Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 74

Tổng truy cập: 1364575

CHỮA TẬN CĂN

CHỮA TẬN CĂN

Có một câu chuyện tưởng tượng, tiếp nối dụ ngôn người Samaria nhân hậu, đại khái như sau: Sau khi đã tận tình cứu giúp nạn nhân bị bọn cướp đánh và bỏ rơi, người Samaria này lại có dịp đi từ Giêrusalem xuống Giêricô. Lần thứ hai này, ông cũng gặp một nạn nhân khác và như lần đầu, ông cũng lại ra tay cứu giúp. Và rồi tiếp theo trong những lần có dịp đi qua con đưởng đó, ông đều gặp nạn nhân và đều cứu giúp, cho đến một ngày kia là lần thứ 2222, khi đến chỗ thường xảy ra những vụ cướp bóc, ông cũng lại gặp một nạn nhân. Như thường lệ, ông xuống lừa, băng bó vết thương. Xong xuôi đâu đó, ông đặt nạn nhân lên lưng lừa. Với thời gian, con lừa của ông dường như cũng quen đường cũ, đem nạn nhân đến quán trọ. Nhưng lần này ông chủ quán chỉ thấy nạn nhân nằm trên lưng con lừa cũ mà không thấy người Samaria đâu. Hơi ngạc nhiên, nhưng ông chủ quán vẫn tiếp tục chăm sóc nạn nhân như thường lệ. Điều mà ông chủ quán không ngờ mãi đến lần 2222 người Samaria mới có sáng kiến giúp các nạn nhân đến nơi đến chốn. Để giải quyết tận gốc rễ, ông đã tìm đến sào huyệt của bọn cướp với hy vọng thuyết phục họ, hoặc nếu được thì giúp đỡ để họ có thể trở về sống một cuộc đời lương thiện, từ bỏ những hành động trộm cướp và giết người.

Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã gặp phải những người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật. Có thể là chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như thầy tư tế và lêvi. Có thể là chúng ta cũng đã giúp đỡ họ một cách đại khái cho qua lần đoạn lượt bằng một lời chào, bằng một nụ cười, bằng một sự an ủi khích lệ hay bằng một vài ngàn đồng bạc làm phúc bố thí, nhưng có lẽ chưa một lần chúng ta dừng lại, suy nghĩ và tìm hiểu xem chúng ta phải làm những gì để chữa tận căn, để diệt tận gốc, hầu đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đích thực.

Người Samaria đã lặn lội tìm vào tận hang ổ của bọn cướp, để xóa đi sự hiện diện của họ, vốn đã từng gieo rắc kinh hoàng và khổ đau cho nhiều người. Còn chúng ta thì sao?

Gặp một người nghèo túng, thay vì cho họ một số tiền nào đó, chúng ta có thể chỉ bảo cho họ một nghề nghiệp, nhờ đó mà họ sẽ tự túc tự cường, tự mình kến sống. Gặp một gia đình bất hòa, thay vì đưa ra những lời khuyên một cách chung chung, chúng ta có thể tìm hiểu đâu là nguyên nhân gây ra sự bất hòa đó, để rồi tìm cách xóa bỏ cái nguyên nhân ấy đi. Đây là một việc làm không mấy dễ dàng, thế nhưng, để sự giúp đỡ của chúng ta thự sự mang lại lợi ích cho người khác, liệu chúng ta có cùng với họ xóa bỏ tận gốc rễ nguyên nhân làm cho họ phải khổ đau hay không?

 

12.Ai là người thân cận

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Nhờ một người thông luật thắc mắc mà chúng ta được một dụ ngôn tuyệt hảo về lòng bác ái đối với người thân cận.

Dụ ngôn rất dễ hiểu, ai cũng hiểu được, nhưng chúng ta cần phân tích tỉ mỉ hơn để hiểu được ý nghĩa mà thánh Luca muốn nói với chúng ta.

Thực ra câu hỏi của nhà thông luật chỉ chú trọng đến việc “làm sao được sống đời đời” Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà hỏi lại: “Ông đọc thấy gì trong Lề Luật?”

Nhà thông luật trả lời rất chính xác vì ông là một nhà thông luật. Nhưng ông lại thắc mắc và thêm một câu hỏi khác nhờ đó Chúa Giêsu cho ông và cả chúng ta một bài học về người thân cận.

Vậy người thân cận là ai?

Là ai đối với thầy tư tế đi ngang qua nơi đó? Thầy tư tế là người biết luật. Thầy tránh qua một bên và tiếp tục hành trình của mình, không để ý đến nạn nhân. Tại sao? Vì theo Luật Môsê, chạm đến xác chết là bị nhiễm uế. Ông sợ nạn nhân có thể chết, ông chọn giải pháp tiện nhất là tránh đi.

Một thầy Lêvi, cũng thuộc hạng biết Luật, cũng đi ngang qua đó, ông cũng tránh xa rồi đi. Ông sợ nhiễm uế.

Chỉ có một người Samari, một người đi đường, thấy nạn nhân, ông động lòng thương, dừng lại, xuống lừa, đến bên nạn nhân và chăm sóc, đưa về quán trọ…

Người thân cận là ai? Là nạn nhân.

Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy về và làm như vậy”.

Chúng ta có làm như vậy chưa?

Có ai trong chúng ta đã tận tình với người anh em như người Samari kia? (Chúng tôi xin mở ngoặc: ở Việt Nam cứu giúp người bị nạn như thế có người đã bỏ mạng). Nhưng chúng ta có thể giúp được nhiều người khác, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những người thân cận của chúng ta rất nhiều, chỉ cần chúng ta mở mắt và khám phá ra họ. Sự nghèo đói và đau khổ thường câm lặng. Chúng ta nhớ lời Chúa: “Khi các ngươi làm một điều gì cho những anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta”.

Với điều kiện đó, chúng ta có thể làm được rất nhiều việc cho người thân cận của chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Các thánh cũng là những gương mẫu sống động khích lệ chúng ta.

Dụ ngôn không chỉ dạy chúng ta yêu thương người thân cận mà còn đi xa hơn. Chúa Giêsu nêu lên hình ảnh của thầy tư tế và thầy Lêvi. Hai nhân vật này đã xem nạn nhân như người xa lạ, người không thuộc giai cấp của mình, không là người thân cận của họ. Họ biết Luật nhưng đã bóp méo Lề Luật và xem mình là người đạo đức hơn bần dân. Chúa Giêsu rất dị ứng với thái độ phân biệt đối xử của hạng người này và nhiều lần Chúa đã lên tiếng công khai khiển trách họ. Đối với Ngài, mọi người đều phải được tôn trọng như nhau vì tất cả là con Thiên Chúa. Đang lúc các ông Pharisêu và thượng tế ngồi trên ngai của họ thì Chúa Giêsu lại đi rảo trong dân, “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất”.

Ai là người thân cận của Chúa Giêsu?

Là tất cả chúng ta, những con người được cứu vớt, nhưng vẫn còn yếu đuối.

Chúa Giêsu nêu lên hình ảnh của người Samari, một người lạc giáo, không thuộc về dân Israen và đưa lên làm mẫu mực cho người Do Thái và cho chúng ta. Người Samari cũng biết Luật vì họ giữ Luật Môsê, nhưng ông này không kỳ thị như thầy tư tế kia. Trong hoàn cảnh này, nạn nhân là một người Do Thái, (người Samari không thiện cảm gì với người Do Thái) nhưng gặp nạn nhân, ông đã động lòng thương, tận tình săn sóc, không ngại công khó tốn kém. Lòng trắc ẩn không có biên giới.

Đây chỉ là một dụ ngôn nhưng đi sát với thực tế, làm cho chúng ta phải suy nghĩ.

Chính Chúa Giêsu là người Samari nhân hậu đó. Ngài nhìn thấy con người nằm dở sống dở chết bên cuộc đời, bị ma quỉ hành hạ. Ngài đã xuống khỏi lừa, nhập thể để đến với chúng ta, băng bó các vết thương và chở chúng ta vào Hội thánh của Ngài để săn sóc. Ngài sẽ trở lại để thanh toán những món nợ nếu có.

Chỉ có Ngài là Vị Cứu Tinh duy nhất của chúng ta. Những thầy tư tế hay Lêvi đến trước Ngài, không cứu được chúng ta.

Ngài thương chúng ta và Ngài muốn chúng ta thương nhau, cứu giúp nhau như Ngài.

Giới răn mới đã được ban hành ngay từ đây: “Anh hãy về và làm như vậy”.

Trước khi đi vào tử nạn, Ngài lặp lại giới răn này rõ rệt hơn và đưa nó lên một tầng cao hơn là yêu như Thầy đã yêu.

Chúa Giêsu còn đi xa hơn người Samari kia. Không những băng bó các vết thương của chúng ta, Ngài còn chấp nhận chết cho chúng ta. Tình yêu của Ngài đã đi đến tột đỉnh: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người dám chết cho bạn hữu”.

Chúng ta được yêu thương như thế, chúng ta có biết không? Nếu biết, sao chúng ta không về và làm như vậy cho anh em chúng ta? Chúng ta đang sống trong một thế giới băng giá, vì con người không biết thương nhau, chỉ biết tàn sát lẫn nhau, chúng ta cũng sống như thế gian hay sao?

Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta bước theo Ngài, cứu vớt thế giới bằng tình yêu, sao chúng ta e ngại? Chúng ta sợ mất mát?

Chỉ có tình yêu mới cứu vớt được thế giới hôm nay đang sôi sục vì hận thù, đang tan rữa trong sự dã man.

Chúng ta không thể không nghe tiếng Chúa. Phải làm một cái gì đó cho anh em chúng ta. Chúng ta nhỏ bé thật nhưng chúng ta không chỉ là cá nhân, chúng ta là cộng đoàn. Giáo hội là cộng đoàn của những người dám yêu thương giữa hận thù, dám hi sinh giữa ích kỷ, dám cho không mà không tính toán. Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta như đã từng hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Yêu mến Thầy hôm nay là yêu mến tất cả những nạn nhân của một thế giới vô tâm, tàn nhẫn, là những hiện thân của Thầy.

Câu hỏi đó hôm nay xuất hiện trong Tấm Bánh Tình Yêu được trao ban cho chúng ta làm lương thực. Ăn lấy Chúa Tình Yêu, chúng ta phải sống cho tình yêu. Đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu.

 

13.Ai là người Samari nhân hậu?

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Lê Văn Nhạc)

Tin Mừng Lc 10: 25-37 Yêu mến Chúa trong nhà thờ, không đủ, nếu không yêu mến Chúa trên đường đi và trong người anh em đồng bào, đồng loại.

Một đạo sĩ Ấn giáo nọ hỏi các đệ tử của ông như sau:

- "Làm thế nào để biết được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?"

Sau vài phút suy nghĩ, một đệ tử giơ tay xin trả lời:

- "Tôi biết được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta trông thấy một con thú từ đàng xa mà ta phân biệt được nó là con bò hay là con ngựa".

Câu trả lời đã không làm cho nhà đạo sĩ ưng ý chút nào… Một đệ tử khác lên tiếng:

- "Tôi biết được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta thấy một cây lớn từ đàng xa mà ta phân biệt được đó là cây xoài hay cây mít".

Vị đạo sĩ cũng lắc đầu không đồng ý. Khi các đệ tử nhao nhao muốn biết câu giải đáp, ông mới ôn tồn nói như sau:

- "Khi ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào mà nhận ra người đó là người anh em của ta thì đó là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được như thế, thì cho dù đêm có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay đổi".

Thưa anh chị em,

Nhân loại đã chìm ngập trong đêm tối của tội lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau giữa người với người. Chúa Giêsu đã đến để xóa tan ĐÊM tối và khai mở NGÀY mới, trong đó người nhận ra người là anh em, người trở về với Thiên Chúa.

Như nhà đạo sĩ đã giải đáp: "Khi ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào mà nhận ra người anh em của ta trong người đó, là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu". Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó chính là nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người cũng như phẩm giá vô cùng cao quý của người đó. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó là nhìn thấy niềm vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả lỗi lầm của người đó như của chính mình.

Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của người đó. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là muốn nói với người đó rằng, cách nầy hay cách khác, ta cần người đó để được sống xứng đáng với ơn gọi làm người hơn.

Trái lại, nếu ta không nhận ra người khác là người anh em của mình thì mình vẫn ở trong bóng tối đêm đen, chỉ khi nhận ra được người khác là người anh em của mình, thì mình mới bước vào ánh sáng ban ngày. Người khác đó là bất cứ ai, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, ý thức hệ. Tất cả mọi người là anh em tôi.

Thế nhưng, thưa anh chị em, trong Tin Mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa: "Ai là anh em tôi?" Để trả lời, Chúa Giêsu đã kể câu chuyện người Samari nhân hậu. Người Samari nầy đã nhận ra nạn nhân đang nằm lây lất bên đường là người anh em gần gủi của mình, đang khi thầy Tư tế và thầy Lêvi lại không nhận ra nạn nhân nằm bên vệ đường kia là người anh em, mặc dầu nạn nhân ấy cũng là người Do Thái đồng bào và đồng đạo với mình. Nạn nhân đã trở thành kẻ xa lạ, chỉ vì rơi vào hoàn cảnh bất hạnh.

Câu chuyện muốn làm nổi bật thái độ dễ thương của người Samari nhân hậu. Chúng ta thấy ông xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang quằn quại ở vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh là ai? Là người Do Thái hay Samari - hai dân nầy vẫn coi nhau như thù địch - Ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình, nhưng lại không được như mình. Thế nên ông đã săn sóc, băng bó vết thương và chở đến quán trọ gần nhất cấp cứu, rồi còn sẵn sàng trang trải mọi phí tổn nữa.

Như vậy, người Samari nhân hậu nầy đã trở nên người anh em thân cận, gần gũi với người bị nạn, mặc dù ông không cùng chủng tộc và tôn giáo, hơn nữa ông còn bị coi như kẻ thù của người Do Thái bị nạn nầy, đang khi hai thầy Tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc thầy dạy đạo, tế lễ, lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào là xa lạ. Chính những hành động bác ái thương người cụ thể như thế mới làm chứng ai thật là người có đạo, ai thật là người, vì có lòng nhân ái.

Anh chị em thân mến,

Ngày 11 tháng 2 năm 1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành một Tông thư mang tựa đề: "Salvifici doloris" nói về "Ý nghĩa đau khổ của người theo kitô giáo" để toàn thể Giáo Hội suy tư trong Năm Thánh Cứu Độ 1984. Đức Giáo Hoàng đã nhắc lại dụ ngôn "người Samari nhân hậu", không phải chỉ để gởi tới các bệnh nhân, những người phải chịu đau khổ, mà còn gởi tới mọi người. Bởi vì đau khổ vẫn ở ngay bên đường đi của chúng ta, đến nỗi con người rất dễ bị cám dỗ "bỏ đi qua" một cách dửng dưng, sự dửng dưng nầy là một nét đặc trưng của thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn "Người Samari nhân hậu" đã trở nên yếu tố thiết yếu của nền văn hóa đạo đức cũng như nền văn minh phổ quát của nhân loại. Nhưng "khi đến với đau khổ của người khác, không một tổ chức nào, tự nó, có thể thay thế cho trái tim, sự cảm thông, tình yêu và sáng kiến của con người". Và vào ngày phán xét, Chúa sẽ nói với mỗi người chúng ta rằng: "Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". (x. Tông thư SD. số 28-30).

Chúa Giêsu đã bảo luật sĩ: "Cả ông nữa, hãy đi và làm như vậy". Hôm nay, chính với chúng ta, Chúa Giêsu ban huấn lệnh cấp bách nầy: "Hãy đi và làm y như vậy". Chúng ta hãy đi và làm như người Samari đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samari nhân hậu bên cạnh tất cả những ai chúng ta gặp và chân tình giúp đỡ, băng bó các vết thương của họ, những vết thương nghèo đói, đau yếu, bệnh tật, cô đơn, chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: "Ai là anh em tôi?", nhưng hãy đi và tỏ ra "mình là anh em của mọi người". Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không có đạo. Nhưng hãy đi và làm như người Samari kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, nhìn thấy người đau khổ thì cứu giúp. Phải vượt qua quan niệm hẹp hòi của người Do Thái, để đi đến tình huynh đệ phổ quát, đại đồng.

Yêu mến Chúa trong nhà thờ, không đủ, nếu không yêu mến Chúa trên đường đi và trong người anh em đồng bào, đồng loại. Chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ biết luật dạy mến Chúa yêu người trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: "Anh em đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thực sự bằng việc làm". Ngài còn nói: "Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì sống trong ánh sáng. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và bước đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho người ấy ra mù quáng" (1Ga 2,9-11).

Hãy nhận ra khuôn mặt của tất cả mọi người là người anh em. Chỉ khi đó chúng ta mới ra khỏi bóng tối đang bao trùm chúng ta và được tràn ngập ánh sáng vinh quang của Chúa.

 

14.Tội thờ ơ.

Tôi đã chứng kiến không chỉ một lần cảnh đám đông vây quanh một đánh đánh lộn bên đường phố. Có khi đó là hai thanh niên quyết ăn thua đủ với nhau. Có khi đó là một người đàn ông đánh đập tàn nhận một người đàn bà. Có khi đó là hai cô gái sừng sổ với nhau. Điều đáng nói là mọi người dường như có vẻ dửng dưng, như chứng kiến một cánh đấm đá trên màn ảnh? Phải chăng con người ngày nay đã xơ cứng trước nỗi thống khổ của kẻ khác?

Thực tế có lẽ không đến nỗi quá quắt như vậy. Người ta chỉ thờ ơ để khỏi mang vạ vào thân giữa một xã hội mạnh ai nấy sống. Tuy thế cũng thật đáng buồn và đáng suy nghĩ. Tôi chắc có nhiều người cũng như tôi, không hẳn là mình không muốn can ngăn những cuộc ẩn đả xảy ra ngoài đường phố hay trong khu xóm. Có điều cái thói thờ ơ, để khỏi bị liên luỵ và được yên lòng, đã chiếm lĩnh lối sống ích kỷ, cầu an cá nhân của mình. Sống với tâm trạng như thế, chúng ta đọc sao được câu chuyện người Samaria nhân hậu của Tin Mừng.

Người Samaria là một anh chàng không có đạo, mà không có đạo cũng đồng nghĩa với không thể sống bác ái lương thiện. Quan niệm Do Thái hẹp hòi và thiển cận ấy, như một mẫu mực để những ai muốn có cuộc sống đời đời phải nhìn đó mà noi theo. Người Samaria ngoại đạo đã trổi vượt hơn những người chính thống, đạo đức nhất của xã hội và Giáo Hội lúc bấy giờ là thầy Lêvi và vị tư tế. Trổi vượt trong lãnh vực yêu thương, cứu giúp những người gặp vận nạn hiểm nguy trong cuộc sống. Còn chúng ta thì sao?

Tôi xin thưa chúng ta cũng phải trở nên là những người Samaria nhân lành của thời buổi hôm nay. Có nghĩa là chúng ta không phải chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho người khác. Chúng ta không chỉ lo toan cho cá nhân mà còn quan tâm tới hết mọi người chung quanh. Chúng ta không chỉ nghiêm túc trong giờ phụng vụ mà còn nghiêm túc trong mọi lãnh vực kinh doanh và sản xuất.

Trong xã hội, kẻ thờ ơ với tha nhân cũng nhiều, nhưng những người Samaria hiện đại cũng không thiếu. Họ có khi mang danh hiệu Kitô hữu, có khi mang danh hiệu Phật tử, có khi mang danh hiệu cộng sản và có khi chẳng mang một danh hiệu nào cả. Nhưng họ giống như Đức Kitô đã sống và họ tiếp cận được với Thiên Chúa cũng như với tha nhân. Vậy thì để trở nên những người Samaria thời buổi hôm nay, chúng ta đã thực sự có được một trái tim mở rộng, một thái độ quan tâm đến mọi người, mọi việc kế cận với chúng ta hay chưa?

 

15.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Đề: Luật trong lòng Người Samaria nhân hậu

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Hôm nay chúng ta sẽ nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu. Qua hình ảnh người Samaria này, Chúa muốn chúng ta hãy quân tâm giúp đỡ chăm sóc người khác. Còn thầy tư tế và thầy lêvi thì xem ra chẳng làm gì nên tội, nhưng thực ra tội của họ chính là tội thiếu sót: họ đã không làm điều lẽ ra họ phải làm.

Trước khi cùng nhau dâng Thánh lễ, chúng ta hãy xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, những tội trong lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta rất ít quan tâm đến người khác.

Nhiều việc lành chúng ta có thể làm nhưng chúng ta đã bỏ qua không làm.

Chúng ta thường thờ ơ dửng dưng trước những người nghèo khổ bệnh tật.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Đnl 30, 10-14)

Để khuyến khích dân Do Thái thực thi những lệnh truyền của Thiên Chúa, ông Môsê lưu ý họ rằng: Những lệnh truyền của Thiên Chúa không quá khó khăn cũng không vượt quá sức con người, nhưng có thể thực hiện được vì chúng không ở trên trời hay ở bên kia biển cả mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và trong lòng con người.

2. Đáp ca (Tv 68)

Tv này là lời kêu xin của người đang gặp cảnh khổ, mong được Thiên Chúa cứu giúp.

Những lời này có thể áp dụng cho nạn nhân trong bài Tin Mừng bị kẻ cướp hành hạ đến nửa sống nửa chết và bỏ nằm trên đường.

3. Tin Mừng (Lc 10, 25-37)

1. "Ai là người thân cận của tôi?" Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng suy nghĩ của ông:

Ông muốn tìm một câu định nghĩa về "người thân cận". Người Do Thái thời đó hiểu "người thân cận" chỉ là những đồng bào Do Thái với mình.

Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.

2. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng suy nghĩ của Chúa Giêsu:

Định nghĩa về "người thân cận" không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)

Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm... ). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là Do Thái một người là Samari.

Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)

4. Bài đọc II (Cl 1, 15-20) (Chủ đề phụ)

Tín hữu Côlossê tuy đã tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng chưa an tâm, một mặt họ vẫn giữ lại những tập tục Do Thái giáo (như cắt bì, giữ luật ngày Sabát...), mặt khác họ tin thêm một số thần khác, làm thêm một số việc mê tín dị đoan. Họ nghĩ rằng như thế thì "chắc ăn" hơn.

Để bài trừ cách sống đạo "thập cẩm" này, thánh Phaolô đề cao vai trò tối thượng duy nhất của Chúa Giêsu:

Ngài là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình

Ngài là trưởng tử mọi thọ tạo

Mọi thọ tạo đều được tạo thành trong Ngài

Ngài còn là đầu của Hội Thánh

Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự viên mãn trong Ngài

Tóm lại, Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ duy nhất. Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một mình Chúa Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ tôn giáo hay thần thánh nào khác.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Các vai trong dụ ngôn

Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người chỉ quan tâm đến bản thân mình: khi gặp một tình huống đặc biệt, họ nghĩ đến bản thân họ trước (không dừng lại chăm sóc người bị nạn vì sợ trễ giờ, vì sợ ô uế nếu đụng vào xác chết).

Người Samaria là người biết nghĩ đến người khác: khi gặp người bị nạn, anh chỉ biết tìm cách giúp đỡ nạn nhân, không ngại mất giờ, mất công và mất tiền.

Thầy tư tế và thầy lêvi chú ý giữ luật ghi trên sách vở (luật quy định về thanh sạch và ô uế); Người Samaria giữ luật trong tim (luật yêu thương)

Thầy tư tế và thấy lêvi không phạm tội nào về lời nói hay việc làm, nhưng phạm tội thiếu sót vì đã bỏ qua không làm điều mình phải làm.

* 2. Người chăm sóc

Người Samaria là một người chăm sóc

Loại người này rất hiếm thấy trong xã hội, vì trong xã hội ai nấy chỉ biết lo cho mình, ít ai để ý chăm sóc người khác, nhất là chăm sóc những người xa lạ không có quan hệ gì tới mình.

Nhưng loại người này rất hữu ích cho xã hội. Bằng những việc chăm sóc âm thầm, nhỏ bé, họ chính là muối và men làm cho xã hội bớt đau khổ, bớt xấu xa và thêm tốt đẹp.

Khi đề cao người Samaria, Chúa Giêsu muốn chúng ta cũng phải là những người chăm sóc. Con đường Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những người bất hạnh cần được chăm sóc. Mỗi người cũng được Chúa ban có nhiều khả năng chăm sóc: một lời an ủi động viên, một cử chỉ thân ái, một giúp đỡ thiết thực chính là chút rượu và chút dầu xoa dịu những thương đau cho người anh em mình đang gặp đau khổ. (FM)

* 3. Lòng tốt tự phát

Có nhiều người làm một việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật yêu thương đã ăn sâu vào con tim mình, đã trở thành máu thịt và hơi thở của mình.

Người Samaria trong dụ ngôn này là một người như thế: khi gặp một nạn nhân trên đường, anh không cần suy nghĩ gì cả mà tự nhiên xuống lừa, cúi xuống lấy dầu và rượu xoa dịu những vết thương của nạn nhân, rồi chở nạn nhân đến quán trọ, bỏ tiền ra nhờ chủ quán tiếp tục lo cho nạn nhân.

Khác hẳn với Thầy tư tế và thầy Lêvi: hai người này cũng thấy cảnh đó, nhưng đắn đo suy tính thiệt hơn. Và sau khi suy tính, họ chọn giải pháp "đi qua". Họ thuộc luật rất nhiều đấy, nhưng luật chưa ăn sâu vào tim và chưa trở thành máu thịt và hơi thở của họ.

Làm thế nào để có lòng tốt tự phát như người Samaria? Việc này không phải muốn là được, không phải chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều hành động tốt nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành động tốt là nó giúp ta có thể làm thêm những hành động tốt khác một cách dễ dàng hơn.

* 4. Yêu rồi làm (Lc 10, 25-37)

Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:

- Thầy không biết yêu sao?

Vị ẩn sĩ trả lời:

- Chưa đến giờ đó thôi?

Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị.

Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:

- Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót!

***

Người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: "Ai là người thân cận của tôi?" Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samari tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lê vi "tránh qua bên kia mà đi", thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.

Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: "Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?". Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót". Chúa Giêsu bảo: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (Lc 10, 37).

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samari nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là "yêu bằng việc làm". Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là "miệng nói tay làm", làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: "Hãy đi và làm như vậy". Pascal đã nói: "Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương".

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.

Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lê vi "tránh qua bên kia mà đi" là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.

Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi: "Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử?". Trái lại, người Samari đã đảo ngược câu hỏi: "Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy?" Người Samari tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: "Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi". Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.

Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thục sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.

Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêsa Calcutta nói: "Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình".

Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám đừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.

***

Lạy Chúa cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc.

Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen (Thiên Phúc )

5. Chuyện minh họa

a/ Lòng hiếu khách tự nhiên

Alaska là một vùng đất đẹp thu hút nhiều du khách, nhưng cũng là một vùng rộng lớn thưa dân.

Ngày kia, một du khách lái xe đi thăm các thắng cảnh thiên nhiên. Quá mãi mê ngắm cảnh, xe của ông lạc vào một vùng hoang vu. Rủi thay chính lúc đó xe ông bị hư. Sau một hồi lâu tìm kiếm, ông may mắn gặp được một nông trại và xin ông chủ nông trại ấy giúp sửa dùm chiếc xe. Người chủ nông trại nhanh nhẹn lấy đồ nghề ra. Nửa giờ sau xe chạy được. Người du khách móc ví tiền ra, hỏi:

- Tôi phải trả công cho ông bao nhiêu?

- Thôi, khỏi phải trả chi cả.

- Nhưng tôi thấy có bổn phận trả lại cho ông điều ông đã làm cho tôi.

- Thì ông đã trả rồi đó.

- Xin lỗi, tôi chưa hiểu ông muốn nói gì?

- Ở nơi hoang vu này, tôi rất cô đơn nên cần có bạn. Ông đã cho tôi có dịp làm bạn với ông suốt một giờ đồng hồ vừa qua.

b/ Bản năng giúp người khác

Larry Skutnik là một người có tính nhút nhát làm việc cho một công sở ở Washington. Chiều ngày 13 tháng giêng năm 1982, một trận bão tuyết rất lớn đổ xuống thành phố này. Xe anh đang trên đường về nhà thì bị kẹt trên cầu bắt qua sông Potomac. Lý do là có một chiếc máy bay chở 79 người đã đâm đầu xuống sông. Anh bước khỏi xe để quan sát và thấy có 3 người đang bám vào đuôi chiếc máy bay đang chìm dần xuống nước. Một chiếc trực thăng đã đến kịp. 3 người ấy leo lên trực thăng. Nhưng chỉ 2 người bám dính, còn người thứ ba, một phụ nữ, vuột tay rơi trở lại xuống nước.

Không chút ngần ngại, Larry Skutnik nhảy tòm xuống sông, lặn xuống dòng nước lạnh cóng để tìm kiếm nạn nhân. Một lúc sau anh đã tìm được và đưa bà này lên bờ.

Tất cả những diễn tiến của cảnh đó đều được thu hình và sau đó được đưa lên truyền hình. Mọi người đều ca ngợi anh là một vị anh hùng. Sáng hôm sau, một phóng viên tới phỏng vấn:

- Do đâu mà anh đã làm được một hành động anh hùng như thế?

- Quả thực hai chữ "anh hùng" làm tôi xấu hổ quá. Tôi đâu có cố gắng gì đâu, chỉ là phản xạ tự nhiên thôi.

Anh hùng thật là người làm hành động anh hùng một cách tự nhiên như phản xạ. Người tốt thật là người làm việc tốt một cách rất tự nhiên.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, đạo Chúa Kitô là đạo tình thương, chỉ dùng tình thương mà cảm hóa và chinh phục người khác. Với quyết tâm sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết luôn chân thành yêu thương / và tôn trọng hết thảy mọi người.

2. Trên thế giới ngày nay / chiến tranh và khủng bố / hận thù và bạo lực / vẫn còn đang hoành hành ở nhiều nơi / gây ra tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô tác động đến mọi suy nghĩ / lời nói và việc làm của con người hôm nay.

3. Trong đời sống thường ngày / có một số người ngại phiền phức / sợ cực nhọc khi phải giúp đỡ người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người Kitô hữu biết sống quảng đại / và sẵn sàng trợ giúp những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó.

4. Sống bác ái là chu toàn cả Lề Luật của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.

Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin đòi buộc chúng con phải sống đức ái. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn niềm tin của mình. Chúng con cầu xin.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau như những anh em cùng một Cha. Vậy chúng ta hãy cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh say đây:

- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là lối sống thờ ơ ích kỷ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an...

VII. Giải tán

Sau khi kể cho người thông luật nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu đã bảo người đó: "Anh cũng hãy đi và làm như vậy". Trong Thánh lễ này, Chúa Giêsu cũng kể lại cho chúng ta nghe dụ ngôn ấy. Giờ đây Thánh lễ đã xong, Ngài cũng bảo chúng ta: "Chúng con hãy đi và làm như vậy". Chúc anh chị em ra về bình an.

 

16.Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

NHỚ MANG THEO TRÁI TIM

Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa “làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời”.

Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.

Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Đường Giêrikhô tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất như sau:

Đó phải là một trái tim nhạy bén.

Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.

Đó phải là một trái tim quan tâm.

Trái tim quan tâm đưa ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.

Đó phải là một trái tim chung thuỷ.

Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.

Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?

2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác?

3- Sau khi nghe dụ ngôn “Người xứ Samaria nhân hậu”, bạn có quyết tâm gì?

4- Mang theo trái tim nghĩa là gì?

home Mục lục Lưu trữ