Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 97

Tổng truy cập: 1370913

CÓ MẤY CHIẾC BÁNH ?

Có mấy chiếc bánh?

(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)

 

Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).

Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm:

– Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.

– Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao?

– Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.

– Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!

Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.

Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê và còn dư dả.

Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.

Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng. Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.

Chúa Giêsu làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ. Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!” (Ga 2,7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5,4-7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy, Chúa hỏi: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Và Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé. Như thế, Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích là đào tạo lòng tin của các môn đệ. Chúa tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Người đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Người là vị Mục tử mà ngôn sứ Edêkien đã nói đến (Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Người là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẽ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại. Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời,dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14,20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh,chúc tụng” (Mc 14,22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (Lc 24,30) và của Giáo hội (Cv 2,42).

Được bánh ăn no nê, dân chúng muốn “bắt lấy Người tôn lên làm vua” (Ga 6,15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Người lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”; “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6,27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta,chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.

“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn Hy tế Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của hiến lễ Golgôtha được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.

Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.

”Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi, vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.

Bánh Lời Chúa

Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó cần trau dồi Lời Thiên Chúa. Vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa chứ không phải lời của thế gian. Cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn. Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.

Bánh Thánh Thể Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: “Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn”. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ. Tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.

Đến Nhà Thờ dâng lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình. Khi dâng lễ, đời sống riêng tư được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn. Qua Lời Truyền Phép của Linh mục, Chúa Kitô làm cho bánh rượu trở thành Thịt Máu của Người. Đồng thời Người cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ họ đón nhận Mình và Máu Chúa Giêsu là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.

Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35); “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Thánh Thể là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta.

Tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa và nhiệt thành cộng tác với ơn Chúa.

Chúa Giêsu vẫn luôn vẫn hỏi chúng ta mỗi ngày “Các anh có mấy chiếc bánh” để trao cho tha nhân?

 

 

 

 

 

93. Hạnh phúc thật

(Suy niệm của Lm. Ron Rolheiser, OMI)

 

Đào sâu hơn, Đức Phanxicô nói với người trẻ Paraguay:

“Chúa Giêsu biết rõ trong thế giới đầy cạnh tranh, ghen tuông và gây hấn này,

hạnh phúc thật phát sinh từ việc học cách kiên nhẫn, tôn trọng người khác,

từ khước kết án hay phán xét người khác.

Như người ta thường nói ‘cả giận mất khôn’.

Các con đừng để trái tim các con nhường bước cho giận dữ và ghét bỏ.

Hạnh phúc thay người hay thương xót.

Hạnh phúc thay những ai biết đặt mình vào đôi giầy của người khác,

Hạnh phúc thay những ai biết ôm ấp, tha thứ.

Lúc này hay lúc khác, tất cả chúng ta đều đã cảm nghiệm được điều đó.

Nó quả đẹp đẽ xiết bao!

Giống như ta nhận lại được đời sống của mình, nhận được cơ may mới.

Không gì đẹp đẽ bằng có được cơ may mới.

Như thể đời ta lại khởi đầu trở lại.

“Cũng hạnh phúc thay những ai đem lại sự sống và cơ hội mới.

Hạnh phúc thay những ai cố gắng và hy sinh để làm điều đó.

Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm và vướng vào hiểu lầm, cả ngàn sai lầm và hiểu lầm.

Thành thử, hạnh phúc thay những ai biết giúp người khác khi họ mắc sai lầm, khi họ cảm nghiệm sự hiểu lầm.

Những người này là bạn bè đích thực, họ không bỏ rơi ai.

Họ trong sạch trong tâm hồn, những người biết nhìn quá bên kia các sự việc nhỏ nhoi và biết vượt qua khó khăn.

Trên hết, hạnh phúc thay những ai biết nhận ra điều tốt nơi người khác”.

Để kết luận, Đức Phanxicô cho hay:

“các vị thánh nhân là bạn bè và là mẫu mực của ta…

Các ngài cho ta hay:

Chúa Giêsu không phải là nhà nghệ sĩ lừa đảo;

Người hiến tặng ta sự thành toàn đúng nghĩa.

Nhưng trên hết, Người hiến tặng ta tình bè bạn,

tình bè bạn đích thực, tình bè bạn ta cần.”

“Bởi thế ta phải trở nên bạn bè theo cách của Chúa Giêsu.

