Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1370521

CHÚNG TA HOẠT ĐỘNG ĐẾN ĐÂU

Chúng ta hoạt động đến đâu.

 

Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu bằng sự bất dung hợp giữa các hoạt động sôi nổi không kiểm soát được của các môn đệ, và thái độ của Chúa Giêsu, thái độ ấy là: Ngài động lòng xót thương đối với những kẻ bơ vơ như bầy cừu không ai chăn dắt, nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.

Một đàng, ta có thể thấy sự xuất hiện một thứ hoạt động trở thành cùng đích cho mình, và quên đi những kẻ vì họ mà mình hoạt động, đàng khác, thái độ của Chúa Giêsu trước hết là lo lắng cho những con người và nhu cầu thực sự của họ. Tin mừng nhắc lại cho chúng ta thấy bằng cách nào Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ một bài học về mục vụ mà không làm cho họ chán nản, không ngăn chặn sự quảng đại của họ.

“Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi”

Chúa Giêsu cố ý chấm dứt câu chuyện về một chuyến làm mục vụ có vẻ cấp bách nhất và mang lại thành công nhất. Vì sự thành công đó mà công việc mục vụ này dường như rơi vào một nguy cơ, như có thể xảy ra cho những công việc mang lại thành công quá nhanh chóng. Những công việc này bị lôi cuốn vào những xung đột không giải quyết được: làm sao tiếp tục tăng trưởng, đảm nhiệm tất cả, những sự thay đổi mà việc tăng trưởng đòi hỏi, và đồng thời, giữ được căn tính của công việc đó? Có những kỹ nghệ thịnh vượng, những nhà xuất bản đang lên, nhưng cũng có tạp chí, những việc buôn bán sụp đổ và biết mất.

Cuộc khủng hoảng ấy cũng có thể xảy ra cho những công trình mà khởi đầu đã mang lại những thành công lớn nhất. Và không thiếu những sự kiện đa dạng vào những năm gần đây để minh hoạ điều này. Bao nhiêu Kitô hữu đã bỏ đức tin? Bao nhiêu tu sĩ đã bỏ ơn gọi? Bao nhiêu sự nghiệp có vẻ bền bỉ đã biến mất? Ta đừng đoán xét. Nhưng hãy lắng nghe bài học của Chúa về sự cần thiết phải có một cái nhìn đúng đắn về sứ vụ được giao phó cho chúng ta.

Đi bộ từ khắp các thành phố.

Nếu Chúa muốn chấm dứt việc mục vụ này, không phải vì nó thất bại, cũng không phải vì nó thiếu ảnh hưởng trên dân chúng. Người ta cần nó. Họ từ khắp nơi tuôn đến. Họ đi vòng chung quanh hồ để gặp lại Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.

Một cuộc đi bộ cần thiết… để loại bỏ những kẻ hiếu kỳ, những kẻ đa nghi, những kẻ lợi dụng. Cần phải suy nghĩ hai lần, và tự hỏi tại sao người ta tìm kiếm Chúa Giêsu, trong lúc những người nghèo, những người bệnh và kẻ tội lỗi là những người đến gần Chúa Giêsu trước hết và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều; Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ, khi trả lại cho sứ vụ ý nghĩa thực sự của nó: đó là rao giảng Tin mừng cho người nghèo. Ngài đã chẳng nói trong hội đường Caphacnaum rằng rao giảng này là đặc điểm chính yếu của sứ vụ Ngài đó sao?

Động cơ của sứ vụ ấy là lòng thương xót của Ngài đối với người nghèo. Lòng thương xót ấy đem đến cho con người một ý nghĩa nâng cao, giải phóng và hoàn thiện con người. Một lòng thương xót tạo nên sự sống. Tự nhiên hình ảnh người mục tử hiện ra trong trí chúng ta. Công việc của người mục tử thật khó khăn. Họ phải liên lỉ canh chừng, kiên nhẫn để đưa dẫn đàn chiên không phải lúc nào cũng tin tưởng đến những đồng cỏ xanh tươi.

Một cách rất đơn giản, Chúa Giêsu đã đưa sứ vụ trở về đúng hướng. Ngài cũng xác định với những kẻ thuộc về Ngài: rằng người mục tử bao giờ cũng cần phải có thời gian, nhiều thời gian và kiên nhẫn cùng với sự tôn trọng khả năng của những kẻ được ủy thác cho họ.

 

 

 

 

 

59. SLC – Kiểm điểm.

 

Sau cuộc đi thực tập truyền giáo trở về, các tông đồ đã sung sướng kể lại những thành quả tốt đẹp đã gặt hái. Nghe xong, Chúa Giêsu đã mời gọi các ông vào nơi thanh vắng, như Ngài vốn làm, để nghỉ ngơi, để cầu nguyện cũng như để kiểm điểm về những biến cố mà họ đã gặp và đã sống.

Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi muốn chia sẻ về việc kiểm điểm đời sống để biết rõ chính bản thân của mình.

Con người ngày nay biết được nhiều sự, nhưng có một sự cần biết hơn cả thì họ lại mù tịt, đó là biết chính bản thân mình. Con người ngày nay khám phá ra nhiều thứ, từ những bí mật dưới lòng biển cả cho đến những tinh tú trên bầu trời cao, nhưng có cái cần khám phá hơn cả thì họ lại quên lãng, đó là khám phá chính tâm hồn của mình.

Từ xưa, người ta đã nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của việc biết mình.

Đông phương thì bảo:

– Tri bỉ tri kỷ, bách chiến báchthắng. Biết mình biết người, trăm trận đều thắng.

Còn Tây phương thì khuyên:

– Connais-toi, toi-même. Hãy biết chính mình bạn.

Sở dĩ như vậy vì không biết mình thì khó mà khiêm nhường, không khiêm nhường thì khó mà nhân đức, không nhân đức thì khó mà được vào nước trời. Không biết những sai lỗi thì làm sao có thể uốn nắn mà trở nên hoàn thiện.

Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ, bởi vì như một thi sĩ đã bảo:

– Con người khó mà đo được tâm hồn của mình một cách chính xác, bởi vì cái thước họ dùng luôn sai lạc, hoặc ngắn quá hoặc dài quá.

Một người đã sạch thì chỉ một vết nhơ nhỏ mọn cũng đã đủ để cảm thấy bức rức khó chịu rồi tắm gội lại ngay. Trái lại, một người đã lem luốc bẩn thỉu, dính đầy dầu mỡ, thì dù bùn đất có dính vào thì cũng chẳng cảm thấy chi. Cái bi đát là ở chỗ người say thì chẳng bao giờ nhận mình là say. Còn kẻ tội lỗi thì chẳng nhận thấy mình có tội lỗi gì.

Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ đằng trước đựng những sai lỗi của kẻ khác còn cái giỏ sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Do kiêu ngạo, chúng ta thiếu nhận biết về bản thân cùng những sai lỗi của mình. Trái lại, những khuyết điểm của người khác thì chúng ta lại biết rất rõ và kết án một cách rất là nghiêm khắc.

Bởi đó chúng ta phải luôn luôn tự hỏi:

– Tôi là ai và tôi như thế nào? Đâu là những cám dỗ tôi thường gặp, đâu là những tật xấu tôi thường vấp mắc và đâu là những tội tôi thường phạm?

Tất cả những câu hỏi trên, chúng ta chỉ có thể tìm thấy được câu trả lời một cách xác thực nhất trong thinh lặng, cầu nguyện và kiểm điểm đời sống.

Bởi đó, giữa giòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, để tính sổ cuộc đời với Chúa, và nhìn lại những bước đường đã đi.

Qua những giây phút thinh lặng ấy, chúng ta sẽ trở về nguồn và từ đó xác định rõ hơn mình đang ở đâu và mình đã đi tới đâu rồi? Từ đó, chúng ta sẽ dễ dàng uốn nắn lại đường đi nước bước của mình.

Đồng thời, chúng ta sẽ lãnh nhận được một nguồn sinh lực và ơn sủng dồi dào nhờ việc kết hợp và gắn bó mật thiết với Chúa.

Chính vì thế, người ta đã đưa ra một kinh nghiệm sống như sau: Tâm hồn càng nhận được nhiều trong thinh lặng thì càng ban phát nhiều hơn trong hành động và trong cuộc sống.

 

 

 

 

 

60. Suy niệm của Fr. Jude Siciliano.

ĐỨC GIÊSU, HIỆN THÂN LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

 

Thưa quý vị.

Lòng tôi như lửa thiêu khi ngồi viết những hàng chữ này. Giả tỷ có phép màu nào khiến tôi tránh né được những ý nghĩ đầu tiên ập đến qua các bài đọc Chúa Nhật hôm nay, thì hay biết mấy. Đặc biệt bài đọc 1 trích từ sách tiên tri Giêrêmia khiến tôi nôn nao bất an. Thay cho Thiên Chúa, ông than vãn: “Khốn nạn những mục tử làm cho đoàn chiên ta phải lạc lõng và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa.” Tôi đọc những chữ đó, khi đang làm việc tại trung tâm rao giảng Aquinô. St. Louis, vào cuối tháng sáu vừa qua. Cùng thời gian hội đồng Giám Mục Hoa kỳ tiến hành hội nghị bán niên, cũng tại thành phố này. Chỉ cách chỗ tôi làm việc vài trăm mét. Ngoài tình hình dai dẳng về gương mù lạm dụng tình dục, lại có tiết lộ tầy trời về giám mục địa phận Phoenix bị tố cáo đã từng giết một khách bộ hành rồi chạy tội. “Còn có thể tệ hại hơn được nữa không?” Tôi buồn phiền ta thán. “Trong đời như một tín hữu của Hội thánh, tôi không thể nhớ có bao giờ phải tủi nhục, xấu hổ hơn lúc này.” Tuy nhiên, sự thật vẫn phải phơi bày, không ém nhẹm mãi được nữa. Bổn phận của tôi là một nhà giảng thuyết.

Và ngay cả khi tôi muốn giấu giếm thì bài đọc 1 Chúa Nhật 16 hôm nay cũng không để tôi yên thân. Thiên Chúa buộc tội các mục tử hư hỏng của Israel. Sách Giêrêmia gộp chung các vua chúa, quan quyền, tư tế thời ấy vào một từ: “mục tử”. Đáng lý họ phải là những gương mẫu về hạnh kiểm, luân lý trong dân, thì thực tế họ lại đứng đầu những kẻ phá hoại luân thường, đạo lý, ăn ở trác táng, dâm dật, tham nhũng, bê tha khét tiếng. Thiên Chúa đã chỉ định họ dẫn dắt dân tộc đi trên các đường nẻo của Ngài, làm dụng cụ hữu hiệu cho Ngài, thì họ đã tuân theo mệnh lệnh của xác thịt, quỷ dữ và thế gian làm cho dân Ngài gian nan, điêu đứng! Báo trước những tai hoạ khủng khiếp sắp ập xuống chư dân và đất nước! Thiên Chúa muốn các mục tử cai trị dân Ngài trong an bình thịnh vượng, bênh đỡ những kẻ nghèo hèn cơ khổ, những người bị áp bức, không tiếng nói, thì họ làm ngược lại, đàn áp, bóc lột, đoạ đầy… Khi tiên tri loan báo những điều trên, thì quân đội Babylon đã tiến sát đến gần biên giới Israel và cuộc lưu đày đã bắt đầu. Triều đình tan rã, thành quách, làng mạc bị tàn phá là điều không tránh khỏi. Vấn đề chỉ còn là thời gian. Trước khi các tai hoạ qua đi thì Giêrusalem và đền thờ đã là đống tro tàn, đổ nát. Một khi cấp lãnh đạo sai lầm, làm trái lề luật Thiên Chúa, thì hậu quả trên dân chúng và quê hương là tàn khốc. Lệ thường xưa nay vẫn thế. Thượng bất chính, hạ tắc loạn.

Tình hình Giáo hội Hoa Kỳ hiện nay là điều lặp lại hoàn cảnh đất nước Do thái thời tiên tri Giêrêmia, tuy ở mức độ nhẹ hơn. Vẫn biết số linh mục, giám mục gây nên gương mù, gương xấu là ít, đa phần vẫn trung thành với ơn gọi và nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên xì-căng-đan vẫn ương ngạnh “trơ gan cùng tuế nguyệt” trước mắt cộng đồng thế giới. Rất nhiều tín hữu Hoa kỳ đã bị thương tổn đức tin và danh dự. Nhiều “con chiên” đã tản mác và lạc lõng. Tờ thời báo New York ngày 2.7.2003 trang 14 đưa tin một sự giảm sút lớn về số người tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, kể từ khi nổ ra các vụ lạm dụng tình dục. Thường thì trong tổng địa phận này tỷ lệ người đi lễ Chúa nhật khá cao. Năm nay giảm thêm 14 phần trăm, kém hơn năm ngoái. Dân số trong tổng giáo phận là 2,1 triệu. Số người tham dự thánh lễ hàng tuần chỉ còn chưa đầy 300 ngàn. Kéo theo nó là giảm sút về ngân sách tài chánh. Tài chánh để duy trì các cơ quan từ thiện và giáo dục! Các trường của tổng giáo phận cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Nói chung, thiệt hại là quá to lớn vì lỗi lầm của một số nhỏ lãnh đạo!

Mặc dù bức tranh ảm đạm, tiên tri Giêrêmia cũng báo trước một tia hy vọng cho dân Do thái. Điều này cũng làm cho chúng ta ngày nay phấn khởi. Lỗi là về phần các cấp lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Tai hoạ phải xảy đến để chống lại họ. Nhưng Thiên Chúa vẫn hứa ban cho tuyển dân một tương lai tươi sáng. Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Thu thập “đoàn chiên còn sót lại từ khắp các miền Ta đã xua chúng đến, sẽ đưa chúng về đồng cỏ tươi tốt, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở thật nhiều.” Để làm tròn lời hứa đó, Thiên Chúa sẽ ban cho Israel những mục tử trung thành, biết chu toàn bổn phận của mình. Đặc biệt Ngài sẽ gởi đấng Thiên sai, con cháu David đến chăn dắt dân Ngài: “Này sẽ tới ngày Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà David một chồi non chính trực.” Như thế bất chấp thời hiện tại đen tối, Israel sẽ có một triều đại mới, tươi sáng hơn. Tôi hy vọng Hội thánh bây giờ cũng vậy. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài, những tín hữu vô tội. Nhưng Ngài sẽ canh tân họ, thu gom thành những cộng đồng thờ phượng mới, với những cấp lãnh đạo trung tín. Phải chăng đó là đường lối ân sủng hoạt động? Khi mà chẳng còn hy vọng nào cả, chỉ có thất bại và chết chóc, thì uy quyền Thiên Chúa tỏ hiện, đảo ngược tình hình. Ngôn sứ Giêrêmia rao giảng chống lại vua chúa và tư tế Israel là hợp lý. Ông mạnh mẽ tố cáo những thối nát của triều đình và các quan chức, là cứu vãn đất nước và tuyển dân. Bởi lẽ họ đang bị tội lỗi của các cấp lãnh đạo làm tan tác. Tình trạng đó khiến Thiên Chúa chạnh lòng thương. Ngài lại giơ tay cứu giúp và có sẵn một dự phóng cho dân. Dự phóng này được ứng nghiệm đầy đủ nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu thực chất là lòng thương cảm của Thượng đế thể hiện bằng xương thịt cho các môn đệ- những mục tử đích thật rao giảng nhân danh Chúa Kitô, và cho các tín hữu- những linh hồn tản mác cần được quy tụ và nuôi dưỡng. Như vậy Chúa Giêsu còn lớn hơn một dự phóng. Ngài là lòng xót thương của Thiên Chúa được cụ thể hoá thành một ngôi vị giữa loài người. Cho nên, trong bài phúc âm hôm nay, Ngài bày tỏ cho nhân loại biết, mục tử tốt là gì? lãnh đạo trung tín là gì? và tuyển dân mới là thế nào? Ngài đã sai phái các môn đệ đi rao giảng, dậy dỗ và chữa lành trong tư thế khó nghèo cùng cực (chúa nhật tuần trước) và bây giờ họ trở về rất thành công. Họ là những mục tử kiểu mới, đúng nghĩa, thay thế cho các mục tử cũ, thối nát: “Khi ấy, các Tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy.” Nghĩa là họ đã truyền đạt cho dân chúng đúng những gì họ học được nơi Chúa Giêsu, không thêm không bớt. Họ làm tròn sứ vụ Thiên Chúa trao (bởi đã được sai đi từng hai). Lúc này họ cần nghỉ ngơi, hồi sức bên Chúa Giêsu. Dân chúng dồn dập tuôn đến nơi họ nghỉ, nhưng Chúa Giêsu trông thấy nhu cầu tái sinh của các môn đệ cần thiết hơn, nên thầy trò xuống thuyền đi đến một nơi vắng vẻ. Các môn đệ đã làm việc xuất sắc đến kiệt sức. Họ không thể tiếp tục sứ vụ nếu không được bồi dưỡng thêm nơi kho tàng vô tận của Chúa Giêsu?

Trên đất nước chúng ta nhiều linh mục, giám mục, giáo dân, cũng từng hoạt động lương thiện và cật lực như các tông đồ thưở xưa. Họ cũng đã từng là những vị thánh. Thật đáng buồn một số ít đã làm ô danh họ, nhơ bẩn danh thơm tiếng tốt của Giáo hội bằng lối sống buông thả. Điều thiệt hại lớn nhất tôi thấy được hiện nay là tiếng nói luân lý của Hội đồng giám mục Hoa Kỳ bị hạ thấp, không còn được đánh giá cao như hồi xưa nữa. Lúc trước, tiếng nói của các ngài về các vấn đề đạo đức như hoà bình, công lý, ngừa thai, phá thai, di cư, môi trường… rất nặng ký, được xã hội lắng nghe và kính nể. Nay không còn nữa. Gương xấu của số ít đó bịt miệng các ngài. Trong quá khứ, khi đi rao giảng tôi thường trưng dẫn các giám mục và uy tín của các vị về những đề tài quan trọng. Bây giờ thì thấy ít hiệu quả. Tiếng nói ngôn sứ của Hội đồng giám mục Hoa Kỳ đã bị thiệt hại năng nề vì hạnh kiểm tồi tệ của một số ít giáo sĩ. Đúng lý thì không phải như thế. Nhưng chí ít tôi cảm thấy như vậy khi giảng thuyết.

Sau khi lướt qua bài đọc 1, tôi quay về với Phúc âm, hy vọng tìm thêm được vài tư tưởng vui cho vơi bớt nỗi phiền muộn. Đúng thế, tôi nhận ta lòng thương xót kép nơi Chúa Giêsu. Thứ nhất Ngài yêu thương các môn đệ, đang mệt mỏi. Họ đã được sai đi làm tông đồ và đã hết tâm chu toàn nhiệm vụ. Lúc này họ cần trở lại vị thế học trò xin Chúa dạy bảo thêm và bồi dưỡng thêm. Để giữ được mục tiêu, lòng nhiệt thành rao giảng, dạy dỗ, chữa lành họ cần một thời gian “lánh riêng ra chỗ thảnh thơi hoang vắng và nghỉ ngơi đôi chút”. Nhưng Ngài vẫn không quên nhu cầu cấp thiết của đám đông dân chúng. Sở dĩ Chúa khuyên các môn đệ nghỉ ngơi, cũng là vì lợi ích của đám đông. Để có thể thay thế Ngài đắc lực hơn, hiệu quả hơn, các Tông đồ cần canh tân nội tâm và lấy lại sinh khí. Việc này chỉ có thể thực hiện được khi các vị tách riêng ra chỗ thanh vắng, sống mật thiết với Ngài.

Đây là bài học lớn cho các vị giảng thuyết tân thời. Điều quí vị cần làm là ngày càng qui chiếu về Chúa Giêsu qua cầu nguyện và tĩnh tâm. Không thể cứ liên tục rao giảng, bất cần những giây phút truyện vãn riêng tư với Thiên Chúa, mà có thể đạt tới thành công. Hiệu quả của quí vị phần lớn nhờ vào những giây phút cầu nguyện, sống thân mật với Thiên Chúa. Nói cho đúng, Chúa Giêsu kêu gọi tất cả chúng ta, những tín hữu của Ngài, làm mục tử cho các thế hệ mai sau, cho toàn thể nhân loại, con cháu, xóm làng. Chúng ta có trách nhiệm trên gia đình mình như những mục tử. Tất cả đều được sai đi, ăn nói và hành động nhân danh Chúa Giêsu. Cho nên tất cả đều cần những giây phút “tách riêng ra” sống mật thiết với Chúa. Toàn thể Giáo hội lúc nào cũng cần canh tân và hoán cải. Mỗi người tín hữu đều có vai trò trong công việc này, để thúc đẩy tăng trưởng thiêng liêng cho thế giới. Nghĩa là tìm ra những giây phút yên lặng với Chúa Giêsu. Bởi lẽ chỉ Ngài mới có quyền năng chữa lành và phục hồi những chi tội lỗi đã làm tổn hại. Đó chẳng phải là điều Ngài làm khi chúng ta rời bỏ công việc bận rộn thế tục để chạy đến với phép Thánh Thể? Nơi đây, Chúa Giêsu giúp đỡ chúng ta hàn gắn những vết thương chia rẽ trong Giáo hội. Nơi đây, Ngài chữa lành và nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Mình Máu Ngài. Nơi đây, chúng ta có thể trực diện với cơn bão táp tấn công Mẹ Hội thánh, làm chứng nhân cho hy vọng, cậy trông, và tiếp tục rao giảng, dạy dỗ, chữa lành mà không hổ thẹn.

Từ bài đọc 1 và 3 chúng ta học được rằng: đám dân đói khát và phân tán chẳng thể tự thân tự họp và giải quyết những nhu cầu của mình, họ cần Thiên Chúa ra tay cứu giúp. Qua tiên tri Giêrêmia Ngài ban lời hứa: “Chính ta sẽ quy tụ đàn chiên còn sót lại… Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành để lãnh đạo chúng.” Chúa Giêsu là hiện thân của lời hứa đó. Ngài không những giữ vai trò Mục Tử Tối Cao, mà còn huấn luyện các môn đệ, thay thế khi Ngài vắng bóng. Thiên Chúa không thể bỏ mặc Hội thánh tản mác, tan tác. Chúng ta phải vững tin điều ấy. Ngài sẽ làm tròn lời hứa với nhân loại. Ngài sẽ là mục tử duy nhất quy tụ chúng ta, chăn dắt chúng ta qua mọi cơn sóng gió. Cho nên hãy can đảm rao truyền cho mọi thế hệ rằng tương lai Giáo hội Hoa Kỳ và các Giáo hội khác vẫn tươi sáng ở phía trước. Amen.

Suy gẫm: Tiên tri Giêrêmia rao giảng dưới thời vua Sêđêkia. Sêđêkia có nghĩa là Thiên-Chúa-công-lý-của-tôi. Tên quá đẹp. Nhưng vua lại sống ngược với tên ấy.

 

 

 

 

 

61. Suy niệm của Fr. Jude Siciliano.

(Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)

 

CHÚNG TA LÀ TÔNG ĐỒ CỦA CHÚA.

HÃY THỰC THI SỨ VỤ CỦA MÌNH

Hôm nay chúng ta thấy toàn hình ảnh người mục tử trong Kinh Thánh. Bài thánh vịnh hôm nay tóm lược tất cả hình ảnh đó: “Đức Chúa chăn dắt tôi, tôi không thiếu gì”. Chúng ta nhớ lại Thiên Chúa không ở xa chúng ta đâu. Các động từ trong thánh vịnh diễn tả các hành động của Thiên Chúa đối với chiên như: nuôi dưỡng, chăm sóc, dẫn dắt đến nơi nằm nghỉ; ở đó Thiên Chúa khuyến khích, cho lại sức, làm an dạ, và xức đượm dầu, ban cho sức lực để tiến ra nhân danh Ngài. Như trong bài phúc âm trước bài hôm nay, Chúa Giêsu sai các môn đệ đi giảng dạy và chữa lành. (Mc 6:7-13)

Các lãnh đạo của dân Israel trước kia, các vua chúa, phải là mục tử của của dân. Họ phải là hình ảnh của Thiên Chúa, mục tử của Israel. Ngôn sứ Giêrêmia khiển trách các vua Israel lúc bấy giờ không làm đủ trách nhiệm vụ của họ với dân Giuda. Sự suy đồi của họ đã gây nên vụ tàn phá Giêrusalem và dân bị bắt đi lưu đày qua Babylon là một hình phạt.

Giêrêmia nhắc cho dân chúng biết là Thiên Chúa không quên họ, và Ngài sẽ đem họ trở về quê quán. Khi nào có một người tự gây đời sống hư hỏng thì người đó nghĩ là họ bị Thiên Chúa trừng phạt. Họ nghĩ họ không còn liên hệ với quá khứ, và cảm thấy như bị tù đày, không còn quê quán nữa như dân Israel ở Babylon. Họ cũng cảm thấy xấu hổ khi họ nghĩ đến Thiên Chúa, và bởi đó họ ngần ngại xin ơn tha thứ.

Những ai trong chúng ta có cảm nghiệm bị tù đày cách này hay cách khác, mặc dù chúng ta nghĩ chúng ta ra thế nào đi nữa, hay chúng ta cảm thấy ân hận về việc đã làm hay quên làm, chúng ta nên suy ngẫm lời ngôn sứ Giêrêmia. Nếu đặt trường hợp chúng ta là Thiên Chúa có lẽ chúng ta sẽ buông thả và chẳng muốn thay đổi. Nhưng chúng ta không phải là Thiên Chúa, và Giêrêmia nhắc chúng ta là Thiên Chúa, Đấng chăn dắt chúng ta, đã đi tìm kiếm thâu gom chúng ta về nhà. “Chính Ta, Ta sẽ tập hợp số còn sót của đàn chiên Ta từ mọi nơi. Ta đã xua chúng đến. Và sẽ đem chúng về đồng cỏ của chúng.” (Gr 23:3).

Và hơn nữa, một khi Thiên Chúa đã đem chúng ta về, Thiên Chúa sẽ ở với chúng ta, và gìn giữ chúng ta khỏi sợ hãi, nhát đảm, hay mất mát “Ta sẽ cho chổi dậy những mục tử coi chúng” (Gr 23:4). Thiên Chúa sẽ không để chúng ta tản mát và lạc lỏng giữa nơi hoang địa. Bài phúc âm hôm nay chứng tỏ lời hứa của Giêrêmia là sự Thiên Chúa lo lắng cho chúng ta đã hiện thể qua Chúa Giêsu, Vị Mục Tử của chúng ta.

Vì sao lại có người bỏ quê hương để đi tìm hơi hoang vắng? Ngay cả bây giờ, vì sao có người sau một ngày làm việc cực nhọc, lại đi tìm nơi ăn uống, bỏ nhà để đến nhà thờ giáo xứ để học về Kinh Thánh, hay về tông thư mới của Đức Giáo Hoàng, hay dự buổi giáo lý tân tòng v.v… Chúng ta có thể không đến nơi “hoang vắng theo nghĩa trừu tượng”, Nhưng chúng ta cũng như đám đông dân chúng trong phúc âm hôm nay: chúng ta khát khao, chúng ta muốn biết rõ nhiều hơn về Chúa Giêsu. Như Ngài đã làm cho dân chúng lúc bấy giờ, Ngài thu hút chúng ta đến với Ngài để Ngài giảng dạy. Điều chúng ta học hỏi thêm không phải chỉ về Ngài. Lý do thúc đẩy chúng ta đi tìm hiểu về Chúa Giêsu mà chúng ta biết bởi lời nói và hành động của các môn đệ thời nay, những Kitô hữu tầm thường như chúng ta, được giao trách nhiệm rao giảng và hành động nhân danh Chúa Giêsu.

Về cách kêu gọi, trong những đoạn sách khác của phúc âm thánh Máccô, những người theo Chúa Giêsu được gọi là “môn đệ”. Nhưng hôm nay họ được gọi là “Tông Đồ”. Đây là chỗ độc nhất trong phúc âm Máccô, họ được gọi như thế. Vậy điều gì làm cho lời mời gọi đó đặc biệt? Vì họ vừa trở về sau khi Chúa Giêsu sai họ đi rao giảng. Trước đó Chúa Giêsu sai họ đi từng hai người một (Mc 6:7-13) và cho họ quyền giảng dạy và chữa lành. Trong khi chúng ta theo Chúa Giêsu, chúng ta là “môn đệ”. Khi chúng ta được sai đi giảng dạy và chữa lành thì chúng ta được gọi là “Tông Đồ”.

Chúa Giêsu đem các Tông Đồ trở về ra “nơi thanh vắng”. Chúng ta nhớ là sau khi Thiên Chúa cứu dân Israel ra khỏi nơi tù đày ở Ai Cập, Thiên Chúa dẫn họ ra nơi thanh vắng và cho họ thức ăn và nước uống. Và hơn nữa, trong nơi thanh vắng Thiên Chúa mặc khải chính Ngài cho họ và làm lời giao ước muôn đời với họ. Bây giờ Chúa Giêsu làm việc Thiên Chúa đã làm cho dân Ngài trong nơi thanh vắng. Chúa Giêsu dạy các ông “nhiều điều”. Nhưng điều này không có ý nghĩa là Chúa Giêsu giảng dạy lâu dài, buồn chán. Trái lại, Ngài dạy các ông như Ngài thường dạy “nhiều điều” về tình thương yêu và lòng lo lắng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Rốt cuộc mục tử sẽ giảng dạy và dẫn dắt dân Thiên Chúa.

Chúng ta cũng được mời gọi dạy dỗ như: phụ huynh, giáo chức, bạn bè, người dạy giáo lý và làm gương tốt. Chúng ta có rất nhiều dịp chia sẻ những hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa với những người cảm thấy họ đang ở “nơi thanh vắng” của họ, là nơi họ chán nản. do dự, buồn phiền, thiếu đức tin, nghèo nàn, thất nghiệp, mất người thân thương v.v… Nhiều người cảm thấy đang sống nơi “thanh vắng” tìm đến chúng ta để được cảm thấy sự lo lắng của Chúa Giêsu như Ngài đã lo lắng cho những ai như “các chiên không có người chăn dắt”. Tự chúng ta, chúng ta không đủ sức đáp ứng cho nhu cầu của họ. Nhưng, cũng như các Tông Đồ đầu tiên, chúng ta không tự làm một mình. Chúng ta đã được sai đi với quyền lực mà Thần Linh Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Chúng ta lãnh nhận Thần Linh đó qua Bí tích rửa tội, và giờ đây chúng ta nên nhớ là chúng ta được sai đi để làm Tông Đồ của Chúa Giêsu.

 

 

 

 

 

62. Suy niệm của Fr. Jude Siciliano.

 

Xin nhớ nằm lòng rằng, mỗi khi nghe đọc Phúc âm thánh Maccô kể về việc Chúa Giêsu đặt chương trình cho các môn đệ một vài giây phút thinh lặng nghỉ ngơi, thì y như rằng Ngài thất bại. Dân chúng sẽ tuôn đến xin thoả mãn các nhu cầu của mình, đến nỗi các ngài chẳng còn thời giờ ăn uống. Phúc Âm hôm nay ký thuật: “Người bảo các ông: Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông nên các ông chẳng còn thời giờ ăn uống nữa. Sự kiện này tiếp theo Phúa Âm tuần trước: “Khi ấy, Đức Giêsu gọi nhóm 12 lại và bắt đầu sai đi từng hai người một, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế”. Như vậy các tông đồ thành công lớn khi làm theo chỉ thị của Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời trong nghèo khó và khiêm nhường. Chẳng hiểu ngày nay chúng ta có thể gặt hái kết quả tốt đẹp như các ông khi dùng những sa hoa nhung lụa mà công bố Nước Thiên Chúa? Xin nhớ, nội dung các ông rao giảng là lòng ăn năn sám hối vì Nước Trời đang đến gần. Nếu Nước Trời là bản thân Chúa Giêsu thì việc sám hối để đón tiếp Ngài quả là cần thiết. Chẳng hiểu quí vị giảng thuyết tân thời ý thức được điều đó? Và nhận ra tầm quan trọng của khổ chế để tiếp nhận Chúa Giêsu?

Thực tế, Tin Mừng Marco không phải là Tin Mừng của nghỉ ngơi. Chúa và các tông đồ luôn luôn bận rộn tiếp đón thiên hạ và thoả mãn các đòi hỏi của họ. Xem ra Phúc Âm mới được viết cách nay không lâu. Có lẽ ngày hôm qua, vì nghe như Phúa Âm tân thời về các môn đệ tân thời! Nhu cầu thì quá nhiều mà khả năng có giới hạn, không đủ để giải quyết mọi chi tiết. Ngoài ra, cuộc sống quá nhiều cám dỗ khiến chúng ta phân tán nghị lực, phân tán tài năng, trí tuệ, không nhận định nổi đâu thực quan trọng, đâu không. Chúng ta vùi đầu vào công việc, quên mất ơn gọi thực của mình. Đúng vậy, dù là chủ chăn, người giúp việc, hội đồng Giáo xứ, tình nguyện viên đều rất bận rộn, rất lu bu. Hoàn cảnh giống như của Chúa Giêsu và các môn đệ trong Phúc Âm hôm nay. Nếu vậy thì xin đọc và suy gẫm Phúa Âm Marco để tìm ra phương hướng cho cuộc đời mình.

Khi đọc kỹ Tin Mừng theo thánh Marco người ta nhận ra những luận đề và đặc tính văn chương trong đó. Nó là Phúc Âm ngắn nhất, nhiều hành động nhất, cho nên người ta đoán là Phúc Âm được viết sớm nhất. Nó có một dàn bài rõ ràng. Tức Chúa Giêsu và các môn đệ làm một cuộc hành trình lên thành thánh Giêrusalem. Ở đấy, Ngài sẽ gặp chống đối, hành xích, khổ nạn, chịu chết và sống lại. Nhưng hiện thời, các ngài còn đang trên đường đi. Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ, chỉ thị cho các ông những việc phải làm, những điều nên giữ. Ngài được đám đông hồ hởi đón tiếp vì giáo lý và các phép lạ. Tin Mừng hôm nay ở vào giai đoạn này. Ngài chưa vào thành thánh Giêrusalem. Như vậy số phận Chúa Giêsu đã được hoạch định sẵn.

Trên đường đi, Ngài sai các môn đệ thực hiện những công việc mà Ngài đang làm, tức rao giảng Nước Trời, chữa lành mọi bệnh tật, và khu trừ ma quỉ. Đọc Tin Mừng người ta nhận ra việc này nối tiếp việc khác rất mau lẹ. Người ta có cảm tưởng như công việc xô đẩy nhau dồn dập và sự hiện diện của Chúa Giêsu là cần thiết. Các môn đệ bận rộn với những sứ vụ Chúa sai khiến. Cho nên các ông cần chút nghỉ ngơi và thư giãn. Người ta cũng có thể đoán ra Chúa muốn tụ họp các ông để ban thêm giáo huấn và kiểm tra công việc. Ngài cũng muốn cho họ, bằng kinh nghiệm, nhận ra những bổn phận làm môn đệ Ngài, chứ không phải sự chấp nhận của đám đông. Đó là rao giảng, thánh giá, đau khổ, hy sinh. An nhàn, danh tiếng, địa vị, tiền bạc không thuộc phạm trù của chức vụ này. Những ai theo đuổi con đường đó là hoàn toàn sai lầm.

Cho nên từ chối Thánh Giá trong sứ vụ rao giảng là từ chối làm môn đệ Chúa. Mặc dầu tự phong danh nghĩa nào đi nữa: linh mục, tu sĩ, giáo dân. Chúng ta đừng lừa dối thiên hạ, nhưng nên sống thực với ơn gọi của mình. Các tông đồ ngày xưa cũng đã thất bại. Khi Chúa gặp gian nan khốn khó, gặp Thập giá và cái chết, họ đã trốn đi hết thảy, ngoại trừ một mình Gioan. Nếu không xin ơn Chúa trợ giúp làm sao chúng ta đứng vững? Thánh Marco viết Phúa Âm để nhắn nhủ cộng đoàn của ông cũng đang phải đối mặt với bách hại. Chúng ta ngày nay, đừng cậy nhờ vào sức riêng. Nhưng vào sức mạnh của Thiên Chúa. Đừng lượng định thành công hay thất bại theo tiêu chuẩn nhân loại, nhưng của Đức Chúa Trời. Có lẽ cũng vì lý do này, mà Chúa Giêsu kéo các môn đệ ra khỏi vinh quang thế tục, đẩy họ vào suy gẫm chức vụ làm môn đệ Ngài. Đây cũng là bài học cho chúng ta. Nên chăng chúng ta cũng cần rút lui khỏi những bận rộn, những náo nhiệt của công việc để định giá lại chức vụ làm môn đệ Chúa? Chúng ta đã chu toàn ơn gọi ra sao? Chăm lo những bổn phận tông đồ thế nào? Phải chăng chúng ta đã bỏ bê công việc chính yếu, lo toan những chuyện phụ thuộc? Sao lãng đời sống siêu nhiên và dồn tâm trí, nghị lực vào hoạt động trần thế? Phải chăng chúng ta đã bỏ quên các kẻ cần săn sóc mà ngao du với giàu sang phú quí? Những nhu cầu của Giáo hội mà lo toan sự đời? Những địa chỉ cần đến để rong chơi thoả tình? Những học hành cầu nguyện để dán mắt vào vi tính, ti vi? Nhiều câu hỏi tương tự cần chúng ta nghiêm chỉnh trả lời để bày tỏ chức vụ làm môn đệ của mình. Nếu không chúng ta chẳng thua kém các kẻ giả hình? Những chức sắc của Satan? Những Pharisêu tân thời? Lúc đó, đáng phàn nàn biết mấy?

Đối với những ai tự mãn cho rằng mình đi đúng hướng, phục vụ Giáo hội đúng nơi, đúng chỗ và sẽ tiếp tục làm như vậy, thì xin nhớ rằng Chúa Giêsu đã gom các tông đồ lại như chủ chiên coi sóc đoàn chiên để bồi dưỡng các ông, ban cho cơ hội nghỉ ngơi, dưỡng sức và suy tư về ơn gọi. Ngài cũng muốn những kẻ theo Ngài hành động tương tự. Nghĩa là chúng ta phải có những giây phút nhàn rỗi, lánh riêng ra nơi cô tịch, những hoang địa của cõi lòng. Nơi đó không còn bị phân tán vì những công việc hành ngày. Chúng ta có đủ khả năng và thời gian hội tụ vào điều Chúa muốn. Bữa ăn Thánh Thể và Lời Chúa là những thứ mà Ngài cần chúng ta chú ý. Chắc chắn trong địa phận, nhà xứ có những trung tâm tĩnh huấn và bồi bổ tâm linh. Những ai có điều kiện thì đến những địa điểm chuyên môn, ở đấy đủ để thăng tiến đời sống thiêng liêng. Đó là điều cần thiết cho mỗi linh hồn theo chân Chúa.

Hôm nay Chúa trông thấy đám đông lớn và Ngài quyết định nuôi dưỡng họ bằng Lời Hằng Sống. Phúc Âm kể: “Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Bằng mấy câu này, thánh Marco cho hay Chúa có thể thoả mãn họ. Tuần tới Phụng vụ thuật lại việc Chúa nuôi sống năm ngàn đàn ông với hai con cá nhỏ và năm ổ bánh. Như vậy, Chúa nuôi dưỡng chúng ta cả phần hồn lẫn phần xác. Rõ ràng Chúa nhận ra đám đông đói khát và bơ vơ như chiên cừu không có người chăn. Ngài đứng ra đảm nhận nhiệm vụ và truyền lại cho chúng ta ngày nay. Chúng ta phải bắt chước Ngài lo tròn bổn phận. Nếu không chúng ta chẳng xứng đáng danh nghiã của mình. Thực ra, đám đông này vào thời buổi ấy là những dân quê mùa, dốt nát, nghèo khổ, bị nhiều tầng lớp áp bức, quyền đời cai trị, quyền đạo cho là nhơ bẩn. Họ chẳng biết cậy dựa vào đâu. Thánh Marco mô tả: “Họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Cho nên họ ùa nhau theo Chúa Giêsu. Hy vọng Ngài sẽ giải thoát khỏi tình trạng bơ vơ và áp bức này.

Nhìn kỹ vào Phúc Âm, chúng ta nhận ra: lòng thương cảm của Chúa Giêsu luôn hướng về những hạng người bất hạnh, đui mù, què quặt, yếu đau, bệnh hoạn, bất lực không cứu nỗi mình. Ngài sẵn sàng giơ tay nâng đỡ và chữa lành. Nhưng tình trạng của đám đông hôm nay khốn đốn hơn là đớn đau phần xác. Họ cần nhận biết Chúa Giêsu và luôn ở với Ngài như một sức mạnh che chở. Chúng ta nghĩ thế nào về các giáo dân nghèo nàn trong các giáo xứ. Liệu chúng ta có tâm hồn như Chúa Giêsu bênh đỡ chở che họ? Hay vùi dập, cấm đoán, uy quyền trên họ? Thực tế thì vế thứ hai của câu văn là phổ biến. Xin nghĩ lại thái độ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: Ngài đích thân dạy dỗ và nuôi dưỡng đám đông.

Cho nên lời hứa của tiên tri Giêrêmia trong bài đọc một được ứng nghiệm từng chữ: “Chính Ta sẽ qui tụ đàn chiên Ta còn sót lại từ mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng. Chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện mục tử để chăn dắt chúng. Họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa”. Thiên Chúa đã gởi vị mục tử Giêsu Kitô mà trái tim luôn thương cảm những ai nghèo khổ tan tác như thánh Marco mô tả hôm nay. Người mục tử này không hề bỏ mặc ai mồ côi, nhưng luôn giơ tay nâng đỡ, ủi an và cứu thoát. Không hiểu từ tạo thiên lập địa đến nay có ai bị Ngài xua đuổi? Hơn nữa, Ngài còn hành động qua các môn đệ. Trước đoạn Phúc Âm này là việc ông Gioan bị vua Hêrôđê chém đầu. Đây là mối đe doạ trực tiếp cho Chúa Giêsu và báo trước Ngài cũng sẽ chung số phận. Các môn đệ sẽ tiếp tục công việc của Ngài. Họ sẽ chẳng thể hành động cậy nhờ vào sức riêng, bởi họ sẽ chạy trốn tan tác trước cái chết của Ngài. Chỉ sau khi sống lại, Ngài ban Thánh Thần cho, họ mới đủ can đảm làm chứng về Ngài. Lịch sử đã chứng minh chân lý ấy. Vậy chúng ta nên suy gẫm thấu đáo bài học, đừng nông nỗi tự cao tự đại, kẻo ra vẻ ngốc ngếch.

Khi chứng kiến đám đông tuôn đến làm vỡ kế hoạch nghỉ ngơi bồi dưỡng, Chúa Giêsu không phản ứng giận dữ. Trái lại Phúc Âm kể: “Ngài chạnh lòng thương”. Bởi thấy rõ tâm tư nguyện vọng và hoàn cảnh của họ. Phần tôi, tôi không thích cụm từ: “Chạnh lòng thương”. Nó xem ra là thái độ kẻ cả. Chắc chắn Chúa không có thái độ ấy. Không hiểu nguyên văn là chữ gì. Chúng ta chỉ có bản dịch nên tạm chấp nhận. Nhưng khi đọc mấy dòng kế tiếp, chúng ta cảm tưởng Ngài chăm sóc đám đông chứ không trịch thượng: “Họ chẳng phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”. Đúng là giọng điệu quan tâm đến nhu cầu đám đông giống như chúng ta xúc động bởi các khó khăn của hàng xóm láng giềng. Khi nghe hay xem thấy các khốn đốn ấy, chúng ta cảm thấy xót xa mà xả thân cứu giúp. Sự giúp đỡ này hoàn toàn vô tư, không vì động lực ích kỷ nào. Nó bẻ gãy mọi rào cản giai cấp, sắc tộc, ngôn ngữ, giới tính, văn hoá, kinh tế. Chúng ta cảm thấy mủi lòng mà giơ tay cứu giúp. Tuy nhiên như vậy chúng ta liên kết với Thiên Chúa, Đấng là tình thương vươn tới mọi loài, mọi vật. Ngài dựng nên vũ trụ không phải để ghét bỏ, nhưng săn sóc, giữ gìn. Chính trong công việc này mà vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện. Cứ như chương trình ban đầu, các môn đệ tụ họp là để nghỉ ngơi giải trí sau cuộc hành trình rao giảng mệt nhọc. Thầy trò ngồi lại ở nơi vắng về mà nghe Chúa dạy bảo. Nhưng các môn đệ lại học một bài học hoàn toàn ngoài dự định. Họ mục kích Thầy mình tự phát đáp ứng nhu cầu của đám đông, không ta thán, không phiền lòng. Chắc chắn, họ sẽ nhận được bài học phục vụ bằng hành động chứ không phải lời nói. Họ nhớ lại bài học này mỗi khi thi hành sứ vụ. Đừng rao giảng suông bằng lời nói vu vơ. Nhưng bằng gương sáng đời mình.

Điều cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay khá tế nhị. Suốt trong mạch văn, từ khởi thuỷ đến bây giờ, các người theo Chúa Giêsu, chỉ được thánh sử gọi là “môn đệ”. Lúc này, lần đầu tiên ông gọi họ là “tông đồ” và cũng là lần sau hết. Tên mới gói ghém ý nghĩa mới, tương quan mới với Chúa Giêsu. Họ sẽ được Chúa sai đi rao giảng Nước Trời trong phong cách mới như Phúc Âm mô tả. Liệu chúng ta chịu đựng được phong cách ấy không? Xin trả lời cho minh bạch xem thế nào! Amen.

 

 

 

 

 

63. Người chạnh lòng thương

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.

Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.

Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).

Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).

Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.

 

 

 

 

 

64. Đức Giêsu, các Tông Đồ và dân chúng

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

 

1.- Ngữ cảnh

Đức Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai và sai đi từng hai người một (6,7.12). Bản văn hôm nay tường thuật việc các ông trở về báo cáo công việc đã làm với Thầy. Để chu toàn được sứ mạng Đức Giêsu giao là loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa và đuổi được ma quỷ, các ông phải chấp nhận định mệnh của Gioan Tẩy Giả (đó là lý do khiến tác giả đã tháp truyện Gioan bị trảm quyết vào giữa đoạn văn về sai phái đi và trở về báo cáo kết quả; (x. 6,17-29).

Trong đoạn văn này, chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc: Đức Giêsu là Thầy nhắc nhở các môn đệ (c. 31), rút về nơi thanh vắng (1,35.45), đám đông kéo tới, chiếc thuyền (2,2; 3,7t.20; 4,1t). Sự kiện cả Nhóm không có giờ ăn uống đã được nói đến ở 3,20.

Nếu đặt bản văn này trong tác phẩm Mc, ta thấy đây chính là phần mở cho biến cố Đức Giêsu làm cho bánh hóa nhiều mà nuôi đám đông dân chúng (6,34-44).

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành hai phần:

1) Đức Giêsu và các Tông Đồ (6,30-32);

2) Đức Giêsu và đám đông dân chúng (6,33-34).

3.- Vài điểm chú giải

– Các Tông Đồ tụ họp quanh Đức Giêsu (30): Không phải là chuyện tình cờ nếu khi đi rao giảng về, Nhóm Mười Hai được nhận danh hiệu “tông đồ” (và trong TM II thì chỉ ở đây mà thôi). Danh hiệu này tăng cường thêm cho dây liên kết giữa đoạn văn này với đoạn văn kể lại việc Đức Giêsu sai phái các ông đi rao giảng. Chính là trong tư cách “tông đồ”, nghĩa là những người được Đức Giêsu giao phó sứ mạng tiếp nối công trình của Người, mà các ông tái xuất hiện.

– và kể lại… mọi điều các ông đã làm… đã dạy: Họ báo cáo đúng theo hai phương diện của hoạt động được giao (x. 6,12-13): rao giảng – trừ quỷ và chữa bệnh (x. thêm 6,7-11; 3,14-15). Hai phương diện này đã được minh hoạ trong hoạt động của Đức Giêsu (1,21-27; ch. 4–5; 6,1-6). Sứ vụ của Nhóm Mười Hai được đồng hoá với sứ vụ của Đức Giêsu và nối dài sứ vụ của Người.

Đây là chỗ duy nhất mà tác giả xác định là Nhóm Mười Hai “đã giảng dạy” (edidaxan). Ngài thường dùng động từ “công bố” để nói về các ông này hơn (kêryssein: 3,14; 6,12; 13,10; 14,9). Trong từ vựng của ngài, có một sắc thái phân biệt hai từ này: việc công bố đi trước việc giảng dạy (so sánh 1,14 và 21). Tuy nhiên, không nên đối lập hai từ này y như thể là hai sinh hoạt hoàn toàn tách biệt; khó mà làm việc này nếu không có việc kia. Dù sao, lời nhắc đến việc giảng dạy của Nhóm Mười Hai ở đây vẫn đáng lưu ý, vì tại đây tác giả đang nêu bật hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu (6,6b.34). Ngài muốn nói: hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu được nối tiếp nơi hoạt động giảng dạy của Nhóm Mười Hai.

– Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi đôi chút (31): Câu này hẳn là có ý giải thích việc ra đi đến nơi thanh vắng để rồi tại đó, xảy ra cuộc gặp gỡ với năm ngàn người. Câu này hẳn cũng cho phép liên kết việc sai phái Nhóm Mười Hai và cuộc trở về của họ với cuộc gặp gỡ của vị Mục Tử với đàn chiên bơ vơ. Tuy nhiên, câu này cũng có những chi tiết đáng quan tâm: một đàng, sự tha thiết được nêu bật bằng việc lặp lại: “lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng” (cc. 31-32). “Lánh riêng ra” (kat’idian) là một nét riêng của Mc (x. 7,33; 4,34; 9,2.28; 13,2). Đức Giêsu tạo cơ hội cho Nhóm Mười Hai được “ở với Người” (3,14), xa đám đông, và để được sai đi.

Đàng khác, lời đề nghị của Đức Giêsu hàm ý Người muốn các tông đồ có cùng một nhịp sinh hoạt (hoạt động nơi dân chúng – sống cô tịch) như Người. Các ông được mời bắt chước Người tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, mà cầu nguyện, sau khi đã hoạt động rao giảng. Phải chăng đây là điều tác giả muốn diễn tả qua dụ ngôn hạt giống tự mọc một mình (4,26-29)?

– chạnh lòng thương (34): Động từ splanchnizomai (x. 1,41) diễn tả một tâm tình sâu xa động chạm đến lòng dạ (ta splanchna) và được biểu lộ ra bằng một hành vi đặc biệt chiếu cố đến một ai đó (x. Mt 18,27; Lc 15,20; 10,33).

– vì họ như bầy chiên không người chăn dắt: Câu này gợi nhớ đến hoàn cảnh nguy hiểm hoặc đáng thương của dân Chúa khi thiếu vắng thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho kẻ thù xâu xé (1 V 22,17; 2 Sb 18,16), bị vua chúa coi thường và bỏ rơi (Ed 34,5), lang thang, lạc lõng, bơ vơ không người chăn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7). Dường như bản văn Mc gần với Ds 27 và Ed 34 hơn, vừa về giọng văn vừa về đề tài. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết, đã xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh thay thế ngài dẫn dắt cộng đồng dân Chúa đi trong hoang địa; thế mà bản văn Mc đây đang nhắc nhớ đến Môsê và các lương thực nhiệm mầu của Ít-ra-en trong hoang địa. Còn lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng chính Thiên Chúa sẽ săn sóc đoàn chiên Ngài (c. 11), cho chúng được ăn trong đồng cỏ mầu mỡ (c. 14), cho chúng nghỉ ngơi (cc. 14-15) và đặt một mục tử dẫn dắt chúng (c. 23). Xem Tv 22/23.

Nhiều chi tiết trong bài tường thuật liên hệ đến những đoạn văn đó: sự ân cần của Đức Giêsu, sự nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm cho môn đệ, đám đông qui tụ lại, bữa ăn trên cỏ xanh, lương thực dồi dào… Đây là những gợi ý cho hiểu Đức Giêsu chính là vị Mục tử thiên sai. Khi nhận xét rằng Đức Giêsu “chạnh lòng thương”, bản văn đã đề cao phẩm chất của vị Mục tử thiên sai.

– và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Điều đáng ngạc nhiên là Đức Giêsu giảng dạy để bày tỏ lòng thương xót! Các bản văn Mt và Lc dường như hợp lý hơn: Đức Giêsu chữa các bệnh nhân hoặc nếu có giảng dạy thì không phải vì thương xót. Vả lại công việc của người mục tử không phải là dạy dỗ, mà là nuôi dưỡng đoàn chiên.

Thật ra, ở đây cũng như tại những nơi khác (x. 1,21; 2,13; 6,2; 10,1), tuy không cảm thấy phải nói về nội dung của lời Đức Giêsu giảng dạy, Mc vẫn sử dụng danh từ “lời giảng dạy” và động từ “giảng dạy” nhiều hơn Mt. Bởi vì điều ngài quan tâm không phải là nội dung lời giảng, mà là chính hoạt động giảng dạy, vì hoạt động này biểu lộ chân tính của Đức Giêsu. Bằng lời Đức Giêsu giảng dạy và đánh tan quyền lực của Satan, Thiên Chúa hành động để thiết lập Triều Đại của Ngài. Vậy, trong tư cách Mục tử thiên sai, khi giảng dạy, Đức Giêsu chứng tỏ uy quyền. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ xa xưa, nay Đức Giêsu đến để dùng lời nói mà qui tụ, để làm no thoả đàn chiên bơ vơ.

Thật ra, có nhiều bản văn Kinh Thánh nối kết việc mạc khải Lời Chúa với ân ban các lương thực thiên quốc (x. trường hợp Môsê: Kn 16,28; Nkm 9,13-15; Tv 118/119,131.176; Tv 94/95,7-8.11; TM Ga nối bài tường thuật về việc hoá bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ về Bánh ban sự sống (6,26-58).

Cũng có thể giải thích bản văn Mc dựa theo sinh hoạt Giáo Hội: hẳn là Mc đã dựa vào nếp sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, trong đó việc giảng dạy và bẻ bánh đi đôi với nhau và hỗ trợ cho nhau (x. Cv 2,42; 20,7; Lc 24,25-32).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu và các tông đồ (30-32)

Cần phải hiểu cách thức Đức Giêsu xử sự với dân chúng trong quan hệ với sự ân cần Người tỏ ra với các môn đệ.

Trong TM Mc, quan hệ của Đức Giêsu với đám đông dân chúng luôn luôn xảy ra có sự chứng kiến của Nhóm Mười Hai hoặc của một vài người của Nhóm. Song song với việc giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu có dành cho Nhóm Mười Hai một lối giảng dạy riêng (4,1-34; x. cc. 10-25.34).

Kể từ sau khi các môn đệ đi sứ vụ trở về (6,30), Đức Giêsu đã làm một loạt những hành vi và ban những lời giảng dạy dành riêng cho họ. Nếu Đức Giêsu có giảng dạy và nuôi dưỡng đám đông, thì theo TM II, dấu lạ này lại được dành cho các môn đệ, chỉ có điều là họ không hiểu thôi (6,52). Nếu Đức Giêsu có tranh luận về sự thanh sạch của lương thực và về truyền thống với người Pharisêu (7,1-16), chính là để soi sáng cho các môn đệ đang ở riêng một nơi (7,17-23). Vào cuối phần đoạn nói về các cuộc hoá bánh ra nhiều, những lời Người trách các môn đệ (8,14-21) chứng tỏ đấy là một mạc khải được dành riêng cho các ông. Câu truyện Đức Giêsu chữa một người mù (8,22-26) được đặt giữa những lời trách mắng này và lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, sẽ là một bước dứt khoát hướng về chỗ hiểu biết Người chính xác hơn.

* Đức Giêsu và đám đông dân chúng (33-34)

Theo Mc, Đức Giêsu có sức thu hút phi thường đối với dân chúng ngay khi Người xuất hiện (1,33). Người có rút lui vào nơi thanh vắng cũng không tránh khỏi dân chúng (1,45). Dân chúng từ khắp nơi tuốn về, chen chúc, xô đẩy Người, khiến Người không còn thì giờ để ăn uống với môn đệ nữa (2,2.13; 3,7-9.20; 5,21.24; 6,54-56; 9,15; 10,1.46). Dọc theo quyển Tin Mừng, ta thấy dân chúng luôn luôn tỏ ra có thiện cảm với Người, cho đến khi họ bị các thượng tế lèo lái trong cuộc xử án tại toà Philatô (15,11). Không bao giờ Đức Giêsu xua đuổi họ, cho dù đôi khi Người tìm cách tránh họ (7,24.33; 9,30). Có khi Người còn gọi họ lại (7,14; 8,34). Sự hiện diện hoặc vắng mặt của đám đông không phải là không có ý nghĩa. Theo Mc, cách thức Đức Giêsu đối xử với đám đông biểu lộ một phương diện cốt yếu thuộc sứ mạng Người. Đó đặc biệt là trường hợp ở đây, khi mà đám đông kéo đến bất ngờ, và Đức Giêsu thì muốn tránh.

+ Kết luận

“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” là hoạt động Thiên Chúa đang được thể hiện giữa loài người hôm nay. Tin Mừng này nhắm đạt đến mọi người, nhờ sứ vụ các tông đồ. Xuyên qua sứ vụ này, chính lòng thương xót của Đức Kitô, đức ái của Người, chiếu cố đến mọi người. Khi suy gẫm về sự hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ ở thời kỳ khai nguyên Tin Mừng, Mc chạm đến thực tại sâu xa của Giáo Hội, trách nhiệm của Giáo Hội, đòi hỏi mà Giáo Hội phải đáp ứng bằng sứ vụ loan báo Tin Mừng.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Các Tông Đồ “tụ họp” chung quanh Thầy và đánh giá về công việc với Người chính là hình ảnh của cộng đoàn vẫn liên lạc thường xuyên với Đức Chúa của mình. Người ta có thể làm một công việc mà trước đó không xác định được là việc gì chăng? Và khi đã làm xong công việc được giao phó, người ấy lại không phải đến gặp ông chủ vào báo cáo về công việc đó sao? Đây là một lưu ý được gửi đến cho cộng đoàn Kitô hữu: coi chừng có thể lấy những quyết định mà không quy chiếu về Lời của Thầy. Bất cứ khi nào cộng đoàn Kitô hữu lấy các quyết định mà không quy chiếu về Tin Mừng, họ rất có thể sẽ theo lô-gích loài người và chỉ nhìn công việc dưới những nhãn hiệu như là uy tín, thành công và danh giá.

2. Khi khuyên các môn đệ đi đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, Đức Giêsu đã làm một cử chỉ rất nhân bản, Người đã tỏ ra là một vị Thầy quan tâm đến mọi phương diện thuộc đời sống các môn đệ: có phương diện thiêng liêng, và cũng có những nhu cầu thể lý. Đấy là một tấm gương cho tất cả những ai có trách nhiệm về những người khác. Ngoài ra, trong Cựu Ước, lòng từ bi thương xót là một phẩm tính của Thiên Chúa; qua thái độ của Đức Giêsu, ta thấy được lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với loài người. Bất cứ ai có vai trò “mục tử” (cha xứ, bề trên, cha mẹ…) đều được mời gọi bắt chước Đức Giêsu về phương diện này.

3. Đức Giêsu thương xót đám đông, và việc Người đã làm là ngồi xuống, lắng nghe họ và cố gắng hiểu các vấn đề của họ, rồi dùng thì giờ mà giảng dạy họ. Khi đưa Nhóm Mười Hai vào sứ vụ này, Đức Giêsu đã thật vất vả mới mở mắt các ông ra được, thì chắc hẳn không người môn đệ nào hôm nay muốn thực tập đời Tông Đồ mà lại miễn chuẩn cho mình khỏi phải ở với Đức Giêsu, nhìn ngắm Người, bước theo Người và cứ thường xuyên bị Người ngăn cản trong những kế hoạch theo lô-gích loài người.

 

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