Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 57

Tổng truy cập: 1364793

CHUYỆN BIẾT RỒI VẪN CỨ NÓI

CHUYỆN BIẾT RỒI VẪN CỨ NÓI

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Tiền, bạc, của cải, một đề tài mà tín hữu Kitô dường như nghe đã quá nhiều. Oái ăm thay, những người thường lên giọng về đề tài của cải, tiền bạc thì hầu như ít bị chi phối bởi đồng tiền bát gạo kiểu cảnh “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” hay ‘dãi dầm mưa nắng’ để có cái lót dạ và sinh hoạt cho bản thân và gia đình.

Cuộc đời thật lắm điều trớ trêu. Chuyện nghịch lý như không còn là chuyện lý thuyết. Người hô hào “vô sản” thì của tiền hằng hà vô số. Người cam kết sống khó nghèo thì thật khó mà nghèo. Người chủ trương duy vật thì rất chi là chủ quan, duy ý chí, lại còn mê tín đủ điều. Người mong được rỗi linh hồn thì quá lo lắng chuyện nhà cửa, tiện nghi vật chất, cơ sở… Dù nghịch lý hay trớ trêu, thì chúng ta cũng phải đối diện với Lời hằng sống truy vấn chúng ta về thái độ của chúng ta với của cải, bạc tiền.

Ngài Côhêlét lớn tiếng: “Phù vân trên mọi phù vân, tất cả đều là phù vân”(x.Gv 1,2). Của cải, bạc tiền thảy đều chóng qua như gió thổi, như mây nổi, như chim bay. Thưa Ngài Côhêlét: Phù vân đây, chóng qua đấy, nhưng cuộc đời này không thể thiếu gió, vắng mây. Hễ bắt tay làm việc gì, dù lớn nhỏ, dù xây Nhà Thờ, nhà xứ hay lo cho con cái sắp vào niên học mới… thì thảy đều phải bước qua ngưỡng cửa “đầu tiên” là “tiền đâu?” Phù vân mà rất thân thiết, vì đồng tiền dính liền khúc ruột.

Thánh Tông đồ dân ngoại nói với tín hữu Côlôxê rằng hãy hướng lòng trí đến những gì thuộc về thượng giới và đừng chú tâm đến những gì thuộc về hạ giới. Thưa thánh nhân: “đói thì đầu gối phải bò”; “có thực mới vực được đạo”… Đôi tay ngài đã không từng sần sùi, chai sạm với nghề dệt lều vải đấy ư? Và ngài đã không từng kết án những người lười biếng, không chịu lao động đấy sao?

Quả thật vẫn có đủ đầy những luận lý để bào chữa cho thái độ sống quyến luyến với của cải vật chất. Dĩ nhiên chẳng ai dám to gan nói xóc, nói xỉa ngài Côhêlét hay thánh Tông đồ dân ngoại, nhưng vẫn có đó những lời nói cạnh, nói khía đến các “đấng bậc làm thầy” trong Giáo Hội. Các ngài đâu có lo bữa mai chạy bữa hôm như chúng mình. Các ngài đâu có quặn thắt khi con cái ốm đau hay phải chịu cái cảnh nợ nần chồng chất. Thế nhưng dù có biện bạch cách này cách khác thì chúng ta cũng phải chân nhận sự cám dỗ của đồng tiền và sức mạnh của vật chất. Chúng có thể huỷ hoại hạnh phúc chúng ta ngay trong cuộc đời này và có thể làm nguy hại hạnh phúc vĩnh cửu. Trong thực tiển, dù lắm khi sức mạnh của đồng tiền như “là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng…”, nhưng chính Chúa Kitô đã từng minh định: Không được làm tôi hai chủ. Không được vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của (x.Mt 6,24). Và Người còn cảnh tỉnh chúng ta rằng người giàu có vào Nước Trời khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim (x.Mt 19,24).

Của cải, tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là tốt đẹp vì đều do Thiên Chúa dựng nên. Thế nhưng cần phân biệt những cái tốt mang tính giới hạn, vì nó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích. “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15). Và cũng chắc chắn rằng không phải nhờ của tiền dư giả mà hạnh phúc vĩnh cửu được bảo đảm. Theo thánh Phaolô thì tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Ngẫu tượng chỉ có thể dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong. Xin đừng quên tham lam là mối tội thừ hai trong “bảy mối tội đầu”.

Thiên Chúa không hề chỉ dạy chúng ta xem thường của cải vật chất và cũng chẳng bảo chúng ta khinh rẻ các tiện nghi vật chất. Người đã minh nhiên truyền lệnh cho chúng ta lao tác không chỉ để có cái sinh nhai mà còn để có điều kiện phát triển và hoàn thiện đúng phận người, loài thọ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình Người đã dựng nên, vốn là hình ảnh của Người (x.St 1,27). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm kiếm vật chất, của tiền với mục đích gì? Điều đáng trách của người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể đó là đã không biết trả lời câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12,20).

Cái “ngốc”của người phú hộ là khi ra sức thu tích của cải mà “không biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Nếu giả như viên phú hộ trả lời rằng của cải của con sẽ để lại cho con cháu hầu giúp chúng có điều kiện phát triển hoặc để phần nào đó giúp cho người bất hạnh thoát cảnh nghèo khổ thì có lẽ ông ta chẳng bị nguyền rủa là “đồ ngốc”.

Làm giàu truớc mặt Thiên Chúa chính là chiếc chìa khoá giúp chúng ta thoát ra khỏi sự tham lam vị kỷ. Hạn từ giàu khiến chúng ta liên tưởng đến sự phong phú, đến tình trạng được có nhiều hơn. Ai là người giàu có trước mặt Thiên Chúa? Không chút ngại ngần, xin thưa đó là người có tấm lòng quảng đại, vị tha. Vẫn từng có đó những con người lắm tiền, nhiều của cải mà con tim luôn rộng mở, tấm lòng rất quảng đại, vì Danh Chúa, vì hạnh phúc của đồng loại như ông Tôbia, hoặc như bà Gioanna, vợ ông Khuda, bà Sudana và nhiều bà khác mà tin mừng Luca ghi lại (x.Lc 8,3). Tuy nhiên, sự cám dỗ của vật chất cũng đã và đang làm nhiều người băng hoại. Cha ông chúng ta vốn cảm nghiệm rằng khi của tiền càng phình ra thì con tim thường bị bó hẹp lại. Biết bao nghĩa tình mẹ cha con cái, bao nghĩa tình huynh đệ đã nhạt nhoà, đổ vỡ chỉ vì chút của tiền, chút lợi lộc đang nhan nhãn trước mắt chúng ta đây đó.

Để nên giàu có ở đời này thì hoạ hiếm mới có chuyện đột xuất như trúng số độc đắc mà thường là do quá trình kinh doanh, tích luỷ có mục tiêu, có phương pháp và biện pháp thích hợp, hữu hiệu. Cũng vậy, để nên giàu có trước mặt Thiên Chúa, tức là ngày càng biết sống quảng đại, vị tha, vì Danh Chúa và vì hạnh phúc đồng loại thì không gì hơn hãy tìm phương thế và biện pháp để mở rộng tấm lòng của mình. Một kinh nghiệm sống từng được chia sẻ như sau: một giáo dân thú nhận rằng mình rất ngại ngần với chuyện “làm phúc, bố thí” cho người ăn xin. Tìm cặn kẻ nguyên cớ mới vỡ lẽ đó là vì trong túi anh ta thường chỉ có những tờ bạc mệnh giá lớn (50 hay 100 ngàn đồng trở lên). Sau khi được mách bảo rằng hãy luôn để trong túi một số “tiền lẻ”, thì anh ta đã tập được thói quen tốt là làm phúc bố thí cho người nghèo. Sau một vài lần sống theo lời khuyên rằng thỉnh thoảng làm một hành vi quảng đại gấp ba, gấp bốn, thậm chí gấp mười sự tính toán của bản thân, thì tấm lòng của anh ấy đã rộng thêm và như đã vượt qua một mức nào đó. Và chẳng biết tự bao giờ, chuyện lấn cấn khi “làm phúc bố thí” cho người nghèo vốn có trước đây như biến mất. Một nhân đức (thói quen tốt) đã hình thành. Không biết ở mức độ nào nhưng anh ta đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa.

 

36.Bao nhiêu mới đủ - McCarthy

Suy Niệm 1. CĂN BỆNH THÍCH TÍCH TRỮ

Tolstoy kể lại câu chuyện về một người nông dân tên là Pakhom rất muốn có một ít đất đai. Ông ta dành dụm từng đồng và mua được bốn sào. Ông ta hết sức vui mừng. Tuy nhiên, ít lâu sau, ông ta cảm thấy còn chật chội, ông bèn bán bốn sào đất đó đi và mua tám sào ở một vùng khác. Nhưng điều đó không làm ông thoả mãn lâu, nên ông bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác.

Một buổi tối nọ, một người khách lạ đến. Pakhom đã nói về ước muốn của ông có thêm nhiều đất đai. Người khách lạ nói với ông rằng bên kia dãy núi nơi sinh sống của một bộ tộc. Những con người đơn sơ ở đây có rất nhiều đất đai muốn bán.

Ngày hôm sau, ông ra đi. Người tộc trưởng tiếp đón ông và nói: “Chỉ cần bỏ ra một ngàn rúp, ông sẽ có được một số đất đai mà ông rảo bước trong một ngày. Nhưng ông phải quay về điểm xuất phát cũng trong ngày hôm đó, nếu không kịp, ông phải chịu mất số tiền”.

Pakhom sung sướng rộn ràng. Suốt đêm đó ông không ngủ được mải nghĩ đến những đất đai sẽ thuộc về ông. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng ở chân trời, người ta cắm một cái mốc trên đỉnh gò, và ông xuất phát. Có những người cỡi ngựa theo sau và đóng xuống đất những cọc để đánh dấu lộ trình mà ông đã đi qua.

Ông bước đi nhanh và mỗi lúc một nhanh hơn. Càng đi xa đất càng màu mỡ hơn. Trong lúc tham lam, ông đi một vòng thật lớn mà quên mất thời gian. Và rồi ông hoảng hốt khi thấy mặt trời bắt đầu xuống thấp. Ông quay đầu chạy về cái gò, nơi ông xuất phát thật nhanh. Khi ông vừa lên đến đỉnh gò thì mặt trời đã lặn. Tuy nhiên, ngay lúc đó ông đã ngã quỵ xuống, úp mặt trên đất.

“Tôi khen ngợi ông” người tộc trưởng nói “Ông đã có nhiều hơn bất cứ người nào mà tôi còn nhớ”. Nhưng Pakhom không đáp lại. Người ta lật ngửa ông lên. Ông đã chết.

Một số lượng nào đó về tiền bạc và của cải vật chất là cần thiết. Dụ ngôn của Đức Giêsu không nói về nhu cầu mà nói về lòng tham. Người phú hộ đã bắt đầu với sự giàu có, nhưng ông vẫn không thoả mãn. Lòng tham giống như một ngọn lửa, lửa càng lớn khi người ta càng chất củi vào, người tham có nhiều của càng tham. Một trong những vấn đề chính của thời đại chúng ta là người ta không biết khi nào mới sung túc, phong lưu.

Elvis Presley chết ở tuổi bốn mươi hai vì lạm dụng thuốc. Ông có tám ô tô, sáu mô tô, hai máy bay, mười sáu cái tivi, một lâu đài và một số tài khoản lớn ở ngân hàng.

Khi một con quạ làm tổ trong rừng, nó chỉ chiếm một cành cây mà thôi. Khi con hươu ra bờ sông để làm nguôi cơn khát, nó không uống quá nhu cầu của nó trong lúc đó. Vậy tại sao con người lại lo tích trữ?

Con người khao khát được an toàn. Trong thời đại của Kinh Thánh, khi nạn đói là một đe doạ thường tái diễn, người ta tìm kiếm sự an toàn bằng việc tích trữ ngũ cốc. Trong thời đại của chúng ta, người ta tìm sự an toàn trong việc tích trữ của cải và tài sản. Người ta tích trữ đồ vật và bám chặt vào chúng, bởi vì chúng cho họ ảo tưởng về sự an toàn. Nhưng sự an toàn không thể tìm thấy được trong của cải. Nó chỉ có thể được tìm thấy trong Thiên Chúa.

Cùng với sự an toàn, người ta cũng tìm thấy giá trị của bản thân trong của cải. Trong xã hội chúng ta, người ta đánh giá con người qua những gì họ có. Có nhiều của cải làm người ta trở thành một cái gì đó. Không có của cải trở thành không có gì cả.

Mahatma Gadhi là một trong những người vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi. Tuy nhiên, ông sống trong một căn nhà đơn sơ làm bằng gỗ và bùn. Về của cải ông chỉ có những vật dụng thiết yếu. Của cải sẽ không bao giờ cho chúng ta sức mạnh nội tâm. Chúng là những cái nạng cho một người què quặt tâm linh.

Đức Giêsu nói thay vì tích trữ của cải trong kho tàng, chúng ta phải tìm cách làm cho mình giàu có trước mặt Thiên Chúa. Điều làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là điều chúng ta có, cũng không phải là điều chúng ta đã làm.

Không phải có của cải là có tội nhưng chính là óc chiếm hữu. Từ bỏ không có nghĩa là dửng dưng hoặc không quan tâm. Từ bỏ là không chiếm hữu. Đời sống là một quà tặng mà chúng ta phải biết ơn chứ không phải một sở hữu để chúng ta bám víu. Một đời sống không chiếm hữu là một đời sống tự do.

Của cải duy nhất đáng cho chúng ta tích luỹ là của cải của tâm hồn. Một tâm hồn quảng đại là một kho tàng. Có tâm hồn quảng đại là giàu có trước mặt Thiên Chúa. Sợ hãi và tham lam là những kẻ thù thật sự. Nỗi khiếp sợ đói khát khi kho lẫm đầy tràn là cơn đói khát không bao giờ có thể thoả mãn.

Suy Niệm 2. GIA TÀI TỐT NHẤT

Dù người ta là người khôn ngoan, thành công và khéo léo đến đâu, người ấy không thể đem theo tài sản của mình lúc chết. Những người khác sẽ thừa hưởng thành quả sự lao nhọc của người ấy. (Bài đọc 1). Điều làm cho sự việc tệ hại hơn là của cải mà người ấy để lại sau lưng có thể làm cho gia đình người ấy chia rẽ, xâu xé. Gia tài có thể là một lời chúc lành hoặc một lời chúc dữ. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy hai anh em tranh giành gia tài. Quả là đáng buồn khi nhìn thấy người ta bị lòng tham và ganh tỵ thúc đẩy đã cãi vã; gây gỗ nhau không tiếc lời.

Ngày trước, có một người làm việc trong ban quản trị một công ty thịnh vượng. Ông ta sống với vợ và gia đình trẻ ấy cư ngụ trong một căn nhà đẹp ở vùng ngoại ô thuận tiện. Tuy nhiên, ông không bằng lòng. Ông còn trẻ, đầy năng lực và tham vọng. Ông dường như có thể làm được mọi việc. Vì thế ông tự nhủ: “Tôi có thể làm tốt hơn thế này. Tôi chỉ cần làm việc nhiều hơn”.

Ông làm thêm nhiều giờ phụ trội và có được thu nhập gấp đôi. Ông dọn nhà đến một căn nhà lớn hơn trong khu sang trọng của thành phố. Dù ông đã làm việc xuất sắc, ông vẫn không hài lòng. Ông đã mơ tưởng đến một căn nhà mà ông chưa đủ tiền để mua. Nhưng ít năm nữa, ông sẽ có.

Ông đã không bao giờ có được căn nhà mơ ước ấy, bởi lẽ ông đã ngã bệnh là căn bệnh cuối cùng. Ông thình lình thấy mình ở ngưỡng cửa sự chết. Rồi ông kinh hoàng thấy rằng ông hầu như không hiểu gì cả về vợ con ông. Tệ hơn nữa là ông đã nhận ra mình không thật sự sống. Ông đã trì hoãn đời sống cho đến ngày mọi mục tiêu của ông sẽ đạt được.

Trong con mắt của công ty và của những người láng giềng ông đã trở thành lớn. Nhưng trong con mắt của riêng ông, ông biết rằng ông đã thất bại. Ông đã để vuột mất những điều quan trọng nhất trong đời sống, ông cảm thấy trống rỗng trong tinh thần và trong cảm xúc. Giờ đây khi cuộc hành trình trần thế sắp chấm dứt, ông cảm thấy tình trạng của ông thật bất hạnh. Ông ao ước bắt đầu lại lần nữa. Chắc ông sẽ làm những việc khác hẳn.

Và ông để lại cho con cái ông cái gì? Đúng là nhiều tiền bạc. Nhưng những cái khác? Không hoàn toàn không có. Thực tế là các con ông đã lớn lên không có ông, và giờ đây chúng sẽ tiếp tục sống mà không có ông.

Ngày nay, nhiều cha mẹ nhận thức rằng họ cần dành nhiều thời gian cho con cái hơn thay vì chỉ nghĩ đến của cải. Qua sự tiếp xúc thân mật để dạy dỗ con cái họ, chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng họ thật sự yêu thương săn sóc chúng. Những đứa con này thừa kế một loại gia tài quan trọng nhất, và là chủ sở hữu một tài sản mà tiền bạc không thể mua được.

Người điên dại giàu có đã khám phá quá muôn rằng tài sản vật chất không phải là còn mãi. Bởi vì ông ta đem hết mọi năng lực để tích trữ của cải, và không có gì có thể nhắc ông nhìn lại chính ông, và cái chết bày tỏ bản chất nghèo nàn của ông.

Những gia tài đáng phải tranh giành là những gia tài mà cái chết không thể lấy mất, nhưng trường tồn trong sự sống đời đời.

“Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành” (Antoine de Saint Exupery).

Có một người tốt lành đã từ chối làm chúc thư, nhưng ông nói rằng ông muốn để lại cho con cái điều tốt nhất mà ông có: gương mẫu của đời ông. Bạn hãy cho đi những tài sản, bổng lộc và tình yêu thương của bạn ngay từ bây giờ. Đừng chờ cho đến lúc một người nào khác làm chính việc đó khi bạn đã chết.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Một ông chủ ngân hàng người Mỹ giàu có nọ đứng trên cầu tàu của một ngôi làng duyên hải ở Mêhicô thì một chiếc tàu nhỏ với một người ngư phủ cặp vào bờ. Bên trong tàu là một con cá ngừ to. Ông chủ ngân hàng ngợi khen người đánh cá về mẻ lưới của ông ta, rồi hỏi tiếp: “Ông ra khơi trong bao lâu?”.

“Ồ, một hoặc hai giờ” người ngư phủ đáp.

“Tại sao ông không ở ngoài khơi lâu hơn để bắt được nhiều cá hơn?”

“Tôi chỉ ở ngoài khơi để kiếm đủ cho nhu cầu trực tiếp của gia đình tôi”

“Nhưng ông làm gì với thời gian còn lại?”

“Tôi ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với các con tôi, ngủ trưa vào buổi trưa và buổi tối tôi đi dạo trong làng, nhắm nháp tí rượu, chơi đàn ghi-ta và nói chuyện phiếm với bạn bè. Tôi dám chắc, tôi có một đời sống đầy đủ”. Người đánh cá nói.

Ông chủ ngân hàng không thấy có gì ấn tượng: “Ông nên dành thêm thời gian để đánh cá”, ông nói: “Rồi khi công việc tiến triển, ông có thể mua một chiếc tàu lớn hơn. Với cái đà đó, ông có thể mua được mấy chiếc tàu. Sau cùng ông sẽ có một đoàn tàu đánh cá. Kế đó, ông có thể mở mang thêm nhà xưởng và nhà máy đóng đồ hộp. Lúc đó, ông cần phải rời bỏ ngôi làng này và chuyển đến ở thành phố Mêhicô, rồi đến Angeles, và sau cùng đến New York, từ nơi này ông có thể mở rộng việc kinh doanh”.

“Mọi việc ấy cần bao nhiêu thời gian?”. Người đánh cá nói.

“Khoảng hai mươi năm”, ông chủ ngân hàng đáp.

“Và rồi sau đó?” Người đánh cá hỏi.

“Khi gặp thời cơ, ông có thể bắt đầu đăng ký công ty ông vào thị trường chứng khoán và bán cổ phiếu cho công chúng và trở thành triệu phú”.

“Rồi sau đó?” người đánh cá hỏi

“Sau đó ông có thê rút lui và chuyển về sống trong một ngôi làng nhỏ miền biển, ở đó ông có thể ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với con cái ông, ngủ trưa vào buổi trưa, đi dạo trong làng vào buổi chiều tối và có một vài cuộc vui với bạn bè”.

“Ông nghĩ coi, hiện bây giờ tôi làm gì nào?” người đánh cá hỏi.

 

37.Đời sống chẳng nhờ nơi của cải

(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đoạn 12:13-21 nằm trong mạch văn của hành trình lên Giêrusalem; thuộc giai đoạn thứ nhất (9:51-13:21). Mạch văn gần là đoạn 12:1-13:9, bàn đến việc chuẩn bị cho sự phán xét sắp đến, về hành vi và thái độ đối với những chuyện ở đời nầy. Đoạn 12:13-21 nằm giữa hai đoạn đều bàn về sự sống dưới hai khía cạnh khác nhau: - Khuyến dụ đừng sợ những người chỉ giết được thân xác; do đó chỉ sợ Đấng cất luôn cả sự sống phần hồn (12:1-12); và - Khuyến dụ đừng quá lo lắng về của ăn cái mặc, mà chỉ lo tích trữ kho tàng trên trời (12:22-34). Liên hệ chặt chẽ với hai đoạn trước và sau, đoạn 12:13-21 đưa ra một dụ ngôn minh họa sự phi lý của sự tham lam và tích trữ của cải để mong bảo đảm sự sống đời nầy. Hai đoạn đối đáp giữa Chúa Giêsu với một người nào đó giữa đám đông (12:13-15) và dụ ngôn (12:16-21) có thể liên kết với nhau thành một câu chuyện và một chủ đề duy nhất.

Đoạn 12:13-15. Lời yêu cầu của một người từ giữa đám đông chuyển sự chú ý qua chủ đề về của cải: phần gia sản (c. 13), mọi thứ tham lam, sung túc, của cải riêng (c. 15). Trong câu trả lời, Chúa Giêsu trước tiên ngỏ trực tiếp đến người ấy (c. 14); sau đó, Người cho “họ”, là các môn đệ và dân chúng, một giáo huấn về thái độ đối với của cải. Một người nào đó đặt ra vấn đề chia gia tài (c.13). Ông gọi Chúa Giêsu là “Thầy”, như là người có uy quyền phán xét việc nầy (x. Ds 27:8-11; 36:7-9; Đnl 21:17). Vấn đề cụ thể về chuyện gia tài giữa hai anh em không được ghi nhận, nên có thể hiểu là nó không quan trọng. Điều đáng chú ý là lời yêu cầu về điều nầy. Từ vựng “chia phần”, merizō (c. 13), “người chia phần” meristēs (c. 14) trong lời đối đáp giữa Chúa Giêsu và người ấy rất quan trọng. Người ấy muốn chia phần gia tài, nghĩa là muốn chiếm giữ riêng phần gia sản thuộc về mình. Người ấy có thể hy sinh sự bình an của gia đình bởi đòi hỏi nầy (x. 15:12).

Chúa Giêsu từ chối can thiệp (c.14). Khi gọi “Nầy ông!” Người biểu lộ sự không hài lòng đối với người ấy. Câu hỏi của Người đặt ngược lại với người ấy là có phải Người được cắt đặt để làm chuyện ấy không. Động từ kathistēmi có nghĩa là “cắt đặt”, “thiết lập”, bổ nhiệm một người để làm một việc gì: chẳng hạn chăm sóc các gia nhân (12:42), tài sản của chủ nhân (12:44). Chúa Giêsu không để người ấy nhầm lẫn về sứ mệnh Người. Người không được sai đến để giải quyết những chuyện thế trần như thế. Hơn nữa, Người không chỉ từ chối làm người chia của cải, mà còn xem đòi hỏi của người ấy như là một sự tham lam (c.15). Đối với Luca và cộng đoàn của ông, của cải không phải là một sở hữu của riêng ai. Được thừa hưởng là để phân phát và chia sẻ. Luca ghi lại cách sống lý tưởng của những tín hữu đầu tiên và nhiều mẫu gương có thái độ đúng đắn nầy trước của cải (x. Cv 4:32.34-35.37).

Chúa Giêsu kêu gọi giữ mình khỏi lòng tham lam (c.15). Luca muốn nhấn mạnh nên dùng liên tiếp hai động từ ở thể mệnh lệnh: “Hãy coi chừng!”, nghĩa đen là “hãy nhìn”; và “Hãy giữ mình!”, phylassō. Luca dùng động từ phylassō ở thể chủ động, chỉ việc thức đêm để quan sát và bảo vệ súc vật (2:8), canh giữ nhà cửa an toàn (11:21); tù ngục (Cv 12:4; 23:35). Luca dùng động từ nầy theo nghĩa bóng để chỉ việc giữ mình khỏi bị rơi vào thói xấu tham lam; tương tự như giữ mình khỏi những thức ăn đã cúng cho các ngẫu thần (x. Cv 21:25). Từ “tham lam”, pleonixia, chỉ xuất hiện một lần trong Luca, và được dùng nhiều trong các thư. Đó là ước ao cách ham hố chiếm hữu nhiều hơn, đặc biệt những điều thuộc về người khác (x. Rom 1:29; Eph 4:19; 5:3; Col 3:5; 1 Thess 2:5; 2 Phêrô 2:3); nên đây là ước muốn chiếm đoạt và thống trị.

Lý do của hai mệnh lệnh trên được biện bạch trong mệnh đề tiếp theo “bởi vì không phải người ở trong sự dư dật, sự sống của họ là bởi của cải của họ” (c.15b). Từ perisseuō không chỉ có nghĩa là sung túc, đầy đủ, mà trong Luca còn có nghĩa là dư dật, dư thừa; chẳng hạn 12 thúng bánh vụn (9:17); người giàu bỏ tiền dư thừa vào hòm cúng đền thờ (21:4). Từ hypachō chỉ “của cải” (8:3; 11:21; 12:33.44; 14:33; 16:1…). Như thế, Chúa Giêsu chỉ cho thấy người tham lam sai lầm khi nghĩ rằng sự sống được bảo đảm nơi những gì họ có; nên họ tìm cách thu góp hơn cả những gì cần thiết cho cuộc sống. Điều nầy sẽ thấy rõ hơn trong dụ ngôn người giàu ngốc. Câu nầy được dùng như vừa kết luận phần đầu và chuyển ý sang dụ ngôn tiếp theo.

Dụ ngôn người giàu có ngốc (12:16-21)

Bố cục của đoạn nầy: - Người giàu có và suy nghĩ của ông (c. 16-17); - Việc làm của ông (cc. 18-19); - Việc của Thiên Chúa (c. 20); - Kết luận (c. 21). Đặc tính của câu chuyện này là độc thoại; tương tự người con hoang đàng (15:17-19); người quản lý bất trung (16:3-4); người quan toà bất công (18:4-5); người Pharisêô và người thu thuế (18:9-14). Vấn đề Luca muốn đặt ra được trình bày qua chân dung “một người” (x. 10:30; 14:2.16; 15:11; 16:1.19; 18:2; 15:8; 7:37). Đây là một người giàu có. Sự sung túc và dư dật của ông được mô tả qua sự phong phú của từ vựng: “người giàu có”, “ ruộng nương được mùa” (c. 16), “tích trữ”, “hoa màu” (c. 17), “xây lẫm lớn”, “lúa má”, “của cải” (c. 18), nghỉ, ăn uống, hưởng (c. 19). Chōra của ông có thể hiểu là đất nước, vùng (x. 3:1; 8:26; 15:14), cũng có nghĩa là cánh đồng (2:8). Euphoreō “được mùa” “sai trái”, tương đương với từ telesphoreō trong dụ ngôn Người gieo giống (8:14-15). Đất đai sinh hoa màu dư dật cho ông là điều tích cực; tuy nhiên, điểm Luca chú tâm chính là lời từ miệng ông “hoa màu của tôi” (c. 17), “của cải của tôi” (c.18). Ông có ý định phá kho lẫm cũ để xây cái lớn hơn đủ sức chứa hoa màu và của cải của ông (c.18). Sau lời độc thoại (cc. 17-18), ông nói với linh hồn của ông, psychē. Trong Luca psychē đồng hoá với con người (1:46; 6:9; 9:24; 10:27; 14:26; 17:33; 21:19). Lời của ông bộc lộ sự gắn bó bản thân ông vào những gì ông đang có: “Mầy có bao của cải” (c.19), và bày ra chương trình cho cuộc sống của ông. Điều sai lầm là ông quên rằng của cải đời nầy gắn liền cách bền vững với sự sống của ông và việc cố giữ sự sống nầy thì sẽ mất (x. 9:24; 14:26; 17:33).

Chúa Giêsu gọi người giàu có ấy là “ngốc!” (c. 20). Chữ “ngốc” trong Luca chỉ người không có một sự phán đoán đúng đắn (x. 10:40). Họ không hiểu thực tại, biết điều đúng để làm, và nhất là không biết ý của Thiên Chúa. Lời Người nói với ông như một phán quyết. “Đêm nay” gợi lên bóng tối của sự chết, hãi hùng, và sự việc sẽ xảy ra cách nhanh chóng. “Linh hồn ngươi”chính là người giàu có. Luca thường dùng động từ “chuẩn bị” cho việc dọn đường Chúa đến cứu độ (1:17.76; 3:4; 9:52; 12:47…). Tuy nhiên ở đây, những gì người giàu có nầy chuẩn bị của cải vật chất để thụ hưởng, thì dự tính ấy không thực hiện được, của cải ấy sẽ không thuộc về ông nữa và ông còn mất luôn cả sự sống!

Câu kết luận xác quyết cách gián tiếp là người giàu có đã tích trữ của cải “không trong Thiên Chúa” (c. 21), và những ai hành động như ông thì cũng sẽ bị đối xử như ông đã chịu. Cách làm giàu trong Thiên Chúa sẽ được đề cập đến trong đoạn tiếp theo. Đó là bán của cải mình có và cho người nghèo (12:33-34). Làm như thế là tích trữ kho tàng không hư mất trong Thiên Chúa.

Sự phi lý và sai lầm của con người là tìm bảo đảm cuộc sống trong của cải, nên tìm cách chiếm hữu nhiều chừng nào có thể, và dừng lại trên nó. Cái chết đến sẽ cho thấy điều nầy là sai lầm. Chỉ Thiên Chúa mới là sự sống của con người.

 

38.Hạnh phúc không nơi tiền của

(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)

“Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai!”

Chúng ta thường nói: “Đồng tiền nối liền khúc ruột”. Tiền của cần cho sự sống, cho việc sống đạo nữa. Có thực mới vực được đạo.

Thái độ của Chúa Giêsu đối với tiền bạc như thế nào? Chúa không ngại nói đến tiền bạc. Ngài nói đến như một thứ cần dùng, có giá trị nữa. Ngài nói đến người đàn bà đánh mất một đồng bạc, thắp đèn quét nhà tìm kiếm, kiếm được vội chạy đi khoe đầu làng cuối xóm. Ngài nói đến người đầy tớ nhận năm nén bạc làm lợi thành mười và Ngài khen là đầy tớ tốt và trung tín.

Đành rằng Phúc Âm không cho biết Chúa Giêsu có cầm tiền không? Nhưng không lạ, nếu Ngài cũng dùng tiền như mọi người. Các tông đồ có một túi tiền chung do Giuđa giữ và Chúa dạy đi mua sắm (Ga 12,6; 13,29). Chúa sống trong thế giới Do thái tiền bạc và Ngài là nạn nhân tiền bạc, Ngài bị bán với giá 30 đồng.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy dùng tiền nhưng đừng ham tiền. Hạnh phúc con người không lệ thuộc vào tiền của. Và Chúa kể câu chuyện người giàu có thiếu khôn ngoan, xây mộng vàng hạnh phúc trên tiền của rồi chết bất ưng. Chúa kết luận: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?”. Và thánh Luca kết luận bằng một câu, có lẽ lấy ở nơi khác: “Như thế đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không biết làm giàu nơi Thiên Chúa”.

Năm 1923, tại Chicago, có hội nghị các thương gia Mỹ. Chín người được coi là thành công nhất, trong số có ông chủ hãng thép, điện, xăng, hỏa xa, ngân hàng International Settlement. Nhưng mà, gần hết các ông vua tiền ấy đã kết thúc cuộc đời trong cảnh nghèo túng, thất vọng hay đã tự tử.

Thánh Phaolô nói: “Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10).

Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê (Tv 144).

 

39.Hãy thu tích kho tàng trên trời

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Lc 12: 13-21 Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa”

Tolstoy kể lại câu chuyện về một người nông dân tên là Pakhom. Ông ta dành dụm từng đồng và mua được bốn sào. Ông ta hết sức vui mừng. Tuy nhiên, ít lâu sau, ông ta cảm thấy còn chật chội, ông bèn bán bốn sào đất đó đi và mua tám sào ở một vùng khác. Nhưng điều đó không làm ông thoả mãn lâu, nên ông bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác.

Một buổi tối nọ, một người khách lạ đến. Pakhom đã nói về ước muốn của ông có thêm nhiều đất đai. Người khách lạ nói với ông rằng bên kia dãy núi nơi sinh sống của một bộ tộc. Những con người đơn sơ ở đây có rất nhiều đất đai muốn bán. Ngày hôm sau, ông ra đi. Người tộc trưởng tiếp đón ông và nói: “chỉ cần bỏ ra một ngàn rúp, ông sẽ có được một số đất đai mà ông rảo bước trong một ngày. Nhưng ông phải quay về điểm xuất phát cũng trong ngày hôm đó, nếu không kịp, ông phải chịu mất số tiền đặt cọc”.

Pakhom sung sướng rộn ràng. Suốt đêm đó ông không ngủ được mải nghĩ đến những đất đai sẽ thuộc về ông. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng ở chân trời, người ta cắm một cái mốc trên đỉnh gò, và ông xuất phát. Có những người cỡi ngựa theo sau và đóng xuống đất những cọc để đánh dấu lộ trình mà ông đã đi qua. Ông bước đi nhanh và mỗi lúc một nhanh hơn. Càng đi xa đất càng màu mỡ hơn. Trong lúc tham lam, ông đi một vòng thật lớn mà quên mất thời gian. Và rồi ông hoảng hốt khi thấy mặt trời bắt đầu xuống. Ông quay đầu chạy về cái gò, nơi ông xuất phát thật nhanh. Khi ông vừa lên đến đỉnh gò thì mặt trời đã lặn. Tuy nhiên, ngay lúc đó ông đã ngã quỵ xuống, úp mặt trên đất. Người tộc trưởng nói “tôi khen ngợi ông, ông đã có nhiều hơn bất cứ người nào mà tôi còn nhớ”. Nhưng Pakhom không đáp lại. Người ta lật ngửa ông lên. Ông đã chết.

Trong câu chuyện người phú hộ mà thánh Luca kể lại, Chúa Giêsu không phê phán việc chúng ta tìm cái chúng ta cần, mà phê phán lòng tham của chúng ta. Cũng như trong câu chuyện của Tolstoy, nếu Pakhom biết dừng lại khi đã có tám sào đất anh cần thì anh đã sống hạnh phúc, nhưng anh đã chết vì anh cứ mải mê chạy theo lòng tham của mình. Lòng tham giống như ngọn lửa, ta càng thỏa mãn nó bằng cách chất thêm củi thì lửa càng bùng lên và càng đòi thêm nhiều củi.

Và trong bài dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cũng không đả kích sự tích lũy của cải mà chỉ đả kích sự khờ dại của những người chỉ biết thu tích của cải vật chất mà quên đi nhiệm vụ thu tích của cải thiêng liêng. Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21).

Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giầu có trước mặt Thiên Chúa khi chúng ta biết quảng đại với những người nghèo khó.

Ở Kenya bên Phi Châu, một vị thừa sai kể rằng có một số dân Phi Châu vẫn còn giữ tập tục lấy đi tất cả quần áo người chết đang mặc trước khi chôn cất người ấy. Một trong những mục đích của tục lệ này nhằm nói lên rằng chúng ta rời khỏi thế gian này cũng y hệt như khi chúng ta vào thế gian. Tuy nhiên, chúng ta có thể mang đi theo khi đi ra khỏi đời này với những cái mà chúng ta làm giầu trước mặt Thiên Chúa, tức là tất cả những gì chúng ta đã cho đi. Những cái chúng ta đã cho đi làm thành một kho tàng trên trời dành riêng cho chúng ta. Những cái chúng ta đã cho đi ở trần gian này vẫn còn tồn tại không bao giờ hư nát, và đấy chính là những công nghiệp chúng ta dâng cho Chúa để được hưởng hạnh phúc đời.

Chúng ta đã chuẩn bị gì cho cuộc sống mai hậu?

Vào một buổi sáng nọ ông Alfred Nobel mở tờ nhật báo ra và thấy bài cáo phó của mình ở trong đó. Một phóng viên người Pháp đã cẩu thả loan tin ông từ trần thay vì em của ông. Ông Alfred thật bàng hoàng, vì lần đầu tiên trong đời, ông nhìn về chính mình dưới con mắt của người khác. Ông thấy chính mình như một "ông vua thuốc nổ" đã dùng toàn thể cuộc đời để chế tạo vũ khí sát hại và tiêu diệt.

Sáng hôm ấy, ông Nobel quyết tâm thay đổi hình ảnh người ta nhìn về ông. Sự quyết tâm của ông đã đưa đến kết quả là các giải thường Nobel hằng năm trong các lãnh vực vật lý, hóa học, y học, văn chương và hòa bình.

Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy thi hành giống như ông Alfred Nobel.

Nó mời gọi chúng ta hãy tưởng tượng đọc bài cáo phó của mình.

Nó mời gọi chúng ta nhìn về con người thực sự của mình.

Nó mời gọi chúng ta nhìn về chính mình như Thiên Chúa nhìn chúng ta.

Nếu chúng ta phải ra trước mặt Thiên Chúa tối nay để báo cáo về cuộc đời trần thế này, thì liệu Thiên Chúa có nói với chúng ta như Người đã nói với ông phú hộ kia: "sao con dại thế! Nếu đêm nay con phải từ giã cuộc đời này thì ai sẽ hưởng tất cả những gì con cất giữ cho mình?" Một điều đáng cho chúng ta phải suy nghĩ. Amen.

home Mục lục Lưu trữ