Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1370594
CHÚA LÀ CHÚA TỂ SỰ SỐNG
CHÚA LÀ CHÚA TỂ SỰ SỐNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Kn 1,13-15 ; 2,23-24) : “Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn”.
– Đáp ca (Tv 29) : “Chúa đã cho hồn tôi ra khỏi âm phủ”.
– Tin Mừng (Mc 5,21-43) : Đức Giêsu trả lại sức sống cho một phụ nữ và cứu sống con gái ông Giairô.
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất sợ sự chết, chúng ta đau buồn khi một người thân phải chết, và chúng ta sợ hãi khi nghĩ đến ngày chúng ta chết. Tuy nhiên, đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để cho chúng ta được sống, và đàng sau cái chết thể xác là một cuộc sống vĩnh cửu.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa để củng cố niềm tin của chúng ta, đồng thời hãy sốt sắng cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống ở đời này như thế nào để sau đó được sống hạnh phúc muôn đời với Chúa.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta quá lo lắng cho cuộc sống thể xác mà không chăm lo cuộc sống linh hồn.
– Nhiều khi đức tin của chúng ta bị lung lay khi chứng kiến bệnh tật và cái chết của những người thân.
– Cúng ta sớm quên những người thân đã qua đời.
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (Kn 1,13-15 ; 2,23-24)
Sách Khôn ngoan được soạn khoảng thế kỷ thứ I trước công nguyên. Đây là một sưu tập những tư tưởng khôn ngoan của các bậc hiền triết của nhiều thế hệ.
Trích đoạn sách Khôn ngoan này chứa đựng chân lý nền tảng về sự sống và sự chết :
– Thiên Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh Ngài, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
– Nhưng sở dĩ có sự chết là vì tội lỗi.
2/. Đáp ca (Tv 29)
Tv này ca tụng Thiên Chúa như là chủ tể của sự sống. Những ai vì tội lỗi mà bị đẩy đến ngưỡng cửa sự chết nhưng biết kêu cầu Ngài thì sẽ được Ngài cứu sốnhg.
3/. Tin Mừng (Mc 5,21-43)
Trích đoạn này gồm hai phép lạ, và cả hai đều liên quan đến sự sống :
– Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống : máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục 12 năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Ngài trả lại sức sống cho bà.
– Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Cả hai trường hợp được cứu sống đều nhờ đức tin : đức tin của người phụ nữ loạn huyết và đức tin của ông Giairô.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta còn nghe một lời giáo huấn rất ý nghĩa của Đức Giêsu : Cái chết thể xác chỉ là một giấc ngủ.
4/. Bài đọc II (2 Cr 8,7.9.13-15)
Mục đích của Phaolô khi viết đoạn thư này cho tín hữu Côrintô là nhằm lạc quyên giúp cho giáo đoàn Giêrusalem đang bị nạn đói.
Phaolô đưa những lý do động viên họ quảng đại bố thí :
– Hãy noi gương quảng đại của Đức Giêsu : dù giàu sang, Ngài đã tự ý trở thành nghèo khó để làm cho loài người được giàu có.
– Tín hữu phải biết chia xẻ cho nhau để ai nấy đều có mức sống đồng đều với nhau : sự dư dả của người này bù đắp sự túng thiếu của người kia. Có như thế, “Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu”.
IV/. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đức tin nối lại nhịp cầu đã gãy
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào ? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và Ông Giakêu cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy :
. Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội : thật là khó xử.
– Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa !
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước :
. Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
. Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, Con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là 2 trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
. Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
. Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là đượhôi !”
Ông Giairô đã đi tìm Đức Giêsu khi con gái ông hấp hối. Khi mời được Ngài theo ông về nhà thì lòng ông tràn trề hy vọng, nhưng có lẽ cũng hồi hộp lo âu vì không biết về tới có còn kịp không. Đang lúc gấp như vậy thì kẹt chuyện người đàn bà loạn huyết khiến cuộc hành trình bị tạm dừng. Chắc ông Giairô sốt ruột thêm. Cuối cùng thì chuyện người đàn bà ấy cũng giải quyết xong và Đức Giêsu tiếp tục cùng ông về nhà. Hy vọng lại sáng lên. Đột nhiên, người nhà chạy đến báo tin : “Con gái ông chết rồi. Làm phiền Thầy chi nữa”. Tất cả hy vọng chợt tắt ! Thế là hết. Còn làm gì được nữa. Tiếp tục dẫn Đức Giêsu về nhà chỉ là làm phiền Ngài thêm thôi. Chắc lúc đó Ông Giairô định nói lời cám ơn Đức Giêsu để mau về nhà lo chuyện mai táng cho con gái.
Nhưng, đúng lúc đó, Đức Giêsu nói một câu rất là khích lệ : “Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi”. Nhờ câu này, Giairô tiếp tục đưa Đức Giêsu về nhà. Và sau đó là phép lạ. Sau nay nghĩ lại, Ông Giairô hẳn là rất vui mừng vì khi đó ông đã không tuyệt vọng.
Xin Chúa hãy thường xuyên nói vào tai con “Đừng sợ, Chỉ cần tin thôi”. Con rất cần nghe lời động viên đó, vì rất nhiều lần con thấy không còn làm gì hơn được nữa nên muốn buông xuôi bỏ cuộc.
3/. Hình thức lề luật
– Bài Tin mừng hôm nay thuật lại 2 việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật lệ khắc khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
– Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào Đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến ta ?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con hãy đi bình an”.
– Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là Trưởng Hội Đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là Trưởng Hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa : Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông : “Đừng sợ gì cả (nghĩa là : Ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý : Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp…
– Sau khi nghe giải thích 2 việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa ? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không ? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ : “Các ngươi tưởng là Ta đến để huỷ bỏ lề luật ư ? Không, Ta không phá bỏ mà ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật : cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tuỷ của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng : “Các ngươi chỉ là những cái mồ mã. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói : “Cái gì làm cho người ta ra ô uế ? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống chẳng hạn), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
– Như vậy, lập trường của Đức Giêsu rất rõ ràng : Điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo lo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lỗi của lề luật thì cũng như những cái mồ mã tô vôi bề ngoài thì đẹp nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
Bây giờ chúng ta đã hiểu ý Chúa rồi. Chúng ta sẽ sống làm sao ?
– Thứ nhất là việc dự lễ : Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghỉnh : người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự Thánh Lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không ? Giáo hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy : Nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu ? chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
– Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật : Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ gọi thì kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hột quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau v.v…
– Thứ ba là việc sống đạo giữa đời : Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có “hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì ? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những và chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói “Sống đạo giữa đời”. HĐGMVN còn nói rõ hơn : sống đạo là “Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc”. Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
10 điều luật Chúa và 6 điều luật Hội Thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v…. Nhưng tinh thần của chúng là “10 điều răn ấy tóm về 2 điều này thôi : mến Chúa và yêu người”. Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
4/. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói : Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi :
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này : “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói : “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
– Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga.2,7)
– Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc.6,35-43).
– Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu : “Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp sau”.
*
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha người mẹ. Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống ngoan nguỳ, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn gian nan khốn khó. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
5/. Chuyện minh họa
a/ Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng : “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ : “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.
b/ Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng quá cố. Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói : “Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs”. Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp : “Ông nhà thật đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp : “Nhưng ông chỉ cần nơi ấy 3 ngày thôi mà !”
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu có thể chữa mọi bệnh tật và làm cho kẻ chết sống lại nữa. Chúng ta hãy tin tưởng và cầu xin Người :
1/. Lạy Đức Giêsu / Chúa luôn ở với Hội thánh mọi ngày cho đến tận thế / Xin cho giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / luôn tin tưởng và duy trì sự hiệp thông với Chúa trong mọi nơi mọi lúc.
2/. Lạy Đức Giêsu, nhiều nhà cầm quyền trên thế giới không tin có Chúa, không tin quyền năng của Chúa, mà còn chế giễu công việc của Chúa / Xin giúp họ thoát khỏi lầm lạc và tìm ra sự thật về Chúa.
3/. Lạy Đức Giêsu, Chúa vẫn có mặt ở khắp nơi trên thế giới / nhưng còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa và chưa tin tưởng Chúa / xin Chúa tỏ quyền năng Chúa cho họ / để họ tìm đến với Chúa.
4/. Lạy Đức Giêsu, anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con đã được biết Chúa và biết quyền năng của Chúa / Xin giúp chúng con được đức tin mạnh mẽ hơn / để chúng con giới thiệu Chúa cho mọi người.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã sai Đức Kitô đến cứu thoát chúng con khỏi tội lỗi và chết đời đời, xin cho chúng con biết tin tưởng và chạy đến với Người, mỗi khi gặp bệnh tật và sự chết đe dọa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…
VI/. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Theo chủ đề của Lời Chúa hôm nay, trong Kinh lạy Cha sau đây, chúng ta hãy xin Thiên Chúa là Cha giúp chúng ta luôn vâng theo ý Ngài trong lúc mạnh khoẻ cũng như khi bệnh tật, lúc còn sống cũng như khi sắp chết.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ phải chết muôn đời…”
– Trước lúc rước lễ : Đức Giêsu đã phán “Ta là bánh hằng sống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho sốt sắng để rước lấy bánh hằng sống ấy. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
VII/. GIẢI TÁN
Anh em hãy ra đi, và bằng cách sống của mình mà loan báo cho mọi người biết rằng ngoài cuộc sống thể xác này còn có cuộc sống muôn đời đang chờ đợi chúng ta.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN -B
SỐNG ĐỨC TIN (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1) Ơn cứu rỗi được ban trong Chúa Giêsu Kitô.
Cả hai phép lạ đều cho thấy ơn cứu rỗi được ban cho con người. Giairô đến xin Chúa Giêsu cho con gái ông “được sống và được cứu”; bà băng huyết tìm cách sờ đến Chúa Giêsu vì tin chắc sẽ được cứu. Cả hai đã kinh nghiệm về sự bất lực của con người trong việc tìm lấy ơn cứu rỗi. Chính trong ý thức ấy đã vạch ra niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng duy nhất có thể cứu con người ra khỏi tình thế tuyệt vọng mà trong đó họ đã chìm đắm. Nhưng đức tin không phải là một sự hiển nhiên, vì Chúa Kitô bị che dấu giữa đám đông đang mỉa mai Người và đang chuẩn bị từ bỏ Người. Người là Đấng duy nhất có thể cứu, nhưng cũng chỉ những ai tin mới phân biệt được trong sự yếu đuối phàm nhân của Người sức mạnh của Thiên Chúa và như thế mới nhận được ơn cứu rỗi. Trong Giairô và người đàn bà bị băng huyết, Maccô trình bày cho ta hai tấm gương giống nhau về thái độ tự ý của kẻ tin và việc Chúa Giêsu trả lại họ. Bên kia các phép lạ của thể lý, thánh sử cho ta cảm nhận sự sống tràn đầy mà Cứu Chúa ban cho Kitô hữu từ khi Người được tôn vinh nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
2) Biến cố.
Nhưng nếu giáo huấn của hai trình thuật song song với nhau, thì độc giả ngày nay có thể thắc mắc: trường hợp sau phải chăng là một cuộc sống lại thực sự? Không thể chấp nhận rằng truyền thống Kitô giáo đã bày đặt toàn thể các phép lạ được gán cho Chúa Giêsu và óc khoa học vô tôn giáo chẳng triệt để từ chối sự có thể có nhiều hiệu quả phi thường do một vài mãnh lực huyền bí phát xuất từ những nhân vật ngoại hạng. Hiển nhiên óc khoa học đó không thể chấp nhận sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như của một kẻ nào khác. Còn Kitô hữu tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô và vào quyền lực hiện tại của Người đối với sự chết, quyền lực mà Người sẽ thi thố trên thân xác chúng ta trong ngày cánh chung. Nhưng có phải trình thuật chúng ta quá rõ rệt đến nỗi phải kết luận rằng đây đúng là cuộc phục sinh con gái Giairô không?
Khi lấy lại trình thuật của Maccô, và hơn cả Luca, Matthêô đã nhấn mạnh đến thực tại cái chết của đứa bé; thật vậy nơi ông, Giairô đã minh nhiên đến cầu xin cho con gái sống lại. Ta phải chấp nhận rằng truyền thống Maccô là xưa nhất và cũng là phù hợp với thực tế nhất: thật vậy, người ta không thấy tại sao truyền thống Matthêô là truyền thống tường thuật rõ ràng một cuộc phục sinh, lại có thể đã bị Maccô che dấu đến nỗi trong trình thuật của Mc, lời Chúa Giêsu tuyên bố “Đứa bé không chết, nó ngủ đấy thôi” có thể cho hiểu là theo ông, nó không chết thật. Như cha Lagrange đã viết Maccô “không làm yếu đi những điểm xem ra dẫn đến giả thuyết một sự hôn mê” (Evangile selon saint Marc, Paris, 1942, tr. 146).
Khi thốt lên câu ấy, Chúa Giêsu chưa thấy đứa trẻ và sự vô tri mà Người vừa biểu lộ trong trường hợp người đàn bà băng huyết khiến ta nghĩ rằng Người không biết trạng thái chính xác của đứa trẻ. Không thể giải thích câu “Nó không chết, chỉ ngủ đấy thôi” như là lời khám bệnh của một bác sĩ. Vì thế phải tránh xác định câu đó, dầu trong nghĩa hôn mê hay chết thật. Chúng ta không thể biết điều mà Chúa Giêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy và Maccô không cho phép ta trả lời câu hỏi nầy vì ông đã chẳng viết với một não trạng khoa học như não trạng chúng ta ngày nay. Đối với ông, sự khác biệt căn bản mà chúng ta đặt giữa cái chết và hôn mê không có vì trong não trạng tôn giáo của ông, cái chết và bệnh tật đều phát xuất từ ảnh hưởng của tội và của ma quỷ. Thành ra chúng ta không thể xác định lời tuyên bố của Chúa Giêsu, dù cho theo nghĩa chết thật hoặc hôn mê. Chúng ta sẽ không bao giờ biết điều Chúa Ciêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy, vì những lời của người được truyền lại cho ta trong một bối cảnh thuần túy tôn giáo muốn loan báo ơn cứu rỗi được ban cho người tin hơn là xác định bản chất đích thực của phép lạ được thực hiện. Vì dù đề cập đến một cuộc chữa lành hay một sự phục sinh thật, thì trình thuật Maccô cũng chỉ muốn thúc giục ta trả lời câu hỏi sau đây: hôm nay chúng ta có tin là Chúa Kitô phục sinh có thể loan ơn cứu rỗi và sự chiến thắng cái chết cho chúng ta không?
Jean Potin, Assemblécs du Setgneur 44, tr.38-47.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Qua bài Tin mừng, ta thấy được thế nào là sức mạnh của đức tin. Đức tin giúp thắng vượt những nghi ngờ: Giairô mà không cần những hiển nhiên, những lý luận nhân loại. Đức tin giúp thắng vượt những rụt rè nhút nhát: nhờ tin mà người đàn bà băng huyết chế ngự được nỗi sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác; bà đã tin rằng năng lực chữa bệnh và cho sống lại của Chúa Giêsu còn mạnh hơn sự truyền nhiễm cơn bệnh mà bà đau khổ đã 12 năm. Thật là một niềm tin mạnh mẽ, mạnh mẽ như niềm tin của người bất toạt dám dỡ mái nhà để moi cho được lòng tốt của Chúa (Mc 2,1-12) như niềm tin của người trộm lành, trong một lần hành nghề cuối cùng, đã ăn trộm Thiên đàng khi tin vào lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu. Đức tin có thể chuyển núi dời non lay động được quả tim Thiên Chúa.
2) Nên chú ý tới hai khía cạnh trong câu hỏi của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành bệnh mở đầu một cuộc đàm thoại. Thứ đến Người dạy: việc Người làm vượt xa hơn việc chữa lành thể xác: Người cứu được nếu người ta tin vào Người.
Bà ấy không lầm khi hy vọng rằng chỉ sờ vào gấu áo của Chúa Giêsu là sẽ được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một sức mạnh tác động nặc danh. Một thành phần bị quên lãng, bị khuất giữa đám đông đều là người mà Chúa Giêsu lưu ý đến. Tại đây chúng ta thấy Chúa nói với bệnh nhân: Đối với người, bà không phải là một con số giữa đám đông. Người đưa dịp cho bà trở lại, cho bà ý thức, cho bà đàm thoại. Người hành động như thế để cho bà hiểu: đối với Chúa, bà cũng có phẩm giá con người. Cuối cùng Người nói với bà: “Con ơi, đức tin đã cứu con”. Trong kiểu nói của thánh Maccô, chữ Cứu có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã đưa chúng ta từ cảnh trụy lạc, tội lỗi đến sự sống lại với Người. Lúc đó bà băng huyết chưa hiểu nổi lời Người. Chúng ta nhờ Tin mừng hiểu được điều ấy.
Đức tin của tôi vào Chúa Kitô có sống động đến nỗi thấm nhiễm vào các nỗi đau khổ của tôi và sự chết của tôi, một sức mạnh, một sự sống cao độ không? Tôi có cảm thấy vui mừng khi thiết rằng Chúa Giêsu lưu ý đến một cách riêng không?
3) Bài Tin mừng hôm nay còn cho thấy đức tin có nhiều cấp độ. Đầu tiên là đức tin sơ khai của ông Giairô lúc mới đến gặp Chúa Giêsu. Bất lực trước đau khổ, ông đi tìm Chúa Giêsu vì nghe rằng Người có một quyền năng thần thông nào đó thứ đến là đức tin tính toán, vụ lợi, hơi mê tín của người đàn bà lén đến bên Chúa Giêsu, mong ăn cắp được sức mạnh kỳ diệu từ nơi Người, nhưng rồi khi bị phát giác, đức tin của bà tiến lên cao hơn, trở thành một cuộc gặp gỡ, đối thoại, tương giao với Chúa Giêsu; và sau cùng là đức tin trọn vẹn của Giairô tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết.
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, hình như đức tin cũng vượt qua các cấp độ đó. Đầu tiên chúng ta đã tin vào Thiên Chúa vì thất vọng trước sức con người, vì tự bản năng cảm thấy phải bám víu, cầu khẩn một Đấng cao hơn. Rồi tới khi biết được quyền năng của Thiên Chúa, thấy bao kỳ công Ngài đã làm trong lịch sử, qua Thánh Kinh, ta lại có khuynh hướng lợi dụng Ngài, giữ đạo là chỉ mong được muôn ơn phúc hồn xác, bất mãn khi gặp thất bại hoạn nạn. Dần dần đức tin ta được thanh lọc, biến thành một cuộc gặp gỡ đối thoại với Thiên Chúa, gắn bó vào Ngài trải qua mọi thử thách. Nhưng rồi phải tiến lên cao hơn nữa, biến thành đức tin vào sự phục sinh, tin rằng dù bề ngoài có vẻ như tan vỡ, tận diệt, vẫn có một đời sống mới cả hồn lẫn xác chờ ta bên kia thế giới, bên kia cái chết, bên kia thời gian, tin rằng Thiên Chúa có quyền năng đổi mới mọi sự cho ta và cho mọi người.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XiII THƯỜNG NIÊN- B
CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộâm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín.
Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi.
Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- B
ĐƯNG SỢ, HÃY VỮNG TIN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Để đón nhận Nước Thiên Chúa và quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu, người rao giảng và ban tặng Nước Thiên Chúa, chúng ta cần có thái độ nào ? Chúa nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhận thức quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng thực thi nuớc Thiên Chúa qua việc người chữa lành cho con gái ông Giairô trưởng hội đường và người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Cả hai người này, dù hoàn cảnh có khác nhau, đều biểu lộ một đức tin mạnh mẽ phi thường. Ông trưởng hội đường có đức tin mạnh mẽ xứng đáng vì đã can đảm đến với Chúa Giêsu để cầu xin cho con gái của ông đang lâm bệnh nặng gần chết, còn người đàn bà thì bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm đã tin tưởng chạm vào áo của Chúa Giêsu. Thái độ đầy tin tưởng của ông Giairô diễn tả một đức tin mạnh mẽ, ông thẳng thắn đến trước Chúa Giêsu và phục lạy trình bày rõ tình trạng nguy kịch của con gái ông. Câu chuyện bị gián đoạn bởi người đàn bà bị bệnh loạn huyết tìm cách tiếp xúc với Chúa Giêsu một cách kín đáo. Bà không đến trực tiếp xin Chúa Giêsu nhưng tin rằng mình chỉ cần chạm vào áo người, thì sẽ được khỏi bệnh. Và quả nhiên, bà đã được khỏi bệnh ngay lập tức. Phúc âm nhấn mạnh đến thái độ của Chúa Giêsu đối với bà. Người không để bà này được chữa lành cách vô danh, không ai biết, nhưng quay lại hỏi các môn đệ : ai đã chạm đến áo Ta. Bấy giờ, người đàn bà được chữa lành run sợ tiến đến và thú nhận mình đã chạm đến áo người và đã được chữa lành. Chúa Giêsu đã nói với bà lời an ủi khích lệ : « đức tin của con đã chữa con, hãy đi bằng an”. Lời nói an ủi của Chúa Giêsu khích lệ bà. Bà đã được chữa lành vì đã có lòng tin mạnh mẽ và bà hãy tiến bước trong đức tin này. Bà không còn là người vô danh hay bị loại trừ, nhưng ngược lại bà được nhắc nhớ đến như gương mẫu của một người có lòng tin và vì thế xứng đáng được chữa lành. Câu chuyện trở lại với tình huống của việc chữa lành cho con gái ông Giairô. Trên đường đi đến nhà ông Giairô thì những người nhà của ông đến báo con gái ông đã chết và đừng phiền thầy làm chi nữa. Những lời nói này biểu lộ thái độ thiếu lòng tin, nên Chúa Giêsu nói riêng với ông Giairô: hãy cứ vững lòng tin, đừng sợ. Đồng thời Chúa Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ thân tín đi với người là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Khi đến nhà, Chúa Giêsu nhận thấy những người nhà của ông Giairô khóc lóc thảm thiết, nên người đã nói những lời trấn an mọi người : “sao lại khóc ồn ào như thế, đứa bé không chết đâu, nó chỉ ngủ thôi”. Nhưng người ta đã chế diễu người. Chúa Giêsu lại nhận thấy những thái độ thiếu lòng tin nơi những người chung quanh, và người chỉ cho phép những người thân là vợ chồng ông Giairô và ba môn đệ thân tín vào phòng riêng. Và tin mừng đã thuật lại những lời của chính Chúa Giêsu bằng tiếng aram : “Talitha koumi”, hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy. Lập tức em bé đã chỗi dậy. Chúa Giêsu có sức mạnh thần linh truyền khiến cho người đã chết được chỗi dậy.
Hai câu chuyện chữa lành đi liền sau dụ ngôn về Nước Thiên Chúa là cách làm sáng tỏ sức mạnh quyền năng Nước Thiên Chúa được biểu lộ bởi chính Chúa Giêsu. Sức mạnh này được ban tặng cách niềm nở cho những ai có lòng tin. Người đàn bà bị bệnh loạn huyết không còn là người vô danh hay bị khai trừ nhưng đã được chữa lành và khen ngợi như gương mẫu của người có lòng tin. Ông Giairô cũng thế, tỏa sáng trong Tin mừng với lòng tin vững vàng và chân thành. Câu chuyện Tin mừng cũng cho thấy khía cạnh Chúa Giêsu đã đón tiếp ông chân tình, người không câu nệ, không xa cách, người đã mau mắn và nhẫn nại, dù bị nghi ngờ hay coi thường bởi những người nhà của ông Giairô, để đến nhà ông, nói với ông và với những người ở nhà ông những lời nói đơn sơ chân thành đầy khích lệ : hãy vững tin, đừng sợ. Hai câu chuyện chữa lành của Tin mừng này làm sáng lên nhiều câu chuyện chữa lành khác nữa trong cuộc đời Chúa Giêsu và sứ mạng cứu thế của người. Chúa Giêsu luôn chứng tỏ một thái độ sẵn sàng để chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của con người và chứng tỏ sức mạnh chiến thắng tội lỗi, bệnh tật và sự chết của người, ngay cả từ nơi người tuôn chảy những sức mạnh chữa lành cho người đàn bà chỉ chạm vào áo người cách kín đáo, hoặc con gái ông Giairô dù em đã chết bằng một lời truyền đơn giản nhưng hiệu quả. Sức mạnh cứu thế của người là như thế: người đi đến mọi nơi để gặp gỡ những người có lòng tin, người như muốn vi phạm cả lề luật khi đón tiếp mọi người không câu nệ, và muốn để cho sức mạnh của người đụng chạm đến những ai đang bị bệnh tật và tội lỗi giam cầm để lôi kéo họ đến với nguồn sức mạnh chữa lành của người. Bài đọc sách Khôn ngoan làm cho chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm của tội và sự chết làm cho thân phận của con người trở nên bi đát. Sách Khôn ngoan khẳng định cho chúng ta rõ Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp, lành mạnh, tràn đầy sự sống và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng mọi sự để cho chúng hiện hữu ngay cả tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, tức là được tham dự vào sự sống và vinh quang của Thiên Chúa. Sách khôn ngoan cũng trả lời luôn câu hỏi về nguyên nhân của đau khổ và sự chết. Chính ma quỉ ác thần do bởi ghen tương mới tạo ra sự ác, và sự chết là hậu quả của tội khi con người sử dụng tự do của mình để chống lại thánh ý và lề luật của Thiên Chúa. Tội dẫn tới sự chết và con người đã phạm tội, bất tuân phục Thiên Chúa, nên con người phải nhận hậu quả của tội là sự chết. Mầu nhiệm của tội và sự chết cũng là mầu nhiệm khó hiểu đối với mỗi người. Thiên Chúa tôn trọng tự do của mỗi người đến độ dù con người có phạm tội chống lại ý muốn của Thiên Chúa để rồi nhận hậu quả là phải chết. Nhưng mặt khác, Thiên Chúa lại yêu thương và tha thứ cho con người ngay cả chấp nhận nhập thể làm người, gặp gỡ mỗi người chúng ta, và chịu chết cho mỗi người chúng ta để lôi kéo chúng ta ra khỏi tội và sự chết. Điều quan trọng là dù đã phạm tội và phải chết, chúng ta được mời gọi có thái độ tin tưởng vào người con Thiên Chúa là Chúa Giêsu và đón nhận lời của người, để cho lời của người chữa lành chúng ta từ bên trong và dẫn đưa chúng ta đến sự sống. Lời của người là lời ban tặng sự sống chân thật và lôi kéo chúng ta ra khỏi vực thẳm tội lỗi và sự chết.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- B
ĐỨC TIN LÀM NÊN PHÉP LẠ– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Sinh – lão – bệnh – tử là kiếp nhân sinh. Nếu một người sinh ra lớn lên theo tiến trình tự nhiên thì đều phải trải qua bốn giai đoạn này. Thế nhưng, con người qua mọi thời đại luôn thao thức tìm mọi phương cách để tránh khỏi bệnh tử, nhưng thực tế con người hoàn toàn bất lực, chỉ có một Đấng cứu độ duy nhất, là vị lương y đầy quyền năng mới đủ khả năng hóa giải những vấn nạn trên, mà Tin mừng hôm nay là một bằng chứng.
Người phụ nữ mang bệnh 12 năm, chị lo tìm thầy chạy thuốc tốn kém đến tan gia bại sản, nhưng tiền mất tật mang, vô phương cứu chữa. Như người sắp chết đuối nắm lấy được chiếc phao, là may mắn gặp được Chúa Giêsu, chị coi đây là vị lương y cao tay, chỗ đáng tin cậy.
Tuy nhiên, vì luật cấm những người mang chứng bệnh nhơ uế như chị không được tiếp cận với người khác (Lv 15, 25), nên chị không dám xuất đầu lộ diện công khai xin Chúa cứu chữa. Được thúc đẩy bởi lòng tin, chị nhủ thầm rằng: mình chỉ cần sờ chạm áo Ngài thôi thì sẽ hết bệnh. Thế rồi, chị lợi dụng đám đông sờ áo Chúa, tức thì bệnh nan y của chị được lành ngay.
Em bé 12 tuổi, mặc dù không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết, nhưng nhờ lòng tin mạnh mẽ của người cha, mà Chúa Giêsu cầm lấy tay em, đụng chạm đến em, làm cho em được hồi sinh.
Chúa Giêsu là Đấng quyền năng làm được mọi sự, chẳng những Ngài chữa cho thân xác lành bệnh nhưng còn chữa lành trong tâm hồn con người nữa. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Chúa Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị phụ nữ.
Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm ân phúc, chị trở thành người được Chúa Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết với Chúa Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và lòng thương xót của Chúa Giêsu.
Còn em bé, khi được phục hồi sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Chúa Giêsu. Hơi ấm đầu tiên mà em cảm nhận được từ bàn tay Chúa, đã làm em thấy bình an. Ánh mắt quan tâm của Chúa cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Chúa như một người cha phép tắc và lòng lành vô cùng.
Việc đầu tiên Chúa bảo mọi người là lo cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Chúa ban là trả lại sự sống cho em. Em đã được giải thoát khỏi bàn tay tử thần, nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương, đã khắc ghi vào tâm trí em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Chúa. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Chúa. Trọn đời em sẽ biết ơn Chúa. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
Người phụ nữ và em bé được Chúa Giêsu yêu thương, vì họ đã có những phẩm chất cao quí. Phẩm chất mà họ đã có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã tìm đến Chúa Giêsu. Hội đường Do thái vốn không ủng hộ Chúa, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Ngài.
Thế mà ông vẫn đến cầu cứu Chúa, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh mẽ biết bao. Chính Chúa Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám công khai nói cho Chúa biết bệnh tật của mình, nhưng do lòng tin tưởng vững mạnh đã sờ vào áo Chúa, nên Chúa khen ngợi đức tin của chị: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”. Đức tin vững mạnh như thế nên xứng đáng được Chúa thưởng công.
Anh chị em thân mến,
Hai phép lạ hôm nay xảy ra là do lòng tin đụng chạm vào Chúa. Ngày hôm nay, Chúa không còn hiện diện cách hữu hình để chúng ta sờ áo Ngài. Thế nhưng, chúng ta còn vinh dự hơn người phụ nữ năm xưa gấp bội, là bởi vì khi lên rước lễ, tay chúng ta đụng chạm đến Chúa cách trực tiếp, miệng chúng ta rước lấy Ngài. Chúa đi vào trong tâm hồn, chúng ta được nên một trong Chúa.
Nhưng thử hỏi thật với lòng mình, chúng ta có được ơn biến đổi gì không? Bệnh tật trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác có hết không? Hay tính nào vẫn tật đó? Tại sao vậy? Chắc chắn đó là do lòng tin của chúng ta còn kém. Bởi vì Chúa nói: “Đức tin con đã cứu chữa con cơ mà!”.
Lạy Chúa, hằng ngày chúng con được diễm phúc tận hưởng niềm vui tuyệt vời là được chạm vào Máu Thịt Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết luôn tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa. Có Chúa, là chúng con có tất cả. Amen.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-B
TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG THIÊN CHÚA- Lm. Đan Vinh HHTM
1/.TIN MỪNG : Mc 5, 21-43
(21) Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, (23) và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. (24) Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. (25) Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (27) Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, (28) vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.(29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu cảm thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. (31) Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. (32) Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. (34) Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (35) Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (36) Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. (37) Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông là ông Gio-an. (38) Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !”. (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
2/.Ý CHÍNH : Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ nữ bị bệnh băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu nên cũng được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài người khỏi hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu độ ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.
3/.CHÚ THÍCH :
-C 21-24 : + Bờ Biển Hồ : Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6, 1) hay Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5, 1). Đây là Biển Hồ có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ như: dẹp yên sóng gió (x. Mc 4, 35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5, 4-7), đi trên mặt biển (x. Ga 6, 16-21). Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các bệnh nhân (x. Mt 14, 14.35-36). Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14, 15-21; 15, 32-39).+ Viên trưởng hội đường: Là người phụ trách việc phụng tự trong hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức Giêsu thường đến các hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt 4, 23; Lc 4, 31-37.44). + Ông ta sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin: Thái độ sụp xuống dưới chân Đức Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của ông. + “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” : Đặt tay là khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa người đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân ám chỉ các phép bí tích do Đức Giêsu lập ra sau này để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
-C 25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm: Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người phụ nữ bị ra ô uế theo Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai để tránh cho họ khỏi trở nên ô uế (x. Lv 15, 25-27). + Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”: Chính nhờ tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua đám đông để tới gần Đức Giêsu và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm vào áo của Người.
-C 29-31: + Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh: Chạm đến áo Đức Giêsu cho thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm phát sinh đức tin trong tâm hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. + “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”: Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền năng phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.
-C 32-34 : + Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình : Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là chỉ mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giêsu phát hiện. + Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người : Đức tin của người đàn bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giêsu quan tâm sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm đến phủ phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” : Đức Giêsu cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy trông vào Người, chứ không phải cái áo Người mặc chữa lành bệnh cho bà.
-C 35-37 : + “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ? : Qua câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu có thể phục sinh kẻ chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia. + “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia khi nghe báo tin con gái ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức Giêsu đã khích lệ ông : “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”. Qua câu này, Đức Giêsu muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần Người đã nói : “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23). + Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an : Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố quan trọng (x. Mc 5, 37; 9, 2; 14, 33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng Đức Giêsu cũng cho ba môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế biết (x. Ga 19, 35). Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba người mới có giá trị (x. Đnl 19, 15; Mt 18,16).
-C 38-40 : + “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ?” : Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc mướn. Họ được tang gia nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng người chết. + Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy ! : Trong Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói : “Một số đã an nghỉ” (x. 1 Cr 15, 6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4, 13); “an giấc trong Đức Giêsu” (x. 1 Tx 4, 14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói : “La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11, 11). Ở đây, khi khẳng định cô bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp cho em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế nhạo Người, nhưng Người bắt họ ra ngoài : Sự kiện này cho thấy : Những người không tin và chế nhạo thì không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói : “Không nên lấy của thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước mặt con heo !”.+ Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm : Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những kẻ có thiện chí và đức tin nên được Người cho chứng kiến phép lạ để gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để nên dư dật !”.
-C 41-43 : + “Này bé, Thầy truyền cho con : Chỗi dậy đi !”: Cũng như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự xuất hiện (x. St 1, 3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là em bé kia lập tức sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người sống lẫn kẻ chết (x. Mt 28, 18). + Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy : Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này là để tránh sự bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái quốc cực đoan về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ba môn đệ này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
4/.CÂU HỎI : 1) Biển Hồ nói đây là biển gì ? Đức Giêsu đã làm các phép lạ nào trên Biển Hồ và trong khu vực này ? 2) Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu thường làm gì tại các hội đường Do thái ? 3) Lòng tin của ông trưởng hội đường vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay của Đức Giêsu nói lên điều gì ? 5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê cấm đụng chạm tới người khác ? 6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật cấm để đến gần chạm vào áo Đức Giêsu ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại hỏi đám đông : ”Ai đã sờ vào áo Tôi ?” 8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức Giêsu hỏi đám đông ? 9)Tại sao Đức Giêsu lại đòi người đàn bà phải công khai thú nhận mình đã được khỏi bệnh ? 10) Đức Giêsu nói câu nào để xác định chính Người chứ không phải áo Người đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà ? 11) Đức Giêsu đã nói gì với ông Gia-ia để khích lệ ông vững tin ? 12) Ba môn đệ nào được chứng kiến phép lạ Đức Giêsu phuc sinh cô bé ? Ba ông này còn được đi theo Chúa trong những trường hợp nào khác nữa ? 13) Trong Thánh Kinh có những câu nào diễn tả sự chết như một giấc ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giêsu không cho những kẻ cười nhạo Người ở lại ? Những ai đã được chứng kiến phép lạ Người làm ? 15) Đức Giêsu đã làm gì để phục sinh cô bé ? 16) Tại sao Đức Giêsu cấm Môn đệ nói ra phép lạ này ?
II/. SỐNG LỜI CHÚA
1/. LỜI CHÚA: Người nói với bà ta : “Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5, 34).
2/. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC TIN VÂNG PHỤC CỦA ÁP-RA-HAM:
Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp được Đức Chúa và được Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã nêu gương tin cậy vâng phục Đức Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được Chúa ban cho một đứa con trai đặt tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12 tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho ông đem đứa con trai duy nhất đi sát tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên núi cao và lập một bàn thờ để giết con làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo như phong tục của chư dân thời bấy giờ. Thấy rõ đức tin tuyệt đối của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến ngăn tay ông lại và thay vì dâng con trai, ông được Chúa cho thế bằng một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển (St 22,1-18).
2/. TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA.
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên đang đi bách bộ với Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên mặt cát ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại, chàng thanh niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai thầy trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là hai dấu chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải đi một mình như thế ?” Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu chân đó là của ai ?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của Chúa. Nhưng chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc Chúa đi một mình như thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con, trong những lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là lúc Thầy phải bồng ẵm con trên đôi tay của Thầy đó !”.
3) PHẢI THỰC LÒNG KHI CẦU XIN:
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng : “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ : “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không muốn chấp nhận những gì bà đã cầu nguyện.
4) ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI MẠNH TIN SẼ CỦNG CỐ CHO NGƯỜI YẾU TIN:
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước Hungary để trấn áp một cuộc bạo động, một viên sĩ quan trẻ hung hăng tìm đến nhà vị linh mục. Bước vào phòng, sau khi đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục:
– Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá, mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ ở đây chỉ có ông và tôi, Vậy ông hãy thú nhận là ông không hề tin vào ông Giê-su chết trên thập giá kia là Con Thiên Chúa.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời:
– Tôi thật sự vững tin như thế !
Viên sĩ quan liền rút súng ra và bảo:
– Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng định đó là sự dốt trá, tôi sẽ giết ông ngay!
Vị linh mục đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:
– Tôi không thể nói khác được. Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa!
Thật bất ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan liền buông tay ra để rơi khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị linh mục vừa khóc vừa nói :
– Xin lỗi cha, con chỉ muốn thử xem cha có tin thực sự không! Đúng thế, con cũng đã âm thầm tin Chúa nhiều năm qua giống như cha ! Giờ đây, con đã khám phá ra rằng: Vẫn có ít nhất một người đã dám chết vì đức tin của mình, chính cha đã củng cố đức tin yếu kém của con!
3/. THẢO LUẬN : Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin mạnh không ? Đó có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa không ? Tại sao ?
4/. SUY NIỆM :
1) Tầm quan trọng của Đức Tin để được ơn chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại hai phép lạ nói lên tầm quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa cứu độ:
– Phép lạ thứ nhất là người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su, nên cuối cùng bà đã được Người chữa cho lành bệnh loạn huyết.
– Phép lạ thứ hai là một bé gái mới chết đang nằm trên giường. Đức Giêsu đã được cha đứa bé là ông trưởng hội đường Gia-ia mời đến nhà để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng nhờ vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng hội đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến nhà. Cuối cùng nhờ vững tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su mà bé gái con ông đã được Người truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi!” (Mc 5, 41).
Trong cả hai phép lạ này, đức tin của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội đường Gia-ia là điều tối cần để nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
2) Đức tin của người phụ nữ bị loạn huyết: Loạn huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không những coi đó là bệnh nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi luân lý nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người khác. Vì bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới ai thì người ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay không dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho mình, vì bà sợ nếu để người khác biết bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được Chúa chữa cho khỏi bệnh. Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để làm chứng cho Người. Bấy giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi bệnh” (Mc 5, 30-34).
3) Đức tin của ông Gia-ia: Ông là trưởng của một hội đường Do thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su nên khi có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức Giêsu động viên: “Đừng sợ, cứ tin”. Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được trỗi dậy sau lời truyền phán của Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41). Chính nhờ ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su, mà đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.
4) Sống đức tin trong cuộc sống hôm nay:
– “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8, 25):
Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên của Chúa Giê-su. Mỗi khi gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với những vấn đề vượt quá sức tự nhiên của mình. Như các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ yên trong tâm hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8, 25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin yếu kém của chúng ta: “Sao nhát thế ? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin ?” (Mc 4, 40). Nhưng đồng thời Người sẽ cũng sẽ thương ra tay thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).
– “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5, 36):
Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà cầu xin Chúa không được như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin gì nữa. Khi gặp phải tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
– “Đừng theo ý con một xin vâng ý Cha” (Mt 26, 39):
Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý riêng mình, nhưng hãy cầu xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su: “Đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…”.
– Phải sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa:
Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng tác của con người. Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2, 7); Trong phép lạ về nhân bánh ra nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6, 35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9, 1-40); Trong cuộc sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả năng của chúng ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
– Tất cả đều là hồng ân: Sau khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì : “Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả những gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần rỗi đời đời của ta.
5/.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.
X). HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- B
SÓNG CHẾT TRONG TAY CHÚA- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Tin mừng Chúa nhật 12 đến Chúa nhật 13 như một cuốn phim sống động quay lại cảnh con thuyền các môn đệ gần chìm đắm trong bão biểm đêm tối, đến cảnh người dân ngoại sống dưới ách xiềng xích, cùm kẹp khốn khổ của quỷ dữ giữa mồ mả, đồi núi, hoang dại. Để cứu họ, Đức Giêsu đã dẹp tan bão tố, xua đuổi ác quỷ chui đầu xô đẩy đàn heo lối hai ngàn con xồng xộc chạy theo dốc núi chênh vênh nhào xuống biển chết ngộp.
Sau đó, Đức Giêsu đã lên thuyền trở về với đám đông dân chúng đầy thiện cảm đang chờ đón Ngài bên bờ biển Galilê. Mới lên bờ, ông trưởng hội đường đến sấp mình dưới chân Ngài, tha thiết kêu xin Ngài cứu chữa đứa con gái mười hai tuổi gần chết. Ngài chẳng nói một lời, chỉ vội vàng đi với ông và dân chúng chen nhau kéo theo Ngài. Họ đụng cả vào Ngài.
Tự nhiên, Ngài quay lại hỏi đám đông: “Ai đã sờ vào áo Ta?”. Môn đệ chỉ thấy đám đông chen nhau đụng vào Ngài, còn Ngài thấu suốt tâm tư mọi người. Người phụ nữ như thấy Ngài trực tiếp hỏi mình, sợ run lên, đến sấp mình trước mặt Ngài. Ngài đã ôn tồn nhắn nhủ: “Này con, lòng tin của con đã cứu con, hãy đi bằng an và lành hẳn tật nguyền của con”.
Quá sung sướng, người phụ nữ đã mạnh dạn khai báo hết nỗi lòng đau khổ vì bệnh băng huyết. Suốt 12 năm chạy đủ mọi thầy, mọi thuốc, sạch bách tiền của mà tật bệnh vẫn còn.
Đang lúc đó, người nhà ông hội trưởng nhắn tin con ông đã chết rồi! Như sét đánh ngang tai, ông sợ quá. Đức Giêsu đã trấn an ông: “Đừng sợ, hãy tin”. Ông tin dù mọi người khóc lóc, kêu ầm ĩ, có kẻ còn nhạo cười Ngài. Trước cái chết, loài người chỉ biết khóc than hay cười ra nước mắt vì quá bất lực, quá đau đớn và lặng lẽ cúi đầu!
Thánh Phêrô đã chứng kiến từ đầu đến cuối những phép lạ đó và khi đi rao giảng Tin mừng, ngài đã kể rành mạch mọi chi tiết, kể rõ cả tên ông trưởng hội đường là Giairô và đứa con gái 12 tuổi. Chắc chắn ông Giairô và con gái ông vẫn còn sống để làm chứng cho lời Phêrô giảng. Phêrô muốn cho mọi người thấy Chúa Giêsu là Chúa biển cả trời đất, Chúa thống trị quỷ thần và là Chúa nắm giữ sự sống chết của loài người.
Sự sống, sự chết của mỗi người chúng ta đều thuộc quyền Đức Giêsu, cho nên Phaolô đã quyết tâm thực hiện: “Đối với tôi, sống là chính Đức Kitô” (Phil. 1, 21). Lý do là: “Ngài đã chết thay cho tất cả mọi người, hầu kẻ sống không sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho họ” (2Cr. 5, 15).
Thánh Xiprianô đã mạnh mẽ trả lời tổng trấn Galêriô khi ông ra lệnh: “Các hoàng đế đã truyền cho ngươi phải tế thần”.
Xiprianô đáp: Tôi không tế.
Galêriô nói: Hãy suy nghĩ kỹ đi, hãy tuân lệnh đi.
Xiprianô đáp: Thần là quỷ ma giả dối, chỉ có Thiên Chúa là Đấng chân thật, sáng tạo vạn vật. Đó là chân lý, không cần suy nghĩ nữa.
Galêriô nói: Ngươi phải chịu án trảm quyết.
Xiprianô đáp: Xin ngợi khen Chúa.
Vì tin Chúa nắm sự sống chết, nên người sống cho Chúa, coi cái chết nhẹ như lông hồng, như một giấc ngủ. Chính Chúa Giêsu đã bảo cha đứa trẻ: “Con bé không chết, nó ngủ”. Sau này, khi nghe tin Lagiarô chết, Ngài cũng nói: “Lagiarô, người thân của Ta ngủ, Ta đi đánh thức ông dậy”.
Đối với kẻ không nắm được sự sống chết, thì chết là tận diệt, nên phải khóc than, gào thét. Đối với Chúa, sự chết thật là một giấc ngủ. Để được chết an lành như vậy thánh Vinh sơn Phaolô đã tập coi giấc ngủ mỗi đêm là việc lặp đi lặp lại của cái chết thực sự, và thức dậy là dấu của sự sống lại trong ánh sáng của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá đau đớn đến cùng cực, nhưng vì yêu thương cứu độ loài người chúng con, Chúa đã coi cái chết đó như một giấc ngủ thật nhẹ nhàng, bình an, trong sáng. Xin cho con biết hy sinh, tập chết đi những ích kỷ, kiêu căng vì mến Chúa yêu người để đến giờ chết con được an nghỉ êm ái trong Chúa muôn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-B
CHÌA KHÓA VẠN NĂNG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.
Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.
Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Ngài là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.
Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy:
Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết
Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.
Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15, 25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Ngài, tự nhủ lòng rằng: “Mình chỉ cần sờ được vào áo Ngài thôi là sẽ được cứu.” Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.
Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
Trường hợp ông trưởng hội đường
Ông trưởng hội đường đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông này chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.
Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.“ Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.
Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!
Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22).
Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.
Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa.
CHÚA NHẬTXIII THƯỜNG NIÊN– B
GẶP GỠ- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Nguời thì tôi sẽ được khỏi bệnh” (Mc 5, 28). Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khoẻ của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và nói: Talithakum …lập tức em bé đứng dậy và đi lại được” (Mc 5,41-42). Cái cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp. “ Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta?” (c. 31). Quả thật, trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hoá thành sự gặp gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên cũng không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn chẳng hạn như phần lớn các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định cái yếu tố khiến cho những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, đó là ý hướng, thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,34.36). Những lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường qua bài Tin Mừng hôm nay khiến ta liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng ta phải chân nhận rằng chính do bởi lòng tin của người ta mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ hay phục sinh kẻ chết… Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu dương uy quyền để củng cố đức tin người ta như phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Tuy nhiên xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ vẫn biểu gia nhân: “ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Niềm tin làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường. Niềm tin giúp ta vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống. Quả thật nếu không có lòng tin ở nhau thì ta thật khó mà tồn tại và phát triển. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì các con có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn dẫn chứng cho ta hay rằng những người không tin vào Chúa Giêsu có thể nói là các Thượng tế, luật sĩ và biệt phái. Dĩ nhiên không phải là tất cả nhưng hầu như đại đa số trong họ. Một trong những nguyên cớ khiến họ không tin vào Chúa Giêsu đó là lòng ganh tương đố kỵ. Bài đọc thứ nhất, sách Khôn ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ganh tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi, nỗ lực rèn luyện…để vươn lên cho hơn người thì kẻ ganh tị chỉ loay hoay tìm cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình. Dĩ nhiên, kẻ ganh tị sẽ không trừ một thủ đoạn nào. Đặc biệt khi kẻ ganh tị lại lợi thế hơn nhờ chức quyền, địa vị thì thủ đoạn sẽ tinh vi và nhiều khi đi đến chỗ bất nhân cách trắng trợn nếu không muốn gọi là vô liêm sỉ. Như lời tác giả sách Khôn ngoan thì đằng sau kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ và hậu quả là “sự chết” cho cả người bị ganh tị lẫn kẻ ganh tương đố kỵ.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công Đồng Vaticanô II luôn cổ võ con cái mình tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và với cả anh em vô thần. (x.MV 92; TG 12). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công Đồng dạy ta cần phải khiêm tốn lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của tha nhân. Để có được thái độ này tiên vàn ta phải có lòng tin vào tha nhân. Tin vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiên đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối thoại.
Chúa Giêsu đã làm guơng cho ta về thái độ này. Ngoại trừ một số người mà Chúa Giêsu đã biết rõ lòng dạ chai đá của họ, thì để khơi gợi lòng tin nơi những người mà Người gặp gỡ, Người thường đi bước trước bằng cách tin vào họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa Giêsu cũng như những bài diễn từ khá dài của Người thường xoay quanh chủ đề lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái thế mà Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng cũng đủ cho ta thấy Chúa luôn hy vọng, tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở ta. Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức có quyền thời bấy giờ vì Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa Hội Thánh và Chính Quyền các cấp, giữa ta và anh chị em lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo, điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, có sự đối thoại chứ không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực, thiết nghĩ cần phải có lòng tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu, họ thiếu lòng tin thường là do bởi lòng ganh tị. Họ ganh tị vì không muốn cái anh thợ mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Nếu như Chính Quyền không sợ Hội Thánh gây ảnh hưởng hay ngược lại, nếu như các tôn giáo không sợ nhau chiêu mộ tín đồ, nếu như bề trên không sợ bề dưới tài giỏi hơn mình và nếu… thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ hiện thực. Khi đã có lòng tin ở thiện ý và thiện chí của nhau thì sự gặp gỡ sẽ ở trong tầm tay chúng ta và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt chúng ta..
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- B
LÀM PHIỀN THẦY CHI NỮA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Hai phép lạ lồng vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường thuật nêu lên một vấn nạn mà từ lâu nay tôi vẫn lởn vởn trong đầu: tôi có thật sự tin vào Chúa không, và thế nào là một niềm tin đích thực vào Chúa?
Hai phép lạ Đức Giêsu thực hiện rõ ràng là do lòng tin của các nhân vật trong cuộc: Ông trưởng hội đường Gia-i-a và người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm chắc chắn đã tin vào sức mạnh chữa lành của Thầy Giêsu, khi họ đồng loạt khẩn khoản nài xin Người thi thố quyền phép, tuy với những cách thức rất khác nhau – một người ‘sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin’, trong khi người kia rón rén ‘đến phía sau Người để sờ vào áo của Người’. Trong cả hai trường hợp Đức Giêsu đều xác định: “Lòng tin của con đã cứu chữa con… Chỉ cần ông tin thôi”. Thế nhưng toàn bộ câu chuyện hình như lại cho thấy một điều gì khác thâm sâu hơn; Đức Giêsu đòi bất cứ niềm tin nào đặt nơi Người, cho dầu tự nó đã là rất vững chãi đi nữa, vẫn còn phải được kèm theo một yếu tố không thể thiếu, đó là phó thác cậy trông dứt khoát và không lay chuyển! Người đàn bà có tin nhưng còn không dám, còn rụt rè và run sợ… gia đình ông trưởng hội đường tin đấy, nhưng còn ngại ngùng ‘làm phiền Thầy chi nữa!’ Rõ ràng tín thác cậy trông đã thiếu trong cả hai trường hợp.
Đối với Đức Giêsu, tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà thôi là chưa đủ, nói cách khác, Người chờ đợi nơi Kitô hữu của Tân Ước một thái độ tin tưởng phó thác rất độc đáo, không hề tìm thấy nơi bất cứ một tôn giáo nào khác. Các Kitô hữu chúng ta đều biết, mục đích chính Đức Giêsu đến trần gian chắc chắn không nhằm biểu lộ quyền năng hùng mạnh của Thiên Chúa. Để làm được điều này Cựu Ước đã quá đủ; ‘Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh’ (Lc 1:51) qua không biết bao nhiêu là biến cố oai hùng, nhất là các can thiệp khủng khiếp trong biến cố Xuất Hành giải thoát dân riêng. Ngay cả khi Người thực hiện các phép lạ vĩ đại, Người vẫn cho thấy rằng biểu lộ quyền năng Thiên Chúa chỉ là điều rất thứ yếu. Mục tiêu chính của các phép lạ vẫn luôn là, như Người không ngừng khảng định rằng ‘Thiên Chúa yêu thương trần gian’. Chính vì thế mà, đối với người dàn bà rón rén ‘lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người’, cho dầu lòng tin của bà có mạnh thật đấy, ‘Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu’, nhưng Đức Giêsu vẫn muốn bà nhận ra: có một ‘năng lực tự nơi mình phát ra’ mà chưa ai từng nhận biết, đó là tình yêu xót thương của Thiên Chúa, một tình yêu phải mang đến cho bà tin tưởng và bình an, chứ không phải e dè sợ hãi. “Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Cũng vậy trường hợp ông trưởng hội đường (tương tự như cô Mát-ta trong chương 11 Phúc Âm Gio-an); chắc chắn ông đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, nhưng ông vẫn có phần ngại ngùng rằng yêu cầu của ông đi quá xa, “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền thầy chi nữa!” Ngại ngùng đó chứng tỏ ông không hiểu gì về lòng nhân lành thương xót của Đấng mà Đức Giêsu công bố là ‘Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho anh em sao?’ Người phải chấn an ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”, nhưng phải là niềm tin hoàn toàn phò thác và tin tưởng sâu xa nhất.
Tin không chút sợ hãi chắc chắn không phải là một niềm tin bình thường. Niềm tin đó không chỉ dựa vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, mà quan trọng hơn, phải đặt trên tin tưởng vô hạn đặt cơ sở trên chính sự nhân lành của Thiên Chúa tới độ tín thác không chút e dè. Sự tin tưởng của người lính vào tài bầy binh bố trận của vị tướng cầm quân tài giỏi có thể là rất vững chắc, nhưng không thể nào sánh được với sự phó thác của em bé trong vòng tay âu yếm của mẹ nó; một đàng là tin tưởng đặt nền móng trên nắm bắt được sức mạnh của quyền lực, đàng khác là phó thác dựa trên cảm nghiệm được yêu thương. Niềm tin Kitô hữu, kể từ thời các Tông Đồ, không còn đặt nền tảng trên biến cố oai hùng như Xuất Hành qua Biển Đỏ, nhưng là trên cử hành Hiến Tế thập giá. Vì thế niềm tin này, để trưởng thành và vững chãi, sẽ không cần cầu xin một dấu lạ (xem Mt 12:38), nhưng cần cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã ‘chết cho người mình yêu’. Nói cách khác, ánh sáng đức tin Kitô hữu không giãi sáng từ trí óc nhưng từ con tim (hãy ngắm nhìn bức ảnh ‘Lòng Thương Xót Chúa’). Và do đó câu tuyên xưng đức tin đúng đắn nhất của mọi Kitô hữu sẽ không còn là ‘tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng!’ (I believe in God almighty), nhưng phải là ‘Con tín thác nơi Chúa’ (Jesus, I trust in you), vì chỉ mình Người mới là Đấng không những quyền phép, nhưng trên hết là từ nhân.
Tôi thiết nghĩ cốt lõi của phong trào ‘Lòng Thương Xót’ hệ tại ở việc biến đổi thâm sâu trong đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Từ Nhân, như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng, con xin Chúa cho con được nếm cảm sự an bình thư thái ‘như bé thơ trong vòng tay mẹ hiền’. Xin cho con một đức tin không vương chút âu lo sợ hãi, bất chấp những yếu hèn vô tận của con người mỏng dòn. Xin cho con luôn biết chiêm ngắm Thập Giá như nguồn cậy trông phó thác duy nhất đời con, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- B
THIÊN CHÚA QUAN TÂM- Lm. Louis M. Nhiên CRM
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: “Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút.”
Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: “Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi.”
Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.
Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: “Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?”
Anh lính trả lời: “Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới.” (God is too busy, so He sent me).
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?
Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm:
Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.
Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: “Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?”
Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: “Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh.”
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: “Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta.”
Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?
Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?
Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam