp điệu của bài diễn từ với nhiều lần lặp lại, đối chiếu và tương hợp, mở rộng ý nghĩa như bản trình bày dưới đây cho thấy:
Chúa Cha
yêu mến Tôi
là vì Tôi hy sinh mạng sống mình
để rồi lấy lại
không ai lấy đi được mạng sống của Tôi
chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình
Tôi có quyền hy sinh
và có quyền lấy lại mạng sống ấy
đó là mệnh lệnh mà Tôi nhận đã nhận được
từ Cha Tôi.
Được đặt ở đầu và ở cuối, Chúa Cha tỏ hiện như khởi nguyên và cùng đích mọi hành động của Chúa Giêsu. Mọi sự đều xuất phát từ Người: mệnh lệnh không gì khác hơn là cách diễn tả tình yêu. Theo động lực riêng biệt của Gioan, sự chết được trình bày như một hành động hoàn toàn tự do trong đó hoàn thành mệnh lệnh yêu thương của Chúa Cha. Ngay trong lúc chết, thời điểm theo thường tình con người không còn làm chủ sự sống của mình nữa, Chúa Giêsu vẫn là Chúa Tể bởi vì Người hoàn thành điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, đã muốn mang sự sống đến cho mọi người. Việc suy niệm thần học về cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu ở đây, khá cách biệt với cách trình bày bi thảm trong Tin Mừng Maccô, giúp chung ta hiểu được cuộc Thương Khó như sự tự nguyện hoàn thành chương trình của Chúa Cha.
Lời nói của Chúa Giêsu gây nên chia rẽ. Sự chia rẽ này liên quan đến những kẻ từng chứng kiến việc chữa lành người mù, cũng như những người nghe dụ ngôn và các người sẽ đọc lời giảng dạy này. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu “bị quỷ ám” và đạo lý của Người chỉ có thể là dấu chỉ của ma quỷ và của sự điên khùng (cả hai thứ thường liên kết với nhau trong thế giới cổ xưa). Kẻ khác nhận biết nơi lời Người và trong hành động của Người dấu chỉ của Thiên Chúa.
71. Chú giải của Noel Quesson.
Khi ấy Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là…”.
Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: “Tôi là” các bạn hãy đặt hai chữ này lên môi miệng Chúa Giêsu. Vấn đề lớn được đạt ra đối với Chúa Giêsu đó là lai lịch của Người: Người là ai? Tất cả những ai đã đến gần Người đều phải ngạc nhiên vì sự bí mật về bản thân của Người. Người đã có những hành vi lạ lùng, Người đã nói “nói như chưa có ai đã nói như thế bao giờ”. Đôi khi Người như có vẻ chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Vì thế, Người đã nhiều lần dùng những cách nói, nhưng công thức mà nghe lướt qua, chúng ta không hiểu hết ý nghĩa.
“Ta là Bánh…”. -“Ta là ánh sáng trần gian…”. -“Ta là cửa…”. -“Ta là Đấng chăn chiên lành…”. -“Ta là cây nho…”. “Ta là sự Phục sinh và là sự sống…”.
Tất cả những kiểu nói ấy bắt đầu bằng 2 chữ Hy Lạp “Ego eimi”, có nghĩa “Tôi là”.
Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã phát âm những từ này theo tiếng “Aramên”, ngôn ngữ giống như tiếng Hêbơrơ và danh từ riêng “Thiên Chúa” là nhóm chữ không quên được “YHWH”, từ bốn chữ này không ai đã dám đọc lên và có nghĩa là “Ta là” (Xuất hành 3-14). Trước bụi gai bốc lửa trong sa mạc, Môsê đã hỏi Thiên Chúa: “Tên của Người là gì? Và câu trả lơi bí nhiệm từ lửa đã thốt ra: “Ta là Đấng Hằng Hữu”, bằng tiếng Hêbơrơ, có 4 phụ âm mà người Do Thái không bao giờ đọc lên, và trong những bản Thánh Kinh của chúng ta ngày nay, vì tôn trọng tính trung thực của các từ ngư đó (Thiên Chúa khó diễn tả), đôi lúc người ta đã giữ nguyên hình thức ban đầu: Để mắt nhìn, thì hiểu là “Yahweh” nhưng thực sự đọc lên thì phải thốt ra là “Đức Chúa”.
Không tự xưng danh rõ ràng, nhưng qua những lời này Chúa Giêsu đã dám tuyên bố rằng Người là “Đấng Cứu Độ duy nhất cho con người”, loại trừ tất cả những vị Chúa giả hiệu, những Đấng Cứu Độ không chính danh, những lãnh tụ sai lạc của nhân loại, người là “Đấng chăn chiên” duy nhất.
Tôi chính là người mục tử nhân lành, người chăn chiên thực sự.
Biểu tượng “người mục tử dẫn đàn chiên” đã có từ lâu trong khắp miền phương Đông ngày xưa, để mô tả những “Thần Thánh” và “Vua Chúa”.
Trong Thánh kinh cũng vậy, biểu tượng này cũng được áp dụng cho Chúa: “Chúa là mục tử của tôi, tôi không còn thiếu thốn chi” (Tv 22,1). “Giờ đây, chính Ta sẽ chăm sóc cho con chiên của Ta” Chúa đã nói (Ed 34). “Giờ đây Chúa của cac ngươi đến. Như một người mục tử, Người cho đàn chiên ăn cỏ – Với cánh tay quyền lực của Người, Người tập họp chiên lại, Người ôm vào ngực những chiên con, Người mang đến sự tươi mát cho những chiên cái còn cho con bú” (Is 40,11).
Chúng ta đừng bao giờ quên những trích dẫn này trong Kinh thánh mà bất cứ người Do Thái nào, nhất là Chúa Giêsu, cũng phải nhớ luôn luôn. Đối với những hình ảnh của Chúa Giêsu, lời tuyên bố này đã có một ý nghĩa “thần học” rõ ràng: Người nói Người là “Đấng Mêsia”, “sứ giả của Thiên Chúa” để dẫn đắt loài người đến với cuộc sống thật. Câu trước liền câu này, (rất tiếc là sách “bài đọc” đã không bắt đầu trước một câu) đã được chính môi miệng Chúa Giêsu nói ra như tóm tắt hoàn hảo nhất của bộ Tin Mừng, và sứ mệnh mà Người đảm nhận: “Ta đã đến cho loài người, có được cuộc sống, và cho loài người có cuộc sống dồi dào” (Ga 10,10).
Chúng ta cũng biết loài người cần đến những người chỉ đạo như thế nào, những Đấng do Chúa sai đến, có khả năng phân tách tình hình, dự đoán tương lai, trừ khử những hiểm nguy đang hăm dọa và mang đến sự an toàn. Cá nhân tôi rất chán ghét những điều ngu xuẩn mà các đài phát thanh và truyền hình thường phổ biến ào ạt. Khi một số nhân vật, chỉ là những “con người” như chúng ta đã tỏ ra dường như nắm được chân lý, biết những gì sẽ xảy ra, những gì phải làm: Chỉ cần loại bỏ điều này, điều kia và mọi việc sẽ ổn, chỉ cần làm thế này hoặc sai lạc ở chỗ này, chỗ kia.
