Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1371721

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN

Chúa Nhật 2 Thường Niên

Có một người đạo đức sau bao nhiêu năm tu thân tích đức, giờ đây ông ta muốn tìm một tôn giáo để hướng dẫn đời sống tâm linh. Nhưng ông ta tìm mãi vẫn không được. Một hôm, ông nhìn thấy bóng Thánh Giá của một tháp nhà thờ từ xa xa, ông thắc mắc về biểu tượng và ý nghĩa của Thánh Giá. Một cụ già giải thích: Đó là biểu tượng của đạo công giáo, vì một người đã hy sinh chịu chết trên Thánh Giá, để cho tất cả mọi người được sống. Ông ta gật đầu trầm ngăm suy nghĩ và xin cụ già dẫn đến nhà thờ.

Trên đường đi ông ta rất vui mừng và hồi hộp như vừa khám phá ra một chân lý mới. Đi được một lúc cụ già mới nói cho ông biết là đã bước vào ranh giới của họ đạo. Ông ta hơi ngở ngàn, vì ông ta nhìn thấy những quán nhậu bên đường, đang có nhiều người trong đó: có nơi thì ồn ào to tiếng, có nơi thì nói những lời không được đẹp cho lắm, có nơi thì chẵng những to tiếng mà thôi, nhưng còn dùng cả đến tay chân để rồi rược đuỗi nhau làm náo động cả đường phố.

Đi một quảng nữa, ông ta nhìn thấy những sòng bài, có nhiều người tụ tập chung quanh.

Đi tiếp tục, ông nhìn thấy những đứa trẻ đang chơi. Nhưng cái đơn sơ hiền dịu đâu không thấy, mà chỉ nghe những lời cọc cằng thô lỗ chưởi bới nhau.

Ông ta bèn lắc đầu rút lui, không tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm nữa. Ông ta rút lui với một nỗi thất vọng; Thất vọng vì những điều ông nhìn thấy trước mắt. Nếu ông chịu đi thêm một chút nữa để đến nơi mà ông muốn đến, chắc là ông không đến nỗi thất vọng như thế. Như vậy việc ông thất vọng bỏ đi đó, trách nhiệm thuộc về ai ? - Thuộc về chính ông ta. Nhưng còn thuộc về cả những điều mà ông đã nhìn thấy.

Các môn đệ thật may mắn, các ông đã được một người dẫn dắt tuyệt vời là Gioan Tẩy Giả. Chẵng những chỉ bằng lời nói, nhưng đi đôi với cả đời sống và hành động. Khi các môn đệ đến với Chúa Giêsu, các ông còn được kêu mời: "Hãy đến mà xem". Ngài chẵng bảo gì hết, Ngài cũng chẵng đòi hỏi gì. Ngài chỉ nói: Hãy xem đi và quyết định cho cuộc đời của mình. Các ông đã nhìn xem cuộc đời của người giới thiệu, giờ đây các ông lại nhìn xem đời sống Đấng mà các ông được giới thiệu. Chính những điều các ông nhìn thấy đã thay đỗi cả cuộc đời các ông, và cũng đã làm cho cuộc đời các ông hoàn toàn mới.

Các ông đã nhìn thấy, nên các ông đã can đảm từ bỏ tất cả để bước theo Đấng mà mình đã thấy. Các ông cũng đã công bố, đã rao giảng, các ông còn dám dùng chính mạng sống minh chứng điều mình đã rao giảng, để cho bao nhiêu người nhìn thấy.

Ngày nay trên thế giới, được bao nhiêu người nhìn biết Thiên Chúa ? Chỉ khoản 1/3 dân số thế giới. Còn Việt Nam chúng ta ? - Không được 1/10.

Chúng ta là người công giáo, được biết Chúa rất lâu. Chúng ta đã được giới thiệu không phải chỉ bởi những con người tầm thường, nhưng chính Con Thiên Chúa tự giới thiệu Mình cho chúng ta. Con Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta nhìn xem chỗ Ngài ở mà thôi, nhưng Ngài còn cho chúng ta nhìn thấy bao nhiêu việc làm biểu lộ tình yêu thương của Ngài. Cái chết trên thập giá là tột đỉnh của tình yêu thương bao la đó. Vậy mà. . . Mỗi người thử nhìn lại mình xem. Những bước chân mà chúng ta bước theo Ngài như thế nào ? Có phải là những bước chân dứt khoát - Hay chỉ là những bước chân nữa vời, chờ có dịp là vội rút lại ngay. Cuộc đời chúng ta ngày hôm nay có gì là mới mẽ tốt đẹp hơn không ? Hay cũng vẫn còn là con người cũ và vẫn bước đi trên con đường cũ của bao nhiêu n#m xưa: Con đường của sự ương lười và chỉ biết hưởng thụ cách ích kỷ. Bao nhiêu người chung quanh, họ nhìn thấy được gì, chúng ta có dám mời gọi họ hãy đến mà xem cách sống của mình không? Chúng ta mời gọi người khác đến với Chúa, không chỉ bằng lời nói suông, nhưng phải bằng chính đời sống tốt đẹp và gương mẫu của một người biết yêu thương, với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Mọi người nhìn vào gia đình chúng ta, làm sao để họ có thể nhìn thấy được Chúa Kitô đang hiện diện thật sự. Đó là cách chúng ta mời gọi, rao giảng, minh chứng cho mọi người để họ đến với Thiên Chúa. Đó cũng là cách chúng ta bước theo Lời mời gọi của Chúa thật sự.

Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm bước theo Chúa và sống đúng với những gì mình đã biết.

 

 

52. Chú giải của Noel Quesson

Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt" trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.

Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường" hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.

Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.

Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông".

Đây là biểu tượng cho "nếp sống thường ngày", bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm... cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?

Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như "không có cái gì xảy ra", thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.

Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.

Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một "Tuần lễ đầu tiên": chủ yếu là gây chú ý "buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.

Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.

Ga 1,35: Ngày thứ tư, "Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.

Ga 2,1: Ngày thứ bảy, "Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.

Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một "Tin Mừng": đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể "mạc khải" như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.

Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?

Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến "biến cố" sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.

Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là chiên Thiên Chúa”.

Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là "Chiên Thiên Chúa" sao!

Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước "chuyển tiếp" từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc "giải phóng" ít-ra-en. Ngoài ra, từ "con chiên" trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa" hoàn hảo như "một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than". Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một "con chiên Chúa", có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm "bảo vệ cả đoàn chiên". Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng "Đây Con chiên vô cùng hiền lành" không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại... Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!

Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.

"Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.

Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp... Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?

Thật là quá "liều” khi theo một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.

“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi..."

Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là "cái nhìn đầu tiên" của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt...

“Các anh tìm gì thế?”

Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. "Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?

Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một "khẳng định", nhưng là một "câu hỏi'. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ "cởi mở", không thể "khép kín" trong một hệ thống đóng khung, như các "tư tế và trợ tế" đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ "tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. "Lạy Chúa, Chúa là ai?", kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. "Không có Thiên Chúa! - Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia - Bạn có xác tín như thế không?". Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: "Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết "hồ nghi". Cũng vậy, cần phải biết "đặt câu hỏi", như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: "Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể "thấm ướt" được, thì làm sao có thể tiếp thu... ".

Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.

Họ đáp: 'Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem".

Tìm kiếm... bước theo... cư ngụ... đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: "Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?

“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.

Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.

Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của "người môn đệ": "kiếm tìm"(1,38), "đến xem" (1, 39 và 46), "quan sát" (l,39 và 41), "gặp thầy" (1,41 và 45), "bước theo” (l,37.38.40.43) "ở lại" (l,38.39).

Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc "bốn giờ chiều', (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ "tìm kiếm" của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.

“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô".

Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay "ơn gọi", thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.

Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?

“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha", "tức là Phêrô".

Trở nên môn đệ, nghĩa là "thay đổi" đời sống... đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một "con người mới". Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường.

Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã "tìm kiếm" Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ... Chinh Người khởi xướng trước nhờ "ân sủng" kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người... vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.

 

 

53. Điều quan trọng là lòng tin kiên vững - Vinh sơn Trần Xuân Bình, OP

Kính thưa cộng đoàn !

Bài đọc I kể lại câu chuyện Đức Chúa gọi Sa-mu-en và Sa-mu-en đã đáp lời: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Chính lời đáp trả này mà Đức Chúa đã ở với Sa-mu-en và “Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.”

Bài đọc II thánh Phao-lô tự vấn tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao ?” Và ngài khẳng định, “ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.”

Còn bài Tin mừng hôm nay, thuật lại biến cố Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của ông Gioan đến sống thâm tình với Người, qua đó các môn đệ của ông Gioan đã xác tín vào lời giới thiệu của thầy mình về Đấng Kitô, “đây là Chiên Thiên Chúa” vì thế họ đã tuyên nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a nghĩa là Đức Kitô Con Thiên Chúa.

Như vậy tất cả những ai sống thâm tình với Thiên Chúa đều được Chúa đoái thương cư ngụ trong tâm hồn và Thiên Chúa trở nên thân thiện và hằng quan tâm chăm sóc họ trong suốt cuộc đời.

Cũng vậy nhờ được đến sống thâm tình với Đức Giêsu tại nơi ở của Người mà các môn đệ đã trải nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đối với họ qua con của Người là Đức Giêsu Kitô, đó là điều có lẽ suốt cuộc đời, họ luôn khắc ghi trong tâm hồn và thiết nghĩ đó cũng là niềm xác tín rất riêng tư nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi tín hữu về một Đức Kitô đã được trao ban cho con người và vì con người. Đó là Mầu nhiệm hiện diện của Con Thiên Chúa nơi thế gian, đặc biệt nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi con người.

Để có được trải nghiệm này không phải là chuyện dễ, thật thế làm sao chúng ta cảm nhận được một Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn và Người rất thân thiện và hằng quan tâm ủi an chúng ta ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa là ánh sáng cho trần gian ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên là đường dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa đã được sinh ra trong tâm hồn chúng ta cho chúng ta và vì chúng ta ? …

Điều quan trọng là lòng tin kiên vững mà Đức tin đã tặng ban cho chúng ta, chứ không phải là cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa. Bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa, không hệ tại vào những tài năng của linh hồn, nhưng là từ tận nơi sâu thẳm của linh hồn. Chính vì thế, điều đó lý giải tại sao mà chúng ta không lãnh hội được. Thật thế Thiên Chúa luôn thân thiện, nhưng chúng ta không có một chút cảm nhận nào. Thiên Chúa rất thân thiện với chúng ta, nhưng chúng ta lại xa Người. Thiên Chúa ở trong còn chúng ta thì ở ngoài. Thiên Chúa luôn ở trong ngôi nhà tâm hồn chúng ta, thế mà chúng ta lại là kẻ xa lạ với chính ngôi nhà của chúng ta. Như lời sách Công vụ tông đồ đã nói: "Trong Người, chúng ta sống, cử động và hiện hữu" (Cv 17:28), Ngài bao bọc chúng ta mọi nơi mọi lúc. Cũng như thánh Âu-tinh, chúng ta tin tưởng cầu nguyện với Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin che chở con, và con đã được Người che chở". Khi ấy, chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần mách bảo trong sâu thẳm tâm hồn, vì này Triều Đại Thiên Chúa "đang ở giữa các ngươi" (Lc 17:21).

Khi Đức Giêsu Kitô sinh ra vào trong thế gian như một phàm nhân, thì Người cũng được sinh ra trong tâm hồn chúng ta. Và như vậy, Người là ánh sáng soi chiếu thế gian, là ngọn đèn nội tâm dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha. Chúng ta hãy lắng nghe lời Người với một tấm lòng đơn sơ thành thật đừng ngờ vực. Nếu chúng ta chỉ lắng nghe mà không hành động theo, khi ấy chúng ta sẽ mất tất cả. Như vậy chúng ta không được biến đổi và không thể nhận biết được Thiên Chúa trong sâu thẳm tâm hồn, nơi mà chúng ta được mời gọi nhận biết Thiên Chúa trong đó.

Đức Kitô đã sinh ra trong chúng ta và chúng ta cần nuôi dưỡng mối liên hệ thân thuộc với Người. Sự sinh ra của Đức Kitô cho phép chúng ta thông phần vào bản tính Thiên Chúa; như vậy, nhân loại được liên kết với Thiên Chúa sau khi xa lìa Thiên Chúa một thời gian rất lâu vì tội nguyên tổ. Sự sinh ra của Đức Kitô là qùa tặng cao qúi của Thiên Chúa nhờ sự sáng tạo của Người; xuất phát từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa vì chúng ta. Vì thế chúng ta được kêu mời đáp trả lại tình yêu ấy theo cùng cách thức, với lòng mến chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả thân xác lẫn ý muốn cho Thiên Chúa, vì Người đã yêu chúng ta trước. Chúng ta có thể yêu Chúa qua lời cầu nguyện và qua sự phục vụ tha nhân.

Tất cả những điều nêu trên có thể lý giải cho chúng ta những vấn đề: tại sao chúng ta phải cầu nguyện, tại sao chúng ta phải ăn chay, tại sao chúng ta phải làm tất cả những việc lành, tại sao chúng ta phải rửa tội, tại sao Thiên Chúa phải trở nên phàm nhân, tại sao chúng ta phải sống thân tình với Thiên Chúa, tại sao tất cả những điều đó là cao cả nhất ? Thưa ! vì Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng ta, Người rất thân thiện và hằng chăm sóc ủi an chúng ta.

Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn ra và đến với Thiên Chúa trong sự cô liêu hoàn toàn, nhờ đó mà chúng ta tỉnh thức với những gì mà Đức Kitô mang tặng chúng ta: một thế giới mới, một thế giới nội tâm mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta và vì chúng ta. Đó là Mầu nhiệm hiện diện. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ân sủng để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Nếu chúng ta chưa nhận ra thì hãy có sự ao ước để được nhận ra, nếu chúng ta chưa thể có sự ao ước để nhận ra thì hãy ao ước có sự ao ước đó. Vì chính Đức Giêsu đã nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23).

Lạy Chúa xin ban ân sủng cho chúng con để chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Amen.

 

 

54. Các môn đệ đầu tiên – Lm. FX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Trong Tin Mừng Gioan, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái mà người ta gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.

- hai ngày đầu: Gioan Tẩy Giả làm chứng (phủ định - khẳng định);

- ngày thứ ba (“hôm sau”, 1,35): lần này Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36);

- đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này;

- ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Natanaen;

- “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tạiCana miền Galilê.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);

2) Anrê (1,40-42a);

3) Simôn (1,42b).

3.- Vài ghi chú về chú giải

- Ông Gioan đang đứng... (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tẩy Giả (x. Mc 2,18t và //; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (41); còn người thứ hai thì vô danh.

Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:

+ Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.

+ TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Natanaen.

+ Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tẩy Giả, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Vị Tẩy Giả bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.

+ Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tẩy Giả.

- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Vị Tẩy Giả còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.

- Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong tiếng Hy Lạp LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Hn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Híp-ri, “tìm” là darash; darash ha Torah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.

- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? Trên môi họ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).

- Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. Trong Ga 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.

Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).

- Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quí và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).

- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn của Cựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, ngày là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.

- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.

- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia” Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Natanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.

- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ A-ram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c.38) và Mêsia (c.41), kêpha là từ A-ram (Chúng ta lưu ý là có ba từ A-ram trong cùng một đoạn văn). Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ông cũng rất quen thuộc các thuật ngữ A-ram. Bản RSV dịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vây anh là Simôn con ông Gioan à?”. Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Đn 1,7); người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc 1,63).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)

Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).

Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Ngài thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại ngài đề cập đến (x. Ga 20,19-23).

Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga 1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.

Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.

Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người là “Rabbi”, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là Rabbi. “Thưa Ngài” (Kyrie) là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là “Kyrie”. Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.

Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữ Rabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).

Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là “Rabbi”. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL (x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.

Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.

Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể Tin Mừng (Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?

Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa “Rabbi” (Ga 1,38), nhưng danh hiêu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.

Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (67 lần trong truyền thống Gioan; 40 lần trong TM IV; 51 lần trong phần còn lại của Tân Ước).

Mặc dù thỉnh thoảng tác giả sử dụng động từ này theo nghĩa thông thường là “ở lại, stay” hoặc “sống, live”, ngài rất thường dùng từ này theo một nghĩa thần học sâu sắc. “Ở [lại]” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ (Để diễn tả ý nghĩa này, có những tác giả dịch là “abide”). Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Ngài (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3).

Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga 14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga 15,4.5.7). Các môn đệ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu (Ga 15,9.10), và các lời Người ở lại trong họ (Ga 15,7). Ý nghĩa tối hậu của Bí Tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56).

Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả-rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.

Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menô) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như ông Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.

* Anrê (40-42a)

Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trong Ga 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc 5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Họi Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29); Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.

Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2; Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.

Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái pattern (mô hình đơn giản) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (Ga 4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.

Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho ông. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Híp-ri ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của ông Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của ông Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (Ga 1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.

Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như một rabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (Ga 1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).

Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.

Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IV rút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.

* Simôn (42b)

Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (Ga 1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.

Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Ngài.

Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Ngài nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.

Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của ch. 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên A-ram mới “Kêpha” thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Họi Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.

+ Kết luận

Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.

2. Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.

3. Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động? Vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?

4. Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?

------------------

[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.

 

 

55. Gặp gỡ Đức Kitô.

(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)

Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình,

Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh.

Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình,

Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”.

Câu điệp khúc của một bài ca sinh hoạt của các bạn trẻ giúp chúng ta ý thức về cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên: Arê và Gioan trong Tin Mừng hôm nay. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn đoạn Tin Mừng này để làm đề tài cho cuộc gặp gỡ giới trẻ thế giới lần thứ 12 diễn ra vào trung tuần tháng 8 năm 1997 tại Paris, nước Pháp. Theo Đức Thánh Cha, cuộc gặp gỡ rất quan trọng vì là “khởi điểm của mọi hành trình Đức Tin”.

Nhưng thế nào là gặp gỡ Đức Kitô?

Có lẽ chúng ta đều lúng túng khi được người khác đặt câu hỏi cơ bản này. Chúng ta không biết phải trả lời làm sao, mô tả như thế nào. Chúng ta chưa có kinh nghiệm hoặc một kinh nghiệm rất hời hợt. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một diễn tiến gồm một số bước: Trước hết là được Gioan Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Nếu hai môn đệ không tức khắc đi theo Chúa Giêsu khi nghe Gioan giới thiệu, hai ông đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đức Kitô và đã không trở thành những môn đệ đầu tiên của Ngài.

Bước thứ hai là đối thoại với Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người ngỏ lời trước: “Các anh tìm gì thế?” Đức Thánh Cha nói: “Khi ta hỏi Chúa điều gì, thì Ngài luôn hỏi lại ta, người hỏi trở thành kẻ bị hỏi; người tìm kiếm Chúa trở thành kẻ được Ngài kiếm tìm: “Các anh tìm gì thế?”. Câu hỏi có vẻ tầm thường như những câu hỏi lúc mới gặp nhau, nhưng đây là một câu hỏi đặt vấn đề cho những ai theo Chúa: Chúng ta tìm ai? Theo Chúa để làm gì? Chúng ta chờ đợi nơi Chúa điều gì?

Chúa không chờ đợi một câu trả lời của trí tuệ, nhưng chờ đợi một câu trả lời của trái tim, của tâm hồn. Các môn đệ đáp trả bằng một câu vắn gọn: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà, vì Ngài “Không có nơi gối đầu”. Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. “Hãy đến” là lời mời gọi của trái tim rộng mở. Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu. Đến với Chúa chắc chắn dẫn đến một kinh nghiệm: kinh nghiệm về một tình yêu sâu thẳm nhất. Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu.

Cuối cùng, khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê chắc chắn biểu lộ một sự thích thú rõ rệt. Ông đã sung sướng được gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Dĩ nhiên, ông còn phải ở lại với Chúa Giêsu lâu hơn nữa, còn phải tìm hiểu, phải khám phá nhiều hơn. Nhưng giờ đây, ông cùng chia sẻ với em mình, cùng tìm hiểu, cùng khám phá với em và các bạn khác của ông. Niềm tin của ông càng được củng cố, càng lớn lên trong mức độ ông biết chia sẻ cho người khác.

Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông trở lại với cuộc sống đời thường. Thế nhưng, từ nay không còn là cuộc sống như trước, vì cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã làm thay đổi tận căn. Giờ đây các ông sống với niềm tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia –Đấng Thiên Sai Cứu Thế- Chính niềm tin đó điều khiển cuộc sống và làm cho cuộc sống người môn đệ mang một ý nghĩa mới.

Anh chị em thân mến,

Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Đã có lần nào chúng ta choáng váng vì lần đầu tiên gặp gỡ đích thực với Chúa chưa? Chúa đã có mặt trong cuộc sống của chúng ta chưa? Sao cuộc đời ta vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi?...

“Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình”. Tại sao cuộc đời tôi chưa được biến đổi? Tôi vẫn sống với con người cũ, tội lỗi, ích kỷ, lười biếng? Tôi như chưa được “tái sinh”, chưa “gặp lại mình”, chưa “nối lại những mối dây huynh đệ” với những người khác? Ấy là dấu Đức Kitô chưa có mặt trong đời tôi. Đã gặp được Chúa là phải có một sự đổi đời. Bởi, sống đạo không phải là sống theo một điều gì, đi theo một ai khác hơn là sống theo Đức Giêsu Kitô.

Nhưng ngày nay, gặp gỡ Đức Kitô ở đâu?

Đức Thánh Cha nói: “Đức Giêsu ở bên cạnh chúng ta, nơi những người anh em chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống hằng ngày. Gương mặt của Ngài là gương mặt của người nghèo nhất trong những người nghèo; của những người bị gạt ra bên lề cuộc sống, thường là nạn nhân của những cơ chế bất công. Nhà của Đức Giêsu là bất cứ nơi nào con người phải chịu đau khổ vì các quyền sống của họ bị chối từ, những hy vọng của họ bị phản bội, những lo âu của họ không được biết đến. Nhà của Đức Kitô là chính nơi đó, ở giữa mọi người, nơi mà Ngài yêu cầu chúng ta, nhân danh Ngài, lau khô mọi giọt lệ và nhắc cho những ai cảm thấy một mình cô đơn nhớ rằng chẳng có ai cô đơn hết, nếu họ đặt niềm tín thác vào Ngài”.

Nếu đã gặp được Đức Kitô trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta đã được đổi mới như được tái sinh, sẽ từ bỏ con người ích kỷ của mình và bị thúc đẩy chia sẻ niềm tin và cuộc sống với mọi người anh em, nhất là những con người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nổ và tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.

Như Đức Thánh Cha đã nói: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.

 

 

home Mục lục Lưu trữ