Không khép kín, nhưng tham gia đội banh của Người và chơi môn chơi của Người, đi ra ngoài và tạo bạn bè mỗi ngày một nhiều thêm.

Mang niềm hào hứng của tình bạn Chúa Giêsu đến cho thế giới, bất cứ các con ở đâu:

ở nơi làm việc, ở trường, trên WhatsApp, Facebook hay Twitter.

Khi các con đi khiêu vũ, hay đi uống trà lạnh tereré,

khi các con tụ họp ở công viên thành phố hay chơi trận banh nhỏ tại sân khu xóm. Nghĩa là tại những nơi bạn bè Chúa Giêsu vốn tụ tập.

Không phải để lừa đảo người khác,

mà là đứng bên cạnh họ và kiên nhẫn với họ.

Bằng lòng kiên nhẫn phát sinh từ việc biết rằng ta hạnh phúc,

vì ta có một Ngưòi Cha ở trên trời”.

***

MÙA THƯỜNG NIÊN

Trong quyển sách nhỏ với tựa đề Âm nhạc của Thinh lặng, David Steindl-Rast đã nhấn mạnh mỗi giờ trong ngày có điểm sáng và tính chất đặc biệt của nó đến như thế nào, và cách chúng ta chú tấm đến giây phút hiện tại khi chúng ta nhận ra và tôn trọng các “tác nhân đặc biệt” ẩn dấu trong mỗi giờ đó. Ông ấy đúng. Mỗi giờ trong ngày và mỗi mùa trong năm đều có một điều gì đó đặc biệt cho chúng ta, nhưng thường thường chúng ta không ứng trực để tiếp nhận tặng vật đó.

Có những mùa đặc biệt trong năm, chúng ta nắm bắt tặng vật đó dễ hơn. Dù đôi lúc do áp lực hay xao nhãng, chúng ta không chú tâm đến mùa cao điểm như mùa Giáng Sinh hay Phục Sinh, nhưng chúng ta đều biết các mùa này đặc biệt và có những “tác nhân” trong đó đang đòi chúng ta phải đón nhận. Khi có ai nói: “Năm nay tôi quá mệt và có qua nhiều áp lực nên không nghĩ đến lễ Giáng Sinh. Tôi bỏ lỡ dịp Giáng Sinh năm nay rồi!” là chúng ta hiểu ý nghĩa của câu này.

Và điều này không chỉ đúng với những mùa đặc biệt như Giáng Sinh và Phục Sinh. Nó cũng đúng, và có lẽ đặc biệt đúng với mùa mà chúng ta gọi là Mùa Thường Niên. Mỗi năm lịch Giáo hội để ra hơn ba mươi tuần cho cái gọi là “Mùa Thường Niên,” một mùa để chúng ta gặp gỡ các tác nhân hàng ngày, điều đặn, quen thuoc, đoán trước được và bình thường. Như những mùa lễ cao điểm, mùa này cũng có nghĩa là cho đời sống chúng ta một nét phong phú đặc biệt.

Nhưng chúng ta lại dễ dàng bỏ qua mùa này cũng như mục đích của nó. Khái niệm “Mùa Thường Niên” nghe có vẻ quá nhẹ cho dù chính chúng ta lại mong mỏi một cách vô thức ý nghĩa đích thực nó mang đến. Chúng ta có một “thời gian bình thường” nhỏ bé nhưng thật quý báu trong đời mình. Khi đời sống bị nhiều áp lực hơn, mệt mỏi hơn, bồn chồn hơn, có lẽ hơn bất kỳ điều gì, chúng ta mong mỏi có một “thời gian bình thường” im ắng, đều đặn, tĩnh mịch, và ở một nơi xa cách khỏi nhịp điệu hối hả của đời sống. Đối với nhiều người trong chúng ta, cụm từ “thời gian bình thường” sẽ làm chúng ta thở dài hỏi: “Đó là gì thế? Lần cuối tôi có một ‘thời gian bình thường’ trong đời là lúc nào?” Với nhiều người trong chúng ta, “thời gian bình thường” gần như có nghĩa là hối hả và áp lực, là “vòng quay bất tận,” là “cái cối xay.”

Nhiều thứ trong đời hợp lại chống “thời gian bình thường” này, không chỉ sự bận rộn cướp đi thời gian thư thái của chúng ta, mà còn những đau buồn, ám ảnh, mất sức khỏe, hay những gián đoạn khác, tất cả chúng như cười vào nhịp điệu cũng như công việc theo nếp, cướp đi ý thức về “thời gian bình thường” của chúng ta.” Đó chính là nguyên nhân suy sụp của người trưởng thành.

Toi ngờ rằng, nhiều người trong chúng ta sẽ thấy khi còn nhỏ chúng ta nhìn khác hẳn về chuyện này. Khi còn nhỏ, tôi thường thấy chán. Gần như lúc nào, tôi cũng mong có một cái gì mới, một ai đến thăm nhà, một mùa đặc biet để mừng lễ (sinh nhật, Giáng Sinh, Năm mới, Phục Sinh), hay gần như bất cứ chuyện gì lay tôi ra khỏi nếp sống thường nhật của “thời gian bình thường.” Nhưng đó là vì đối với một đứa trẻ, thời gian trôi quá chậm. Khi bạn bảy tuổi, một năm là cả một phần bảy cuộc đời bạn. Nó quá dài. Lúc trung niên và già hơn nữa, một năm chỉ là một mảnh nhỏ trong đời và thời gian trôi nhanh, quá nhanh đến nỗi khi đến một mức nào đó, có lúc bạn sẽ bắt đầu mong các dịp đặc biệt qua nhanh, khách về nhanh, các chuyện quấy rầy khuất mắt, để bạn chóng trở về nhịp sống bình thường. Nếp cũ chắc chắn là chán, nhưng chúng ta ngủ ngon hơn khi cuộc sống theo nề theo nếp bình thương.

Ngày nay, văn chương tôn giáo lẫn thế tục đều nói đến những khó khăn để tập trung vào giây phút hiện tại và trong việc gặp gỡ “hiện tại trần trụi” theo cách nói của Richard Rohr, hay “các tác nhân của một giờ” theo cách nói của David Steindl-Rast. Những gì văn chương nêu ra khác nhau về nội dung và ý nghĩa, nhưng cùng chung một điểm: Cực kỳ khó để chú tâm vào giây phút hiện tại, để thật sự ở trong hiện tại. Không dễ để sống trong “thời gian bình thường.”

Có một thành ngữ Trung Hoa vừa có ý chúc phúc vừa có ý nguyền rủa. Bạn có thể chúc cho ai đó: “Chúc bạn sống những giây phút lý thú!” Với một đứa trẻ, chúc như thế nghĩa là chúc lành, bởi đời sống cứ lặp đi lặp lại theo nếp. Thời gian trôi thật chậm trong suy nghĩ một đứa trẻ. Hầu hết trẻ con đã có đủ thời gian bình thường rồi.

Tuy nhiên, đối với hầu hết chúng ta là người lớn, thì đó lại là lời nguyền hơn là chúc phúc. Những áp lực, buồn phiền, đau bệnh, mất mát, đòi hỏi, và những việc chen vào tưởng như không dứt đang bủa vây đời sống chúng ta, dù có lẽ chúng không được xem là “giây phút lý thú,” nhưng thực sự chúng đối chọi với nếp sống bình thường, điều đặn, đoán trước được và bình thường. Và chúng tước đoạt “thời gian bình thường” khỏi chúng ta.

Giáo hội muốn chúng ta hãy chú tâm vào những mùa khác nhau của năm. Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa Giáng Sinh, Mùa Phục Sinh, Lễ Thăng Thiên, và Lễ Hiện Xuống. Ngày hôm nay, tôi xin nói rằng, cần phải đòi hỏi chúng ta chú tâm đặc biệt đến Mùa Thường Niên – “thời gian thông thường.” Thất bại trong việc chú tâm vào thời gian này có lẽ là thiếu sót phụng vụ lớn nhất của chúng ta đó.

 

 

 

 

 

94. Đạo gạo. – Lm Giuse Nguyễn Thái

 

Ở một vùng truyền giáo nọ, ban đầu khi mới đặt chân đến, cha sở đã cố gắng hết sức để nâng đỡ đời sống vật chất cho dân nghèo. Người nghèo đi nhà thờ, ngài Phát cho chục ký gạo. Nhưng sau đó, không còn đủ gạo để phát nữa, thì số người đi tham dự Thánh Lễ cứ thưa dần và thưa dần. Đến một hôm, một người thường xuyên hay lui tới nhà thờ đã cho Ngài biết cái “tin dữ”. Cái “tin dữ” ấy là một số người trước đây vẫn thường xuyên lui tới nhà thờ vì có gạo nay lại không đi nữa. Họ nói thẳng là trước đây có nhận được gạo, nhưng nay thì không. Vì lý do không có gạo thì họ không đi nữa. Từ đó có danh từ “đạo gạo”.

Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã đọc đoạn trích Tin Mừng Mác-cô, theo đó Đức Giêsu đã động lòng thương dân chúng tuôn đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng lời ban sự sống của Ngài và tiếp đó, phép lạ bánh hóa nhiều, loan báo Ngài là bánh ban sự sống từ trời xuống. Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, Ga 6:1-15, Thánh Gioan sử dụng cùng câu chuyện hoá bánh ra nhiều mà Mác-cô diễn tả để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giêsu về “bánh ban sự sống”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật tiếp theo. Phép lạ bánh hóa nhiều là một trong những phép lạ được viện dẫn nhiều nhất: nó là phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký tường thuật. Quả thật, phép lạ nầy đánh dấu đỉnh cao thừa tác vụ của Đức Giêsu ở miền Ga-li-lê. Tuy nhiên dưới cái nhìn của thánh Gioan, phép lạ này chỉ là dấu chỉ nhằm mục đích chuẩn bị dọn lòng cho dân chúng tin vào Phép lạ Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện sau này trong bữa Tiệc Ly. Nói cách khác, qua phép lạ đó, Chúa Giêsu muốn dẫn con người đi từ cơm bánh nuôi thân đến Thánh Thể nuôi hồn; từ của ăn vật chất đến lương thực thần linh. Bí tích Thánh Thể mới là phép lạ vĩ đại nhất, phép lạ của tình yêu. Với phép lạ này, Chúa Giêsu nuôi sống không phải chỉ 5000 người, mà là nuôi sống toàn thể nhân loại. Không phải chỉ là một thời cách đây 2000 năm, mà là mọi thời. Không phải chỉ là một nơi hoang địa xa xôi, mà là mọi nơi trên mặt đất này. Và trên hết không phải chỉ đem lại sự no thoả tạm thời cho nhu cầu thể xác, mà là đem lại sự sống thần thiêng, sự sống đời đời.

Vậy sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta là gì? Sứ điệp đó là khi phải vất vả mưu sinh, để có lương thực nuôi thân, chúng ta không được phép sao lãng lương thực nuôi hồn, tức là tiếp nhận Chúa Giêsu Thánh thể mỗi ngày. Khi tiếp nhận Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con người sẽ có được sự sống thần linh, sự sống dồi dao. Nhưng lương thực trường sinh mà chúng ta đón nhận trong Thánh Thể cũng phải là một cam kết. Cam kết phải sống thế nào để cuộc đời mà ta đang sống là bằng chứng đích thực nói lên sự hiện diện và tác động của Chúa trong con người mình, và để qua đó người khác nhận ra hình ảnh của Chúa nơi chúng ta. Nguyện xin Thánh Thể Chúa Giêsu hoạt động và biến đổi con người và cuộc đời mỗi người chúng ta thành dấu chứng của tình yêu và sức sống cua Thiên Chúa đối với mọi người.

 

 

 

 

 

95. Đệ nhất khoái

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Ăn uống là chuyện rất ư bình thường hàng ngày nhưng cũng rất cần thiết, thậm chí điều bình thường đó còn là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của con người. Chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng cơm, manh áo. Miếng ăn bình thường mà vô thường, bởi vì miếng ăn có thể là niềm vinh dự mà cũng có thể là nỗi ô nhục!

Cuộc sống là thực tế, không trừu tượng hoặc mơ hồ. Chúa Giêsu đã sống rất thực tế, do đó Đạo Yêu Thương của Ngài cũng thực tế, không thực tế thì chỉ là nói dối (1 Ga 4:20). Thánh Phaolô cũng dành cả chương 13 (13 câu)trong thư I gởi giáo đoàn Côrintô để đề cập đức ái. Thánh Phaolô không sử dụng từ “nói dối” mà ví những người không yêu thương thì “cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1 Cr 13:1). Ngày nay người ta gọi đó là dạng “chảnh”, “nổ”, chỉ khoác lác mà thôi.

Giáo Hội cũng rất thực tế:Trong kinh “Thương Người Có 14 Mối”, mối thứ nhất của phần “Thương Xác 7 Mối” là “cho kẻ đói ăn”. Giáo hội không thể nói suông, vì Giáo hội theo đúng cách thức của Đức Kitô. Tuy nhiên, có lẽ Kitô hữu (nói chung) và người Công giáo chúng ta (nói riêng) vẫn chỉ yêu người bằng lý thuyết, qua sách báo, qua những bài “thuyết pháp” hùng hồn, thậm chí là yêu người “online” mà thôi. Chúa Giêsu chưa một lần nói suông. Nếu can đảm mà nghiêm túc xét mình, liệu chúng ta đã theo Chúa đúng ý Ngài? Chắc hẳn chúng ta phải đấm ngực vô số lần! Thật vậy, danh nhân Mahātmā Gāndhī (1869-1948, được dân Ấn Độ coi là Quốc phụ) đã nói thẳng: “Tôi sẵn sàng trở thành Kitô hữu nếu tôi tìm được các Kitô hữu thực thi Bài Giảng Trên Núi” – tức là Bát Phúc, là Tám Mối Phúc Thật. Chắc chắn chúng ta phải “giật mình” mà xét lại cách sống của chính mình ngay thôi, kẻo tự chuốc khốn cho chính mình!

Nói là làm, làm ngay, làm thật. Thấy thương dân chúng theo mình suốt ngày, Chúa Giêsu đã thực tế bằng cách hóa bánh ra nhiều hai lần: Lần một với 5 chiếc bánh và 2 con cá mà đủ cho khoảng 5.000 người ăn, chưa kể phụ nữ và trẻ em, lại còn dư 12 giỏ đầy (Mt 14:17-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14); lần hai với 7 cái bánh và một ít cá nhỏ mà đủ cho khoảng 4.000 người ăn, cũng không kể phụ nữ và trẻ em (Mt 15:34-38; Mc 8:1-10). Quả thật, Chúa Giêsu vô cùng thực tế. Và Ngài cũng rất muốn chúng ta làm như vậy, nghĩa là PHẢI BIẾN LỜI NÓI THÀNH HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ. Người Công giáo cũng thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Thực tế thôi!

Như chúng ta đã biết, ăn uống là điều cần thiết nhất để duy trì sự sống. Ăn uống không chỉ là cái thú đầu tiên trong tứ khoái của con người, mà còn là bài học đầu tiên chúng ta phải học: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Còn nhiều thứ khác cũng phải học hỏi, đặc biệt là học hỏi về tinh thần, tâm linh: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an” (Br 3:14).

Kinh Thánh cho biết: Một người trong nhóm các ngôn sứ ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, họ hái trái dưa đắng ấy, đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!” (2 V 4:40), nghĩa là nồi cháo đó có độc tố vì được nấu bằng những loại trái độc. Và họ không thể ăn được. Nhưng ông Ê-li-sa điềm nhiên nói: “Đem bột đến đây!”. Ông “vô tư” bỏ bột vào nồi rồi bảo: “Múc ra cho người ta ăn”. Lạ lùng thay, trong nồi liền hết chất độc. Ôi chao, không biết ông Ê-li-sa có nghiên cứu y dược hay không mà kết hợp thực phẩm khéo léo quá chừng!

Sau đó, có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Chúa, đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa không giữ riêng cho mình và những người trong nhóm, mà ông nói: “Phát cho người ta ăn” (2 V 4:42). Nhưng tiểu đồng hỏi ông: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” (2 V 4:43a). Ông cương quyết nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư” (2 V 4:43b).Và quả đúng như vậy, phép lạ đã xảy ra nhãn tiền. Sau khi tiểu đồng phát cho người ta ăn xong, vẫn còn dư như lời Thiên Chúa đã phán truyền. Mọi sự đều có thể xảy ra (x. Gv 9:1), bởi vì Thiên Chúa quyền linh, điều không thể trở thành có thể (x. Mt 19:26; Mc 10:27; Lc 18:27; Lc 1:37).

Vì vậy, “muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, và nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10-11a). Trong “muôn loài” đó có mỗi chúng ta, nghĩa là chúng ta phải biết tạ ơn Chúa. Bất cứ ai tin tưởng và ngước mắt trông lên Chúa, Ngài đều chạnh lòng thươngvà “chính Ngài đúng bữa cho ăn” (Tv 145:11b). Sự quan phòng của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm, chúng ta không thể hiểu thấu. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, biết rõ chúng ta cần gì, và “khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145:16). Không chỉ vậy,Ngàicòn “công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm, gần gũi tất cả những ai thành tâm cầu khẩn Ngài” (Tv 145:17-18).

Ôi, tình yêu Thiên Chúa quá bao la, lòng thương xót của Ngài quá hải hà, bởi vì Ngài luôn “chạnh lòng thương” những con người sầu khổ, thiếu thốn về vật chất hoặc tinh thần. Vâng, Thiên Chúa của chúng ta rất thực tế! Không chỉ vậy, Ngài còn ưu ái chấp nhận chúng ta là con cái, là thân hữu của Ngài (Ga 15:15b) mặc dù chúng ta chỉ là phàm nhân, là tội nhân, hoàn toàn bất xứng. Vì thế, chúng ta cần phải khiêm nhường mà nhận diện chính mình để không ảo tưởng.

Con người luôn cần được nhắc nhở và động viên. Mặc dù đang bị tù đày vì Chúa, Thánh Phaolô vẫn không ngần ngại bày tỏ: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em” (Ep 4:1).Theo Thánh Phaolô, cách “sống xứng đáng” đó là: Ăn ở thật KHIÊM TỐN, HIỀN TỪ và NHẪN NẠI; lấy tình bác ái mà CHỊU ĐỰNG lẫn nhau; thiết tha duy trì sự HIỆP NHẤT mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở THUẬN HOÀ gắn bó với nhau (Ep 4:2-3).

Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:4-6). Tất cả đều là MỘT trong Thiên Chúa thì không có lý do gì mà tách rời. Có ai lại tự cắt lìa một phần thân thể của mình chứ? Mà đã là MỘT thì phải yêu thương, quan tâm, nâng niu và chia sẻ mọi thứ với nhau. Vâng, đó là vấn đề rất thực tế, nhưng con người vẫn chia ba bè bảy nhóm, nên Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người “nên một” (Ga 17:21-23).

Rất chi tiết, Thánh sử Gioan kể: Hôm đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria, có đông đảo dân chúng đi theo Ngài, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho các bệnh nhân. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6:5).Thực ra Ngài nói thế là để thử ông thôi, chứ Ngài biết mình sắp sửa làm gì rồi.

Lúc đó, có lẽ ông Philípphê gãi đầu vì ngạc nhiên và nói: “Thầy ơi là Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:7). Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Ngài: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:9). Đức Giêsu mỉm cười và ôn tồn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (Ga 6:10). Rồi mọi người ngồi xuống trên cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Có lẽ lúc đó các tông đồ lắc đầu ngán ngẩm vì đông quá, có sẵn đủ thực phẩm mà phục vụ họ cũng mệt đứ đừ chứ chẳng giỡn chơi. Chỉ tính 5.000 người thì mỗi ông phải phục vụ khoảng 500 thực khách. Ui da, “căng” dữ nghen!

Khi đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý chứ không “chia khẩu phần”. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6:12). Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Thật là trên cả tuyệt vời. Kỳ diệu!

Mọi người chứng kiến dấu lạ Đức Giêsu làm, họ nói với nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga 6:14). Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt và đi lên núi một mình. Ngài “thực tế” với người khác nhưng lại không “thực tế” với chính mình. Ngài không muốn được “tôn làm vua” mà lại “lánh mặt” và “đi lên núi”, đáng lưu ý là Ngài đi lên núi MỘT MÌNH mà thôi. Thầy Giêsu tỏ ra không thực tế mà lại rất thực tế. Hay quá chừng luôn!

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xingiúp chúng con luôn sống “thực tế” như Đại Sư Giêsu là biết “chạnh lòng thương” tha nhân, dù họ là ai, đồng thời cũng sẵn sàng cầm lấy chiếc-bánh-cuộc-đời của chính mình, chân thành dâng lời tạ ơn, rồi vui vẻ bẻ ra và chia sẻ với bất kỳ ai. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

home Mục lục Lưu trữ