Lời khẳng định sau đây của thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay vang lên như một lời cảnh tỉnh trong bối cảnh hư hỏng và phá sản những giá trị thiêng liêng: “Chúa Giêsu chính là viên đá mà các người tự xưng là những người xây dựng thế giới đã chê bỏ, nhưng Người đã trở nên viên đá góc. Ngoài Người ra, không có sư cứu rỗi nào cả”.
Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và không có chiên thuộc về riêng mình, nên thấy sói đến là bỏ chiên mà chạy.
“Người chăn chiên lành” ở đây được Chúa Giêsu giới thiệu để đối lại với các “vị câu thế” giả hiệu, những người này hứa hẹn toàn “những điều kỳ diệu”. Giờ nguy hiểm là giờ sự thật: Người chăn chiên giả hiệu, “người làm thuê” chỉ làm công việc để kiếm tiền, và tìm lợi riêng. Anh ta không cần gì đến đàn chiên, và đôi khi anh ta sẵn sàng phụ lực với chó sói để tru lên. Trong mọi trường hợp, anh ta sẽ không liều mạng sống của mình, nhưng trước hết anh ta sẽ tự cứu chính mình. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiet gì đến chiên. Còn người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên.
Trong trang này, bốn lần Chúa Giêsu nói: “Người hy sinh mạng sống của chính Người”. Chúng ta không nên dừng lại ở những hình ảnh thôn dã điền viên, những “chuồng chiên” lãng mạn này. Bầu khí bây giờ thật bi thảm: “Chúa Giêsu đang nghĩ đến người mục tử chịu chết để cứu đàn chiên của mình. Hình ảnh lạ lùng, khác thường quá. Chúng ta thường nghĩ rằng: Khi một người chăn chiên chết, anh ta không thể bảo vệ đàn chiên được nữa. Nhưng Chúa Giêsu nói: Nhờ cái chết của Người, Người sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu mạc khải điều này trong hoàn cảnh: Sự thù địch của những lãnh tụ tôn giáo càng lúc càng tăng, sau khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (Ga 9).
Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.
Đối với Chúa Giêsu, cái chết không phải là một sự bất ngờ, cũng không phải là một ép buộc phải chịu, hay phải chấp nhận. Người đã làm cho cái chết trở thành một sự hiến dâng hoàn toàn ý thức và tự do. Cái chết của Người là một “tác động” yêu thương, yêu thương đến cùng. “Không co tình yêu nào cao cả hơn là cho những người tự hiến chính mạng sống của mình” (Ga 13,1; 15,13).
Bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Thánh Gioan ở đây mạnh nghĩa hơn là những bản dịch có thể diễn tả. Nguyên văn có những từ sau đây: “Ta tháo gỡ linh hồn Ta ra”. “Ta hiến dâng mạng sống của Ta”. Cách nói khác thường này cũng ám chỉ trực tiếp bài thơ thứ IV của người đầy tớ (Is 53,10), người này hiến dâng mạng sống của mình để hy sinh cho quần chúng. Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta sẽ giữ lại mạng sống và cái chết của chúng ta “cho chính chúng ta?”. Chúng ta sẽ hiến dâng cái chết của chúng ta cho ai? Chúng ta có yêu thương người khác đủ để có thể thực hiện sư dâng hiến – tối thượng này không?
Tôi chính là người mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi.
Khác với người làm thuê, “không thiết tha gì đến những con chiên”. Nhân loại, tất cả mọi ngươi, đều có giá trị dưới mắt Chúa Giêsu, cho đến độ Người có thể liều mạng sống của Người cho mỗi một người trong chúng ta. Lạy Chúa, Chúa đã liều mạng sống của Chúa vì con sao?
Đúng, Ta đã yêu thương con thật tình, không phải chuyện đùa giỡn.
Qua những lời thắm thiết nồng nàn “Ta biết chiên của Ta” chứng tỏ tình yêu đã tiến rất xa. Động từ ‘biết’ trong Kinh thánh không chỉ có nghĩa là biết bằng tri thức mà là sự ‘biết’ của một người thương yêu một người khác đến độ như đã cộng sinh ra với người đó và dấn thân hoàn toàn vì người đó; như một người chồng nói về vợ mình: “Bây giờ anh biết em, anh trở thành một tạo vật mới, đấy là sự hy sinh ra lần thứ hai”. Sự hiện diện mật thiết của người này trong người kia, một sự cảm thông hỗ tương, một sự hiệp thông trong tư tưởng và tâm hồn. Đấy là “cùng sống với người đó” và “dấn thân vì người đó”.
Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.
Đấy là một gương mẫu. Sự thương yêu mật thiết và sống động giữa Ngôi Cha và Ngôi Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Sự mật thiết giữa Chúa Giêsu và những người Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người, những người mà Chúa cho sinh ra nhờ cái chết của Người. Đó cũng chính là sự kết hợp mật thiết hiện có giữa các ngôi vị Thiên Chúa. Vâng chúng ta hãy nói về sự mật thiết sâu sa này: Khi nghe gọi “Maria”, Mađalêna đã nhận ra ngay đó là tiếng nói của Chúa Giêsu Phục sinh (Ga 20,16). Tôi cũng thế, tôi cũng được Chúa biết rõ tên riêng của tôi. Tạ ơn Chúa, vì tình thương này.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về, chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên, và một người mục tử.
Trái tim Chúa Giêsu yêu thương mọi người. Tương quan sống động, việc hiệp thông sự sống giữa người mục tử và những con: chiên, “sự quen biết riêng” với từng con chiên, Chúa Giêsu xác quyết rằng sự “quen biết” này sẽ lan ra đối với tất cả mọi người không ngoại trừ ai cả. Sứ mệnh cứu độ của Người phải vươn tới tầm mục hoàn cầu. Chữ “Oicouménè” Hy Lạp có nghĩa là “toàn địa cầu có người ở”. Một lần nữa, đây là cách nói bí nhiệm của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta tự hỏi: “Người là ai, mà có những tham vọng như thế? Người có “hơn” Người thợ mộc khiêm nhường ở Nagiarét không? Xét theo bề ngoài dường như Chúa Giêsu sắp chết trong sự thất bại hoàn toàn, bằng một cái chết nhục nhã và bị chế nhạo, một cái chết “vô ích”? Ở thế kỷ II, có một lời ghi trên một phần mộ, ký tên Abercius: “Tôi là môn đệ của một thánh Mục Tử có mắt rất to, nhìn thấy khắp nơi”. Chúa Giêsu cũng vậy, Người có mắt rất to: Mỗi người một ngày nào đó, dù hư hỏng đến đâu, cũng sẽ nghe “tiếng của Người” và sẽ tự cảm thấy được Chúa thương yêu và “đoái nhìn đến”, chúng ta chỉ thấy có một phần nhỏ đàn chiên của Người, Công đồng Vatican nói: Đàn chiên nhỏ, đám đông vô tận.
Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Tôi, chính vì Tôi hy sinh mạng sống. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được.
Người thí bỏ mạng và lấy lại mạng sống của Người đễ dàng như “tháo cởi và mặc lại” áo quần. Chính những từ này đã được dùng chiều thứ Nam Tuần Thánh trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 13,4-12.
72. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU VỊ MỤC TỬ TỐT LÀNH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Giữa cuộc luận chứng về căn tính.
Chúng ta đang trong bối cảnh lễ Lều, với 2 nghi le độc đáo: thắp sáng Đền Thờ và rước đuốc ban đêm; đoàn rước các tư tế tới múc nước ở giếng Siloê về đổ trên bàn thờ trong Đền Thờ.
Chính trong khung cảnh lễ này mà Đức Giêsu đã chọc giận các đối thủ đang tìm bắt Người, khi tự giới thiệu là người được Thiên Chúa sai đến thực hiện nơi bản thân điều mà nghi lễ loan báo: Khi lễ Lều kết thúc, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai khát hãy đến cùng Ta và hãy uống” (7,37-38). Kế đó, Người nói với người Do Thái: “Ta là ánh sáng trần gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ được ánh sáng cho cuộc đời” (8,12).
Ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu gặp trên đường một người mù từ mới sinh. Người truyền cho anh: “Hãy đi rửa ở suối Siloê”?
Người mù đi rửa và anh đã nhìn thấy. Bị những người Biệt phái làm khó dễ, nguyền rủa, sau cùng, bị trục xuất khỏi Hội đường, người mù đã sáng lại gặp Đức Giêsu, anh nhận ra Người là Con Người: “Lạy Thầy, tôi tin”. Anh quỳ xuống trước mặt Người mà tuyên xưng. Anh giống như con chiên đầu tiên của đoàn chiên mới được vị Mục Tử Tốt Lành qui tụ lại (9,35-38).
2. Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử cứu thế
Đức Giêsu vẫn đang nói với người Biệt phái. Người đã đối chiếu “trộm cướp”, chúng theo ngã khác leo vào chuồng chiên, với “vị mục tử đích thực”: theo cửa chính mà vào, gọi tên từng con và cho chúng ra ngoài (10,1-6). Đối với các thính giả tìm lương thực nơi Kinh Thánh, hình ảnh về người mục tử cứu thế được Thiên Chúa sai đến, dẫn đầu đoàn chiên trong cuộc Xuất hành mới thật là dễ hiểu.
Trước sự chậm hiểu của những người Biệt phái, Đức Giêsu tự nhận là “cửa chuồng chiên” (10,7-10) trước khi tuyên bố công khai: “Ta là mục tử tốt lành (người chăn chiên đích thực)!” không phải theo nghĩa nhẹ nhàng, bóng bẩy, mà theo nghĩa trọn vẹn của chức năng, thể hiện trọn vẹn sư mệnh mục vụ.
– Người “chăn thuê”, chẳng khi nào chịu liều mình cho đoàn chiên vì chiên đâu phải của họ: vừa có biến là họ đào tẩu bỏ mặc đàn chiên không ai bảo vệ. Đức Giêsu, “vị mục tử tốt lành”, cũng giống như chàng mục tử Đavid nhỏ nhắn ngày xưa dám cống hiến cả mạng sống để bảo vệ đàn chiên của cha già Jessê (1Sam 17,31), không sợ “nguy nan” hay “thiệt mạng”.
Khác với người “chăn thuê”, Đức Giêsu, vị “mục tử tốt lành”, “biết chiên và chiên biết Người, như Cha biết Người và Người biết Cha”. Người gắn bó với họ bằng sợi dây yêu thương theo khuôn mẫu và khơi nguồn từ tình yêu trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con.
3. Đến qui tụ đoàn chiên vượt qua mọi biên giới.
– Bỗng chốc chân trời mở rộng vượt khỏi những giới hạn chật hẹp của “chuồng chiên Do Thái, vươn tới những con chiên khác” mà Đức Giêsu phải dẫn đưa về, để chỉ còn “một đàn chiên và một chủ chiên”.
A.Marchadour chú giải: lời Đức Giêsu phá vỡ hoàn cảnh lịch sử, bao gồm cả những tín hữu đến từ thế giới dân ngoại, nhờ các tông đồ mà tự nhận Người (17,20). Thời sau hết, mọi tín hữu sẽ qui tụ chung quanh Đức Giêsu và lời Ngươi. Sự hiệp nhất đáng mong ước này được trao ban trong cuộc Tử Nạn của Đức Giêsu (11,52); sự hiệp nhất ấy có nguồn gốc nơi sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đó là một cuộc chinh phục đầy gian nan mà Đức Giêsu đã quan tâm cầu khẩn trước khi Người về cùng Cha (17,21) (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion, trang 144).
– Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng một câu nói lên sự viên mãn đến lạ lùng, qua đó, dưới ánh sáng của mối thân tình giữa Ngươi và Chúa Cha, Đức Giêsu bộc lộ ý nghĩa của đời sống và cái chết của Người. Khi trao ban mạng sống của Người, đúng hơn “phó thác mạng sống” trong một hành vi vừa tự do tuyệt đối (“Mạng sống Ta… không ai lấy được: chính Ta tự trao ban”) vừa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha (“Đây là lệnh truyền Ta đã nhận từ Cha”), Đức Giêsu, Chúa Con, bày tỏ ở mức hoàn hảo nhất tình yêu của Chúa Cha muốn cứu độ toàn thể nhân loại.
1. Marchadour nhận xét: “Được đặt ở khởi đầu và kết thúc, Chúa Cha xuất hiện như nguồn mạch và cùng đích cho mọi hoạt động của Đức Giêsu. tất cả đến từ Người: lệnh truyền chẳng gì khác hơn là sự bày tỏ tình yêu. Cái chết, dưới ngòi bút sống động của Gioan, được trình bày như một hành vi tuyệt đối tự do trong đó Đức Giêsu hoàn tất lệnh truyền yêu thương của Chúa Cha. Ngay cả trong cái chết, giờ phút mà con người thường bị truất quyền làm chủ mạng sống, Đức Giêsu vẫn làm chủ, vì Người hoàn tất điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu, muốn để đem sự sống đến cho con người” (Sđd, trang 144-145).
BÀI ĐỌC THÊM
1) Dung mạo đích thực của Giáo Hội
“Ta còn những chiên khác chưa thuộc đàn này”.
Đó là dung mạo đích thực của Giáo Hội. Giáo Hội là truyền giáo. Nếu không Giáo Hội sẽ chẳng còn là Giáo Hội nữa. Hoặc sẽ là Giáo Hội của những Người được sai đi (Tông đồ) hoặc sẽ chẳng còn là Kitô hữu nữa. Chúng ta, bạn và tôi, hôm nay, phải thi hành điều mà các Tông đồ đã làm vào thời các ngài. Các ngài đã để Mầu Nhiệm Phục Sinh biến đổi mình. Các ngài đã hiểu rằng, nhờ Bí tích Thánh Thể và qua các ngài, nhân tính Chúa lai hiện diện nhiều hơn nữa. Các ngài đã hiểu rằng Người muốn nhờ các ngài đem đến cùng tận địa cầu, cũng như nhờ chúng ta đem đến tận cùng thời gian, ơn cứu độ mà trong 33 năm, Người đã đem tới cho những người sống cùng thời với Người. Từ nay, chính nhờ đôi mắt ta mà Đức Kitô có thể nhìn thấy những khổ đau của nhân loại, chính nhờ đôi chân ta mà Đức Kitô có thể đi đến gặp gỡ con người trong đau thương hay trong lầm lạc, chính nhờ trái tim ta mà Người có thể yêu thương thế giới hiện đại. Chính qua bản thân ta mà Đức Giêsu Cứu Thế muốn trao ban sự sống của Người, sự sống của ta. Như thế, trở về chuồng chiên không còn là cứ giữ nguyên lốt chiên, nhưng là trở nên, qua ơn gọi, chính Vị Mục Tử Tốt Lành đi tìm con chiên lạc đàn.
Nói về ơn gọi là nói về cuộc chuyển hoán, cuộc đổi đời quyết liệt của tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Ơn gọi này đòi buộc ta phải gia từ thân phận của những kẻ tiêu thụ thuần tuý, chỉ biết đòi hỏi trong Giáo Hội. Ta phải trở nên thân thể Đức Kitô. Ta phải là bóng hình của Người. Mỗi người ở địa vị mình, đều được kêu gọi vào những công việc khác nhau, để thực sự trở thành những Mục tử Tốt lành cho con người thời nay”.
2. “Tình yêu, con đường duy nhất để đến vơi thế giới bất tin” (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu dành cho ngày ơn thiên triệu).
“Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấn thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại, mà con người đã khước từ Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu, mọi linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu. (…) Thánh Phanxicô đệ Salê đã nói: “tất cả đều dành cho tình yêu đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu, va đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo Hội”. Nhưng cái chân lý cao cả ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chặn. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ay trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính chị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phu. “Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”; thế là đã rõ, một xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…).
Thánh nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự song cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Công Đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc ”Giáo Hội thời Công Đồng đã lam gì? Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14/9/1965: “Giáo Hội yêu, Giáo Hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đã kêu, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người, kể cả những người bắt bớ Giáo Hội”. Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: “Giáo Hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu”. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm linh mục trên khắp thế giới. Những linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo Hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nư Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các linh mục, đặc biệt là những linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo Hội (…).
Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo. Trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không co quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (…).
Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa: “Chị nói gì với Đức Giêsu?” Chị thánh trả lời: “Em không nói gì hết, em yêu Người”? Chỉ tình yêu là quan trọng.
3. “Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”.
(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Uỷ ban quốc gia về ơn thiên triệu)
“Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ… tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy… Đức ái đã cho con chìa khoá ơn gọi của con. Con hiểu rằng neu Giáo Hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là TRÁI TIM, và TRÁI TIM đó cháy đỏ TÌNH YÊU. Con hiểu rằng chỉ có Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Giáo Hội hoạt động, và nếu Tình Yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin Mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu… Con hiểu rằng TÌNH YÊU phủ trùm lên mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, bao gom mọi không gian và mọi thời gian… Tắt một lời, Tình Yêu là vĩnh cửu!
Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên: “ôi Giêsu, Tình Yêu của con, ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là TÌNH YÊU.
Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, Ôi lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con, trong trái tim Giáo Hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình Yêu, như thế con sẽ là tất cả, như thế giấc mơ của con đã thành hiện thực!”
73. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
NGƯỜI MỤC TỬ TỐT LÀNH
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thí mạng sống mình vì chiên”: nguyên ngữ: “để tâm hồn mình cho”; nên đối chiếu thành ngữ với công thức “thí mạng sống” của Mc 10,45 là tiếng xem ra phát xuất từ Is 53,12 (Bài ca Người Tôi tớ).
“Ta biết chiên Ta”: Theo truyền thống Thánh kinh, sự hiểu biết giữa người với người bao hàm tình yêu. Sự hiểu biết liên kết Chúa Giêsu với thân thuộc Người bắt nguồn và tìm được sự sung mãn trong tình yêu nối kết Con với Cha.
“Ta còn những chiên khác không thuộc về ràn này”: Ràn này là ràn của Hội đường, của Israel, ám chỉ rõ ràng, đến tất cả dân ngoại sẽ tin vào Chúa Giesu. Chúa Giêsu gọi họ là chiên của Người trước, vì họ đã thuộc về Người rồi do sự tiền định và do ý hướng tốt của tâm hồn họ. Vì thế, “họ sẽ nghe tiếng Người” khi Tin mừng được rao giảng cho họ.
“Ta thí mạng sống Ta”: Ba lần (cc.11.15.17) Chúa Giêsu lặp lại công thức vừa nói (nguyên ngữ: Ta để hay gởi mạng sống Ta). Qua văn mạch ta thấy từ ngữ này, thuộc riêng về Gioan, tương đương với các từ ngữ gặp được trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 20,28; Mc lo,45). Ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tính cách bộc phát và tự do của việc Người hy sinh. Dù chết vì vâng lệnh Cha (c.18), Người vẫn hoàn toàn độc lập với những tác giả gây nên cái chết cho người. Giuđa, các thủ lanh Hội đường, Philatô, các lý hình chỉ bắt buộc được điều Người muốn chịu và khi đến giờ của Người thôi (13,1).
“Đó là lệnh truyền Ta đã nhận nơi Cha Ta”: Các thần học gia không đồng ý với nhau về bản chất thánh ý này của Chúa Cha, được biểu lộ ra cho Chúa Con xét như là người: phải chăng đó là một mệnh lệnh hay là một ý thích của Chúa Giêsu Kitô? Dù người ta bảo thế nào, thì rõ ràng thánh Phaolô, với những từ ngữ minh xác nhất, vẫn nói đến sự “vâng phục của Chúa Kitô” trong công cuộc cứu chuộc thế gian nhờ chết trên thập giá (Rm 5, 19; Pl 2,8; Dt 5,8).
“Và có quyền lấy lại”: Quyền Phục sinh là quyền hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, và vì thế đồng nhất trong Ba Ngôi. Bởi vậy Luca (Cv 2,24; 3,15; 4,10 v.v…) và Phaolô (2Cr 4,14…) gán nó cho Chúa Cha và cho cả Thánh Thần; còn Gioan ở đây lại gán cho Chúa Con.
KẾT LUẬN
Chỉ có vài trang Tin Mừng thôi mà Gioan cũng diễn tả một cách không kém mạnh dạn và đơn sơ cái hồng ân được có Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, như là sự mặc khải về nguồn tình yêu, sự sung mãn của ơn cứu rỗi và cả trung tâm xuất phát ánh sáng cùng sự sống. Nơi con người của Chúa Giêsu, chủ đề Thánh Kinh cổ xưa về Thiên Chúa Mục tử xuất hiện cách trẻ trung kỳ lạ và được hoàn tất ngoài sức hy vọng của loài người.
Ý HUỚNG BÀI GIẢNG
1) Nền văn minh chúng ta không còn biết đến những đàn chiên nữa. Chỉ biết đến một loại đàn khác là đàn xe, đàn người vô danh đông đảo trong các thành phố lớn. Ngày nay, để nói với chúng ta, chắc rằng Chúa Giêsu cũng sẽ lấy những hình ảnh rút ra từ cuộc sống thành thị hiện đại, nhưng giáo huấn Người vẫn như xưa. Và điều Người dạy chúng ta, là Người vẫn luôn hiện diện giữa thế giới chúng ta hôm nay, cũng trà trộn vào thế giới chúng ta như xưa mục tử trà trộn với đoàn chiên mình. Một trong những đặc điểm của mục tử là tham dự vào cuộc sống của đàn chiên, hợp làm một với chúng. Ông không ở ngoài, nhưng đứng đầu đàn chiên qua sự so sánh này, Chúa Giêsu muốn dạy rằng Người hiện diện trong nhân loại và đứng đầu nhân loại. Không một ai trong thời đại nào thoát ra khỏi sự chăm sóc của Đấng muốn dẫn dắt mọi người đến nơi gặp được hạnh phúc đích thực cả. Chỉ cần một dữ kiện, là con người phải chấp nhận, nhất là nhờ đức tin, trở thành phần của “đàn chiên” mà Chúa Kitô là mục tử tốt.
2) “Ta biết chiên Ta… như Cha biết Ta”. Chúng ta đi vào một vùng của tâm hồn, nơi có nhu cầu sâu xa nhất của con người đấy. Thật vậy, con người đau khổ vì cái gì nhất? Thưa vì cảm thấy cô đơn. Không một cảm tình, một trực giác, một chú ý nào có thể tiến vào chốn thâm tâm của hữu thể chúng ta cả. Có một trung tâm của ý thức chúng ta mà không ai (ngay cả chúng ta) có khả nang vào được; và chính ở trung tâm ấy, chúng ta cảm thấy cô đơn. Các khoa học nhân văn, nhất là tâm lý học, cố gắng làm cho nổi lên trình diện tri thức khoa học những cấu tạo bí ẩn của vô thức. Dầu chúng ta thành công hay không, thì luôn luôn vẫn còn có một trung tâm bất khả giản lược, nơi con người cảm thấy cô đơn đối với chính mình, với các vấn đề và định mệnh của mình. Con người đau khổ vì không được ai biết rõ mình. Thế mà đây Chúa Giêsu lại nói Người biết rõ con người như Chúa Cha biết Chúa Con. “Như Cha biết Ta”, điều này muốn bảo Chúa Giêsu biết con người với một tri thức trực tiếp đi đến tận đáy sâu của họ. Và tri thức này đầy tình yêu mến. Như thế Chúa Giêsu làm cho con người không còn cô đơn. Đấng đã biết rõ con người thì không kết án nó, nhưng ngược lại sẽ thương yêu nó với một tình yêu hoàn toàn và có tính cách cứu chuộc.
3) Chúng ta có nhạy cảm trước noi cô đơn của người anh em ở chung quanh ta không họ sẽ cảm thấy phần nào được chúng ta biết đến, và do đó phần nào được thoát khỏi nỗi cô đơn của họ nếu chúng ta cố gắng biết họ như Chúa Giêsu đã biết họ. Nghĩa là neu chúng ta đặt mình trong cái nhìn đầy yêu mến của Chúa Giêsu đối với họ.
4) Dù là gì đi nữa: linh mục, giáo chức, cha mẹ hay chỉ là anh em của những người anh em, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những kẻ chung quanh, và do đó là mục tử trong mức độ trách nhiệm của chúng ta. Và vì là mục tử, chúng ta phải yêu thương anh em chúng ta đến độ sẵn sàng hiến mạng sống mình cho họ theo gương Chúa Giêsu.
5) Hy tế Thánh lễ, việc tái diễn theo nghi thức hy tế thập giá, dẫn đưa chúng ta một cách hiện thực vào mầu nhiệm chết vì đàn chiên của Mục tử tốt. Việc gặp gỡ có tính cách cộng đồng và cá nhân giữa chúng ta với Người phải tăng thêm sự thân tình với Mục tử của chúng ta và dần dần biến đổi chúng ta thành những mục tử tốt, hoàn toàn hiến thân cho anh em Có như vậy, chúng ta mới tìm được hạnh phúc đích thực, hoàn toàn.
74. Mục tử và đàn chiên – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Ca dao Việt nam có những ca từ thật giản gị và gần gũi, để diễn tả mối quan hệ hai chiều giữa những thành viên trong xã hội với nhau như:
“Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai”
Hai mà một, một mà hai, thật như thế, tình yêu thương giữa các ngôi vị với nhau: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái…Cha ông ta cũng thường nói:”Bán bà con xa, mua láng giềng gần”.
Hình ảnh kinh thánh quen dùng để diễn tả cho chúng ta thấy, một tương quan sâu đậm, khắng khít, một sống một còn, giữa Thiên Chúa và con người, giữa các vị chủ chăn và các Tín hữu là “Mục tử” và “Chiên”. Những kiểu nói này không xa lạ gì đối với những anh chị em sống ở vùng Trung đông, ở đất nươc Do thái. Người mục tử tận tụy, hy sinh từng bữa ăn giấc ngủ để lo cho đàn chiên, còn chiên thì lắng nghe tiếng vị mục tử của mình. Đức Giêsu khẳng định rằng: “Tôi biết các chiên tôi, và các chiên tôi biết tôi” (Ga 10, 14 ). Không biết có một vị Quân vương nào trên trần gian này, dám khẳng định mình biết hết thần dân của mình không? Thiên Chúa biết con người từ khi chưa thành hình trong dạ Mẫu thân:” Trước khi Ta nắn ra ngươi trong lòng Mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, ta đã tác thánh ngươi” (Gr 1,5). Mục tử Giêsu chẳng những biết mà còn biết rõ từng con người: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến thầy”( Ga 21,17). Còn thánh Phaolô, thì xác tín một cách mạnh mẽ, về cái “biết” của chúa Giêsu: biết con khi ngồi, khi đứng, khi nghĩ suy. Mục tử là như vậy, phải biết rõ từng con chiên của mình, phải đi tìm những con chiên lạc, băng bó cho những con chiên bị bệnh họan. Nếu mục tử cần thiết cho đàn chiên như vậy thì ngược lại chiên cũng cần biết bao cho các vị mục tử. Không có Mục tử nào mà chăn không có chiên, vì như thế chẳng khác nào người nghệ sỹ chơi đàn mà khong có dây, chẳng mang lại ích lợi gì cho những khán thính giả. Có chiên mới cần mục tử, mục tử sống cần “sữa”, cần “thịt” từ những con chiên, có thể nói mối hổ tương như là “Ôxy” để thở, như là ” cá với nước”. Chiên cua tôi thì biết tôi (Ga 10,14), lời khẳng định này càng làm gia tăng tình yêu thương thắm thiết trong quan hệ song phương giữa các vị chủ chăn và những anh chị em giáo dân trong các họ đạo. Lối so sánh cụ thể ở các cụm từ “Mục tử” và “Chiên” không hề hạ thấp hay đề cao tương quan quý giá của những vị mục tử lãnh đạo trong các cộng đoàn với những anh chị em giáo dân, những cộng sự viên đắc lực đang phục vụ cho vị Mục tử tối cao và nhân từ là Đức Giêsu Kitô. Trái lại nó còn làm tăng thêm giá trị hiến tế của mỗi người được trở nên của lễ tinh tuyền và thánh thiện, đẹp lòng thiên Chúa.
“UT SINT UNUM”, Chúa Giêsu vẫn thường cầu nguyện cho sự hiệp nhất nên một, trong các cộng đòan Kitô hữu. Thánh lễ hằng ngày vẫn nhắc nhở sự hiệp nhất giữa đòan chiên và vị chủ chăn. Vẫn phải trau dồi và cố gắng để mỗi ngày trỏ nên những mục tử giàu lòng nhân ái, giàu nghĩa tín trung cho đòan chiên của Chúa hưởng nhờ.
75. Chú giải của William Barclay.
NGƯỜI CHĂN CHIÊN ĐÍCH THỰC VÀ NGƯỜI CHĂN THUÊ (Ga 10,11-15)
Đoạn này đưa ra những nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung tín và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên. Nếu có chuyện gì xảy ra cho chiên, người ấy phải có bằng chứng để chứng minh mình không có lỗi. Amos có nói đến việc người chăn chiên gỡ được hai giò hay một tai của chiên ra khỏi hàm sư tử (3,12). Luật quy định: “Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người chăn phải có bằng chứng” (Xh 22,13). Ở đây muốn nói là kẻ chăn phải đem về một dấu chứng nào đó để chứng minh chiên ấy đã chết, và người ấy đã không thể ngăn chặn được cái chết ấy. Đavít kể cho Saul nghe ông chăn chiên cho cha mình, đã đánh đuổi được sư tử và gấu (1Sm 17,34-36). Isaia đề cập đến việc kẻ chăn chien được gọi ra để bảo vệ đoàn chiên là điều rất tự nhiên. Lắm khi họ phải làm nhiều hơn thế nữa để cứu chiên, đó là phải liều bỏ mạng sống mình vì chiên. Trong quyển Xứ Thánh và Kinh Thánh, Thompson viết: “Tôi thích thu nghe họ thuật lại một cách sinh động về những trân đánh nhau quyết liệt và tuyệt vọng với đám thú dữ đó. Rồi khi bọn trộm đến, người chăn trung tín thường phải liều mạng để bảo vệ đoàn chiên. Tôi được biết có nhiều trường hợp người chăn thật sự hy sinh mạng sống mình trong cuộc chiến đấu. Mùa xuân vừa rồi, ở khoảng giữa Tibêriat và Tabo, tội nghiệp một người chăn trung tín, thay vì bỏ chạy, đã ở lại chiến đấu với ba tên cướp du muc, cho đến khi anh bị băm vằm ra từng mảnh, nằm chết giữa bầy chiên mà anh bảo vệ”. Người chăn thật chẳng bao giờ ngần ngại liều mạng, ngay cả khi phải hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên.
Nhưng mặt khác, cũng có kẻ chăn thuê, bất trung. Chỗ khác nhau là: Người chăn thật là kẻ vốn được sinh ra để làm công việc này. Anh được sai đến với bầy chiên lúc vừa đủ tuổi có thể chăn chiên được, anh lớn lên trong tiếng gọi trở thành người chăn chiên, và chiên trở thành bạn chung sống với anh, anh lo nghĩ cho chiên trước khi lo nghĩ cho mình. Nhưng kẻ chăn thuê nhận việc không do tiếng gọi, mà vì muốn kiếm tiền. Anh hành nghề chỉ bởi đồng lương. Cũng có thể anh ta phai ra đồng lên núi chăn chiên chỉ vì thành phố quá chật chội, nóng bức. Anh ta không hề có một ý thức cao, một tinh thần trách nhiệm đối với công tác, anh chỉ là một kẻ làm thuê ăn lương.
Chó sói là mối đe dọa cho chiên. Chúa Giêsu đã bảo với các môn đệ là Ngài sai họ đi như chiên vào giữa bầy sói (Mt 10,16). Phaolô cảnh báo các kỳ mục tại Êphêxô là sói dữ sẽ tấn công, không dung tha đoàn chiên (Cv 10,19). Nếu những con sói này đến tấn công, thì những kẻ chăn thuê sẽ chẳng còn nhớ gì ngoài mạng sống của họ và tìm cách bỏ chạy. Dacaria nhấn mạnh điều đó như đặc tính của kẻ chăn thuê, và bảo rằng hắn chẳng làm gì cả để tập hợp những con chiên bị tản lạc lại (Dcr 11,16). Thân sinh của Carlyly có lần đã đưa hình ảnh đó ra trong một bài phát biểu của ông. Thời ấy, tại Ecclefechan, họ gặp rắc rối và nói với giọng cay đắng: “hãy trả tiền công cho người chăn thuê, va để ông ta đi đi”.
Điều Chúa Giêsu muốn nói là người làm việc chỉ mong được khen thưởng sẽ nghĩ đến tiền trên hết, còn người làm việc vì yêu thương thì nghĩ ngay đến những người mà mình muốn phục vụ hơn bất cứ điều gì khác. Chúa Giêsu là người chăn chiên nhân hậu, yêu mến chiên đến độ liều mạng sống vì chiên, đến một ngày, Ngài hy sinh mạng sống Ngài cho đoàn chiên.
Trước khi kết thúc phần này, chúng ta có thể ghi nhận thêm hai điểm. Thư nhất, Chúa Giêsu tự mô tả Ngài là người chăn chiên nhân hậu. Trong tiếng Hy Lạp có hai từ “tốt”. Chữ agathos mô tả phẩm chất đạo đức của một vật nào đó; và chữ kalos cũng nói đến các phẩm chất tốt, nhưng còn có y là trong cái tốt đó có một cái gì thu hút, hấp dẫn, khiến người hoặc vật ấy đáng yêu mến, đáng ưa chuộng. Khi Chúa Giêsu được mô tả là người chăn chiên nhân hậu (có bản Việt ngữ dịch là hiền lành), thì từ được dùng là kalos. Trong Chúa Giêsu có một cái gì vượt hẳn con người tháo vát thành công, con người trung tín tận tụy, trong Ngài còn có vẻ đáng yêu, đáng mến nữa. Thỉnh thoảng người ta đề cập đến một lương y, gọi thế, chẳng những người ta ngụ ý đó là vị bác sĩ tài ba, mà còn nghĩ đến thái độ ưu ái, dịu hiền, tận tụy gắn liền với con người ông, khiến ông được lòng mọi người. Trong bức tranh về Chúa Giêsu ở đây với tư cách Người chăn chiên nhan hậu, Ngài chẳng những đầy sức lực, quyền năng, mà còn hiền lành và đáng yêu, đáng kính nữa.
Điểm thứ hai, trong dụ ngôn này, đoàn chiên chỉ về Hội Thánh của Chúa Giêsu. Đoàn chiên dễ gặp hai điều nguy hiểm. Nó dễ bị muông sói và bọn trộm cướp tấn công từ bên ngoài, và có thể bị kẻ chăn thuê làm hại từ bên trong. Thật là thảm họa cho đoàn chiên khi gặp kẻ lãnh đạo xấu, những kẻ chăn xem công việc của họ như một thứ nghề chứ không là cơ hội để phục vụ. Cái thứ nguy thứ hai này tệ hại hơn nhiều. Vì nếu có được một người chăn tốt, trung thành, sẽ có một công cuộc phòng thủ vững chắc đối lại những tấn công từ bên ngoài. Nhưng nếu là kẻ chan bất trung, chăn thuê, thì những kẻ thù bên ngoài rất dễ xâm nhập và phá hoại đoàn chiên. Điều quan trọng nhất trong Hội Thánh là cấp lãnh đạo phải noi theo gương Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành.
SỰ HIỆP NHẤT TỐI HẬU (Ga 10,16)
Một trong những điều khó hủy nhất trên đời là hủy bỏ đặc quyền. Khi một dân tộc hoặc một nhóm người đinh ninh họ được đặc quyền, khác với những người chung quanh, thật khó cho họ để chấp nhận những đặc quyền mà họ tưởng chỉ thuộc riêng về họ, thật ra cũng mở rộng cho mọi người. Đó là điều mà Do Thái chẳng bao giờ chịu học biết. Họ tin mình là dân ưu tuyển của Chúa, chẳng bao giờ Chúa dùng một dân tộc hoặc một quốc gia nào khác. Họ tin các dân tộc khác may lắm thì được dùng làm nô lệ cho họ, còn tệ hơn, thì bị bác bỏ hoặc xóa sạch khỏi mặt đất. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu bảo có một ngày, mọi người sẽ nhận biết Chúa Giêsu là mục tử của họ.
Cựu Ước cũng hé mở cho thấy ngày đó. Ngôn sứ Isaia được thấy trước điều đó. Ông tin rằng Chúa dùng dân Israel làm ánh sáng cho các dân ngoại (Is 42,6; 49,6; 56,8). Lúc nào cũng có những tiếng nói nhấn mạnh, Chúa khong phải là sản nghiệp riêng của dân Israel, nhưng Israel được lập nên để bày tỏ cho mọi người biết Chúa.
Thoạt nhìn dường như trong Tân Ước có hai tiếng nói khác hẳn nhau về vấn đề này. Một vài đoạn của Tân Ước khiến chúng ta hơi bối rối và thắc mắc. Chẳng hạn Matthêu kể chuyện lúc Chúa Giêsu sai các môn đệ, Ngài dặn họ rằng: “Đừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Samari, song hãy đi đến cùng những con chiên lac của nhà Israel” (Mt 10,5.6). Khi người đàn bà Syrô Phênixi khẩn cầu Chúa Giêsu cứu giúp, thoạt tiên Ngài nói Ngài chỉ được sai đến cho những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi (Mt 15,24). Nhưng cũng có nhiều việc khác, chính Chúa Giêsu đã ở lại và dạy dỗ tại Samari (Ga 4,40). Ngài tuyên bố, dù là con cháu của Abraham cũng không được bảo đảm là sẽ vào thiên đàng (Ga 8,39). Ngài bảo với một đội trưởng người Rôma rằng Ngài chưa từng thấy người nào trong Israel có đức tin như vậy (Mt 8,10). Chỉ có một người phong cùi là dân Samari quay lại cám ơn Chúa mà thôi (Lc 17,19). Chính một du khách Samari đã tỏ lòng nhân từ thương xót mà mọi người phải noi theo (Lc 10,27). Nhiều người sẽ từ Đông, Tây, Nam, Bắc đến ngồi vào bàn tiệc trong Nước Trời (Mt 8,11; Lc 13,28). Chúa Giêsu không chỉ là ánh sáng cho dân Do Thái, nhưng còn là ánh sáng cho cả thế giới (Ga 8,12).
Tại sao lại có sự khác nhau như vậy? Phải hiểu thế nào về những câu nói dường như giới hạn sứ mệnh của Chúa Giêsu chỉ cho người Do Thái mà thôi? Thật ra lời giải thích rất đơn giản. Mục tiêu tối hậu của Chúa Giêsu là cả thế gian. Nhưng bất cư một nhà chỉ huy giỏi nào lúc đầu cũng phải biết giới hạn các mục tiêu. Nếu cùng một lúc, tấn công khắp mọi nơi trên một mặt trận quá rộng, chỉ làm phân tán lực lượng, suy giảm sức mạnh mà chẳng đạt được thành công. Muốn thắng lợi hoàn toàn, người chỉ huy phải tập trung lực lượng vào một số mục tiêu giới hạn và chọn lọc nào đó. Đây là việc Chúa Giêsu đã làm. Khi chính Ngài đích thân đi hay phái các môn đệ đi, Ngài cố ý chọn lưa một mục tiêu giới hạn. Nếu Ngài cứ đi đây, đi đó bất luận chỗ nào, nếu Ngài cứ sai các môn đệ đi mà không giới hạn phạm vi hoạt động của họ, chắc đã chẳng thành đạt được như thế. Trong lúc này, Ngài cố ý tập trung vào dân Do Thái, thế nhưng mục tiêu tối hậu là thâu góp cả thế gian vào tình thương của Ngài. Trong đoạn này có ba chân lý quan trọng.
1) Chỉ trong Chúa Giêsu thế gian mới hiệp nhất được. Egerton Young là nhà truyền giáo đầu tiên cho người Da Đỏ. Tại Saskatchwan, ông nói cho họ biết về tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Với người Da Đỏ, đó là một phát giác mới mẻ. Sau khi vị giáo sĩ giảng xong, người tù trưởng già hỏi: “Khi ông gọi Ngài la “Cha chúng tôi” phải không?. Ông Young trả lời; “Phải”. Cụ tù trưởng nói: “Quả thật đó là điều mới mẻ và thú vị đối với chúng tôi. Chúng tôi chẳng bao giờ dám nghĩ đến vị Thần linh vĩ đại ấy là “Cha chúng tôi”, vậy như vầy thật là vô cùng đẹp đẽ đối với chúng tôi”. Ngưng một chút, rồi cụ già tiếp tục nói với vẻ mặt bừng sáng: “Thưa, có phải ông bảo vị Thần vĩ đại là Cha của ông không?”. Vị giáo sĩ đáp: “Phải đấy, thưa Cụ”. Cụ tu trưởng tiếp: “Vậy có phải ông nói Ngài cũng là Cha của người Da Đỏ chúng tôi phải không?”. Vị giáo sĩ: “Đúng vậy”. Cụ tù trưởng như bừng lên trong vui mừng: “vậy thì ông với tôi là anh em”.
Loài người chỉ có thể hiệp nhật với nhau trong tư cách là con Chúa. Trên thế giới, có sự chia rẽ giữa dân tộc này với dân tộc khác. Trong một quốc gia, có sự chia rẽ giữa giai cấp này với giai cấp nọ, sẽ chẳng bao giờ có được một giai cấp duy nhất. Chỉ có Phúc Âm của Chúa Giêsu mới đưa con người về một Cha chung là Thiên Chúa, tại đó mọi hàng rào cách biệt, mọi kỳ thị giữa con người với nhau được xóa sạch.
2) Câu nói này của Chúa Giêsu cũng cho từng cá nhân, đo là giấc mơ mà mỗi cá nhân có thể góp phần giúp Chúa Giêsu thực hiện. Người ta không thể nghe đạo nếu không có người rao giảng. Những chiên khác không thể tập họp được nếu không có người đi thâu đem chúng về. Công tác truyền giáo trọng đại của Hội Thánh đã được đặt ra trước chúng ta. Chúng ta không nên chỉ nghĩ theo nghĩa “truyền giáo hải ngoại”. Nếu ngay tại đây, vào lúc này, nếu chúng ta biết một ai đó đang ở ngoài tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta có thể đi tìm người ấy đem về cho Ngài. Giấc mơ của Chúa Giêsu tùy thuộc vào chúng ta. Chính chúng ta là những người có thể giúp Ngài làm cho thế gian này trở thành một đoàn chiên duy nhất, mà Ngài la Người Chăn.
LỰA CHỌN CỦA TÌNH YÊU (Ga 10,17-18)
Có một ít đoạn trong Tân Ước rất ngắn, nhưng lại nói cho chúng ta rất nhiều về Chúa Giêsu.
1) Hai câu Kinh Thánh này cho chúng ta biết Chúa xem cả cuộc đời Ngài như một hành động vâng phục Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha đã giao cho Ngài một công việc phải làm, và Ngài sẵn sàng thực hiện công việc ấy đến cùng, cho dù phải chịu chết. Chúa Giêsu vốn có mối liên hệ độc nhất vô nhị với Chúa Cha. Chúng ta chỉ có thể mô tả mối liên hệ ấy bằng cách nói Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng mối liên hệ ấy không cho Ngài quyền làm bất cứ việc gì Ngài muốn. Mối liên hệ ấy tùy thuộc vào việc Ngài vâng phục ý muốn của Chúa Cha bằng mọi giá. Với Ngài cũng như với chúng ta, làm con là phải vâng lời.
2) Chúa Giêsu luôn luôn thấy thập giá và vinh quang đi đôi với nhau. Ngài không hề nghi ngờ về việc Ngài phải chết, và cũng không chút nghi ngờ việc Ngài sẽ sống lại. Chúa Giêsu tin như vậy vì Ngài hoàn toàn tin cậy Chúa Cha, Ngài chắc chắn Chúa Cha chẳng bao giờ bỏ Ngài. Cả cuộc sống con người đều dựa trên một thực tế là những gì đáng giá thì phải chịu kho, chịu khổ mới tạo được. Muốn được bất cứ cái gì cũng phải trả giá. Muốn thành học giả phải khổ công học hỏi, nghiên cứu. Muốn khéo tay, thành thạo trong nghề thủ công hay kỹ thuật phải chịu khó thực hành. Muốn nổi bật trong bất cứ môn thể thao nào cũng phải cố công luyện tập và chịu kỷ luật. Thế gian đầy dẫy những con người đánh mất mục tiêu của đời sống, chỉ vì không chịu trả giá. Chẳng ai chọn con đường khó đi mà không đạt được danh thơm tiếng tốt.
3) Các câu Kinh Thánh này cũng cho chúng ta biết cách chắc chắn sự chết của Chúa Giêsu hoàn toàn tự nguyện. Chúa Giêsu nhắc đi, nhắc lại điều này nhiều lần. Trong vườn Giệt-si-ma-ni, Ngài đã truyền cho người muốn bảo vệ Ngài hãy xỏ gươm vào bao, vì nếu muốn thì Ngài đã gọi các đạo binh Thiên thần trên trời xuống bảo vệ Ngài rồi (Mt 26,53). Trước mặt Philatô, Ngài tuyên bố hết sức rõ ràng, ông không thể kết án Ngai được, nhưng chính Ngài đã chấp nhận chịu chết (Ga 19,9-10). Chúa Giêsu không phải là nạn nhân của hoàn cảnh, Ngài không phải như một con chiên bị kéo đi làm sinh tế ngoài ý muốn và chẳng hiểu gì. Chúa Giêsu đã tự nguyen phó mạng sống mình.
Người ta kể trong Thế Chiến thứ nhất, có một người lính Pháp dũng cảm bị thương nặng, cánh tay anh bị giập nát đến độ phải cưa đi. Vị bác sĩ giải phẫu rất buồn vì anh sẽ phải chịu tàn tật, ông túc trực bên giường để khi anh tỉnh dậy, báo cho anh biết tin đó. Khi thanh niên mở mắt, bác sĩ nói: “Tôi rất buồn mà báo cho anh biết anh đã mất một cánh tay”. Cậu thanh niên trả lời: “Thưa Ngài, tôi có mất nó đâu, tôi đã hiến nó cho nước Pháp đấy ạ”.
Chúa Giêsu không bị trói buộc vào một hoàn cảnh mà Ngài bất lực, không thể thoát ra được. Ngoài quyền phép và trợ giúp của Thiên Chúa, Ngài có thể kêu gọi, Ngài có thể quay lại để tự cứu lấy mạng sống mình. Ngài không đánh mất đời sống, nhưng Ngài đã hiến dâng. Thập giá không bị áp đặt lên vai buộc Ngài phải vác, nhưng Ngài đã tự nguyện nhận lấy nó, vì chúng ta.Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam