Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1371146

CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU

CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU (2,12-16)

 

Bây giờ chúng ta hãy xét xem tại sao Chúa Giêsu hành động như thế. Cơn giận của Ngài là một điều đáng sợ. Hình ảnh Chúa Cứu Thế cầm roi khiến chúng ta phải kinh hãi. Điều gì đã khiến Ngài nổi cơn giận thánh tại sân Đền Thờ như vậy?

Trong các ngày lễ của dân Do Thái, lễ Vượt Qua là quan trọng nhất. Như chúng ta biết, luật quy định mỗi người nam Do Thái trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh Giêrusalem phải đến đó dự lễ. Nhưng không phải chỉ có người Do Thái trong xứ Palestine đến dự lễ Vượt Qua. Thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới, họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dù sống ở xứ nào, họ vẫn mong ước và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất một lần. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc nhưng dường như đã có đến hai triệu hai trăm ngàn người Do Thái đã tập họp về xứ thánh dự lễ Vượt Qua.

Thuế Đền Thờ là sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Đó là loại tiền Do Thái, nên có thể dùng dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác là của người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ thường, nhưng không thể dùng trả nợ cho Chúa.

Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi bạc. Nếu họ hành nghề ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích chân thật và cần thiết. Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng cho Đền Thờ, người ta phải trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; vậy cứ đổi 4 đồng nửa siếc-lơ thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công. Do đó, số tiền thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp. Thu nhập của Đền Thờ về khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75.000 bảng Anh, lợi tức hằng năm của những người đổi bạc là 9.000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus chiếm thành Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2.500.000 bảng Anh, nhưng chưa lấy hết.

Việc những kẻ đổi bạc ăn lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy. Kinh Talmud quy định: “Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình. Do đó, khi đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho kẻ đổi bạc chút ít tiền lời”. Từ chỉ tiền lời là kollubos, những kẻ đổi bạc được gọi là kollubistai. Chữ này sản sinh một vai hề tên kollybos trong tiếng Hy Lạp, trong tiếng La Tinh là Collybus. Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là một bất công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc ấy.

Bên cạnh bọn đổi bạc, còn có số người bán bò, chiên, bồ câu. Thường thì mỗi lần đến Đền Thờ là một lần dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ vì chuyến hành trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố xảy ra trong đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định bất cứ con vật nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản trị Đền Thờ phân công những người kiểm tra con vật. Mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí 1/12 siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng khốn nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần hơn giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.

Chính điều ấy đã khiến Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Gioan biết là Chúa đã lấy dây bện thành một cái roi. Thánh Jerôme nghĩ rằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu cũng đủ rồi, không cần đến cây roi nữa. “Một tia giận sáng như sao từ đôi mắt Ngài chiếu ra, và oai nghi của Chúa rạng ngời khuôn mặt Ngài”. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha, và chính vì yêu mến các con cái Thiên Chúa, cho nên Ngài không thể thụ động đứng ngoài vòng, trong khi những kẻ khốn khổ đến Đền Thờ để thờ phượng Chúa tại Giêrusalem bị đối xử như thế.

CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU (Ga 2,12-16)

Chính những kẻ vô lương tâm, bóc lột khách hành hương đã khiến Chúa Giêsu nổi giận, nhưng phía sau sự kiện dọn sạch Đền Thờ này còn có nhiều điều sâu sắc. Chúng ta thử đi sâu hơn vào các lý do đã khiến Chúa Giêsu mạnh tay như thế.

Để có một bức tranh chính xác về lời Chúa Giêsu nói, chúng ta ghi ra những gì các tác giả Phúc Âm đã nhớ và chép lại, vì mỗi người đã tường thuật một cách. Mátthêu ghi lại lời Chúa Giêsu nói: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp” (Mt 21,13). Maccô viết: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân… Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp” (Mc 11,17). Luca thì chép: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện song các ngươi làm thành ra một cái hang trộm cướp”. Gioan viết: “Hãy cất bỏ đồ đó khỏi đây, đừng làm cho nhà Cha Ta thành ra nhà buôn bán” (Ga 2,16). Có ít nhất ba lý do khiến Chúa Giêsu hành động như vậy, tại sao Ngài nổi giận:

1) Chúa Giêsu làm như vậy vì nhà của Chúa đã bị xúc phạm. Trong Đền Thờ, có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Lòng tôn kính là một bản năng bẩm sinh. Nhà nghệ sĩ Edward Seago kể lại có lần ông dẫn hai đứa bé du mục vào một nhà thờ lớn ở Anh. Hai đứa bé này bình thường rất ngỗ nghịch. Nhưng khi vào trong đại giáo đường, chúng giữ yên lặng cách kỳ lạ. Trên đường về, chúng tỏ ra trang trọng cách khác thường, cho đến tối chúng mới trở lại nghịch ngợm bình thường. Bản năng tôn kính nằm sâu trong lòng chúng ta.

2) Chúa Giêsu hành động như thế để chứng minh việc dâng con vật làm sinh tế không còn thích đáng nữa. Từ nhiều thế kỷ trước, các ngôn sứ đã nói: “Đức Chúa phán: Muôn vàn của lễ các ngươi có can hệ gì đến Ta? Ta đã chán chê của lễ thiêu chiên đực và mỡ của bò con mập. Ta chẳng hài lòng về máu của bò đực, chiên con và dê đực đâu. Thôi đừng dâng của lễ chay vô ích cho Ta nữa” (Is 1,11-17). “Vì Ta đã đem tổ phụ các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, Ta chẳng hề phán và chẳng hề truyền lệnh gì về của lễ toàn thiêu và các của lễ khác” (Gr 7,22). “Chúng nó sẽ đi với các bầy chiên, đàn bò để tìm kiếm Đức Chúa, song không thấy Ngài” (Os 5,6). “Còn như của lễ dâng cho Ta thì chúng nó dâng thịt và thức ăn, nhưng Đức Chúa chẳng nhận đâu” (Os 8,13), “Vì Chúa không ưa thích của lễ, nếu Ngài ưa tôi chắc đã dâng. Của lễ toàn thiêu cũng không đẹp lòng Chúa” (Tv 51,16). Tiếng nói ngôn sứ luôn nhắc đi nhắc lại với loài người tính cách bất thích hợp của các lễ toàn thiêu và các sinh tế vẫn còn tiếp tục bốc khói từ bàn thờ tại Giêrusalem. Chúa Giêsu hành động như vậy là để chứng tỏ không có một lễ vật hay một sinh tế nào có thể làm cho loài người hòa thuận lại với Chúa được.

Ngày nay chúng ta cũng không thoát khỏi khuynh hướng này. Chúng ta không còn dâng sinh vật làm của lễ cho Chúa. Nhưng chúng ta đồng hóa việc phục vụ Chúa với việc lắp đặt những cửa sổ bằng kính màu, việc có thêm một cây đàn phong cầm vang tiếng hơn, việc hao phí thực hiện nhiều công trình chạm trổ trên đá, trên thạch cao, trên gỗ quý, trong khi tinh thần thờ phượng đích thực không thấy đâu. Chúng ta không lên án những việc đó, trái lại tạ ơn Chúa, điều đó thường là do những tấm lòng yêu mến Chúa dâng hiến. Chúng được dùng hỗ trợ cho thờ phượng chân thật, là những việc được Chúa ban phước; nhưng khi chúng thay thế cho lòng thờ phượng chân thật, thì lại khiến Chúa phải ghê tởm.

3) Một lý do khác khiến Chúa Giêsu hành động như thế mà Maccô có thêm một chi tiết đáng chú ý, không tác giả nào đề cập đến: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Đền Thờ gồm nhiều hành lang (sân) dẫn đến bên trong Đền Thờ và nơi Thánh. Trước hết có hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành cho phụ nữ, tiếp đến là hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư tế. Cảnh buôn bán kể trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi duy nhất người ngoại có thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến đó và bị cấm không tiến xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành lang dành cho họ để suy gẫm, cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu nguyện duy nhất của họ.

Thế mà, ban quản trị Đền Thờ và các con buôn người Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo, hỗn loạn khiến không ai có thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành lang Đền Thờ đã loại bỏ mất những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là điều đập mạnh vào tâm trí Chúa Giêsu trên hết; và chỉ một mình Maccô mới giữ được câu nói ngắn ngủi nhưng nhiều ý nghĩa đó. Chúa đã xúc động tận tâm can khi thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn trở như vậy.

Trong sinh hoạt của Giáo Hội chúng ta, giai cấp, kỳ thị, lạnh lùng, kém niềm nở, khuynh hướng biến cộng đoàn thành một câu lạc bộ khép kín, thái độ kiêu căng, làm khó, đã ngăn trở những người lạ có lòng tìm kiếm Chúa phải ở bên ngoài hay không? Chúng ta nên nhớ lại cơn giận của Chúa Giêsu đối với những ai làm khó những người thiện chí tìm Chúa nhưng không thể tiếp nhận Ngài được.

ĐỀN THỜ MỚI (Ga 2,17-22)

Một hành động, như việc dọn sạch Đền Thờ, chắc chắn phải gây phản ứng tức khắc từ phía những người đã mục kích. Đây không phải là loại sự việc mà người ta có thể đứng nhìn với thái độ hoàn toàn dửng dưng, vì hành động đó quá táo bạo.

Có hai phản ứng. Một là phản ứng của các môn đệ của Chúa. Họ nhớ lại những lời trong Thánh Vịnh 69,9; được xem như chỉ về Đấng Mêsia. Khi Đấng Mêsia đến, Ngài có lòng sốt sắng, nóng nảy như nung nấu về nhà Chúa. Khi Thánh Vịnh này hiện lên trong trí các môn đệ, thì niềm tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia càng sâu xa và dứt khoát hơn. Hành động ấy không thích hợp với ai khác ngoài Đấng Mêsia. Các môn đệ càng tin hơn bao giờ hết Chúa Giêsu đúng là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa.

Hai là phản ứng tất nhiên của người Do Thái. Họ hỏi Chúa Giêsu lấy quyền gì để hành động như vậy, và đòi Ngài phải làm một dấu lạ để chứng minh thẩm quyền của Ngài. Họ nhìn nhận hành động của Chúa Giêsu là hành động tự tuyên xưng của Đấng Mêsia. Người ta luôn luôn trông chờ Đấng Mêsia, khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng minh và bảo đảm những lời xưng nhận của Ngài bằng nhiều phép lạ. Thật ra nhiều Mêsia giả đã xuất hiện, và hứa sẽ rẽ nước sông Giođan làm hai, hoặc chỉ nói một lời thì các vách thành liền đổ xuống. Ý niệm phổ thông về Đấng Mêsia gắn liền với phép lạ. Do đó, người Do Thái mới nói: “Bằng hành động dọn sạch Đền Thờ, Thầy đã công khai tự xưng là Đấng Mêsia, bây giờ, hãy cho chúng tôi thấy phép lạ để chứng minh lời tự xưng đó của Thầy”.

Câu trả lời của Chúa Giêsu đã tạo nên vấn đề lớn cho đoạn này. Chúa Giêsu thật sự đã nói gì? Ngài muốn ngụ ý gì? Chúng ta thấy rõ hai câu 21, 22 là lời diễn giải Gioan viết sau này. Tất nhiên ông đã đưa các ý niệm vốn là kết quả của 70 năm suy nghĩ và kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Phục Sinh vào đoạn này. Giáo phụ Irenaeus kinh nghiệm: “Không có lời tiên tri nào được thấu hiểu đầy đủ, cho đến khi nó đã được ứng nghiệm”. Nhưng nguyên thủy, Chúa Giêsu nói gì, và đã ngụ ý gì?

Không có gì để nghi ngờ là Chúa Giêsu đã nói mấy lời giống như câu này, những lời có thể bị những kẻ quỷ quyệt xuyên tạc thành lời tuyên xưng có tính cách phá hoại. Lúc Chúa Giêsu bị đem ra xét xử, có lời chứng dối đưa ra để tố cáo Ngài: “Người này nói: Ta có thể phá Đền Thờ của Chúa rồi dựng lại trong ba ngày” (Mt 26,61). Lời tố cáo chống lại Têphanô: “Chúng ta đã nghe người này nói rằng Giêsu ở Nagiarét sẽ phá nơi đây và đổi tục lệ Môsê đã truyền lại cho chúng ta” (Cv 6,14)

Có hai điều chúng ta phải nhớ và ghép chúng lại với nhau. Trước hết, chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ bảo Ngài sẽ phá hủy Đền Thờ bằng vật liệu thấy được ấy, rồi sẽ xây dựng lại. Thật ra, Chúa Giêsu chờ ngày chấm dứt Đền Thờ. Ngài đã nói cùng người đàn bà Samari, đã đến ngày mà người ta không còn thờ phượng Đức Chúa Trời hoặc trên núi Garidim, hoặc tại Giêrusalem, nhưng phải thờ phượng Ngài bằng tinh thần và chân lý (Ga 4,21). Điều thứ hai, có thể việc Chúa Giêsu mạnh tay dọn sạch Đền Thờ là một cách để chứng tỏ toàn thể thờ phượng với nghi lễ và lễ vật đó không còn phù hợp, và không thể đưa người ta đến với Chúa. Như thế, Chúa Giêsu đã dự liệu đền thờ này sẽ bị phá bỏ, Ngài đã đến để khiến cho sự thờ phượng tại đó trở thành lỗi thời không cần thiết, vì thế chẳng bao giờ Ngài lại gợi ý là sẽ xây lại đền thờ.

Bây giờ chúng ta quay sang Maccô. Như thường lệ chúng ta thấy một câu nhỏ thêm vào có tính cách gợi ý và soi sáng trong tường thuật của Maccô. Theo Maccô kể thì lời tố cáo Chúa Giêsu là: “Ta sẽ phá đền thờ này bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày, Ta sẽ cất một đền thờ khác không bởi tay người ta cất” (Mc 14,58). Rõ ràng, điều Chúa muốn nói là Ngài đến để chấm dứt tất cả những gì do tay người ta làm ra, cách thức thờ phượng Chúa do người ta sắp xếp, để đưa vào sự thờ phượng thiêng liêng. Ngài đã kết thúc mọi việc dâng của lễ bằng súc vật và lễ nghi do các thầy tế lễ chủ trì, thay vào đó bằng việc trực tiếp đưa tâm linh người ta đến gần Thánh Linh của Chúa mà không cần các nghi lễ dâng hương, dâng lễ vật. Lời xác nhận của Chúa Giêsu là: “Sự thờ phượng tại Đền Thờ, các nghi lễ rườm rà, vô vàn lễ vật của các ngươi phải chấm dứt, bởi vì Ta đã đến”. Lời hứa tiếp theo của Chúa là: “Ta sẽ mở cho các ngươi một con đường đến với Thiên Chúa mà không cần các nghi lễ tỉ mỉ đó nữa. Ta đã đến để phá hủy Đền Thờ Giêrusalem, khiến cả trái đất này thành một ngôi đền thờ, ở đó loài người có thể đến gần và biết có sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống”.

Người Do Thái đã thấy việc đó. Năm 19 TC, vua Hêrôđê đã bắt đầu xây dựng ngôi đền thờ vĩ đại ấy. Nhưng đến năm 64 SC việc xây dựng mới xong. Từ ngày khởi công đến lúc bấy giờ là 46 năm, còn hai mươi năm nữa mới hoàn thành. Chúa Giêsu khiến người Do Thái phẫn nộ khi bảo rằng tất cả những huy hoàng tráng lệ, tiền bạc kỹ thuật mà người ta đã đổ vào công trình ấy hoàn toàn vô ích, và Ngài đã đến để chỉ cho người ta một con đường đến với Đức Chúa Trời mà không cần một đền thờ nào cả.

Đây là điều thực sự Chúa Giêsu đã nói. Những năm sau đó Gioan còn nghiệm thấy thêm nhiều điều trong những lời Chúa Giêsu nói. Ông thấy đó là một lời tiên tri về sự Phục Sinh, và Gioan đã đúng. Ông đã thấy đúng, vì cả thế gian này không thể trở thành ngôi đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, cho đến khi Chúa Giêsu lìa bỏ thân xác trần gian hiện diện khắp nơi, ở với mọi người, mọi chỗ, cho đến tận cùng trái đất.

Chính sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và hằng sống đã khiến cả thế gian trở thành đền thờ của Thiên Chúa. Cho nên khi các môn đệ gẫm lại, họ mới hiểu đó là lời hứa về sự Phục Sinh. Lúc ấy họ không thể hiểu được, nhưng sau khi chính họ kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Hằng Sống, họ mới thấy được ý nghĩa sâu nhiệm của những gì Chúa Giêsu đã nói.

Cuối cùng Gioan bảo: “thì (họ) tin Kinh Thánh”; Kinh Thánh nào đây? Ông muốn nói đến câu Kinh Thánh vẫn ám ảnh Hội Thánh sơ khai: “Chúa không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát” (Tv 16,10). Đó là câu Phêrô đã trích dẫn vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,31); Phaolô đã trích dẫn tại Antiokia (Cv 13,35). Câu Kinh Thánh đó diễn tả lòng tin của Hội Thánh vào quyền năng của Thiên Chúa và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.

Tại điểm này chúng ta được đưa vào chân lý, chúng ta được tiếp xúc với Chúa, ra mắt Ngài, đến gần Ngài, không tùy thuộc vào bất cứ điều gì do bàn tay và trí tuệ con người làm ra. Ngoài đường phố, ở trong nhà, lúc làm việc, khi ở trên núi, trên đường dài vắng vẻ hay trong nhà thờ, chúng ta đều có đền thờ nội tâm, có sự hiện diện vĩnh viễn của Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài vẫn ở với chúng ta khắp mọi nơi.

ĐẤNG DÒ XÉT LÒNG NGƯỜI (Ga 2,23-25)

Gioan không thuật lại các phép lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua ấy. Nhưng nhiều người sau khi thấy phép lạ Ngài làm, thì tin Ngài. Vấn đề Gioan đặt ra ở đây là: Nếu đã có nhiều người tin Ngài tại Giêrusalem ngay từ buổi đầu, tại sao Chúa Giêsu không ở lại đó, dựng cờ lên để tự xưng là Đấng Mêsia, công khai tuyên bố mình là ai?

Câu trả lời là, Chúa Giêsu vốn biết rõ tâm địa con người. Ngài biết rõ, đối với nhiều người Ngài chỉ là một hiện tượng lạ chóng qua. Ngài biết có nhiều người chỉ bị lôi cuốn bởi những việc lạ lùng Ngài làm. Ngài đã biết rõ chẳng có ai thấu hiểu con đường Ngài đã chọn. Ngài biết nhiều kẻ chỉ theo Ngài vì phép lạ, dấu kỳ, nhưng khi Ngài bắt đầu nói với họ về phục vụ, từ bỏ mình, tuân phục ý Chúa, về thập giá và việc vác thập giá, chắc chắn họ sẽ trố mắt nhìn Ngài mà chẳng hiểu gì cả, sẽ bỏ Ngài ngay.

Một đặc điểm quan trọng của Chúa Giêsu là Ngài không muốn những ai theo Ngài mà chưa hiểu biết thật rõ ràng, và dứt khoát chấp nhận trả giá. Ngài khước từ việc nắm lấy cơ hội nổi tiếng trong chốc lát. Nếu Ngài tự phó mình cho đám quần chúng tại Giêrusalem, chắc họ tôn Ngài là Đấng Mêsia ngay tức khắc, để sau đó họ trông mong vào những hành động vật chất trần gian Đấng Mêsia thực hiện. Nhưng Chúa Giêsu không yêu cầu người ta thừa nhận Ngài, cho đến khi họ biết rõ tiếp nhận Ngài có ý nghĩa gì. Ngài đòi hỏi mỗi người phải nhận biết điều Ngài đang làm.

Chúa Giêsu biết rõ bản chất, tấm lòng bất định, dễ đổi thay của loài người. Ngài biết rõ con người có thể bị bốc đồng, bị lôi cuốn trong những khoảnh khắc xúc động mạnh, nhưng lại rút lui sau khi thấy rõ những gì phải trả giá. Ngài biết bản chất con người thèm những kích động tình cảm. Ngài không muốn đám đông hoàn toàn chẳng biết gì cả mà cứ tung hô, Ngài chỉ cần một số ít người biết rõ mình đang làm gì, và sẵn sàng theo Ngài cho đến cùng.

Có một điều cần chú ý trong đoạn này, vì chúng ta còn nhiều lần lặp lại. Khi Gioan đề cập đến những phép lạ của Chúa Giêsu, ông gọi đó là những dấu lạ. Tân Ước dùng ba từ khác nhau chỉ các công việc lạ lùng của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu, mỗi từ cho chúng ta biết một phần về ý nghĩa và bản chất của phép lạ.

1) Chữ Teras chỉ có nghĩa là một cái gì đó lạ lùng, đáng ngạc nhiên, kỳ lạ. Chữ này không bao hàm một ý nghĩa đạo đức nào cả. Một trò lừa đảo bằng phù phép có thể là một teras, nó chỉ là một điều xảy ra khác lạ khiến người ta phải ngạc nhiên. Tân Ước không dùng chữ này một mình để chỉ các công việc của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu.

2) Chữ Dunamis theo nghĩa đen là năng lực, do từ này mà có chữ cốt mìn (dynamite). Nó có thể được dùng để chỉ bất cứ một năng lực khác thường nào, hoặc chỉ sức tăng cường, các năng lực thiên nhiên, năng lực của một thứ thuốc, năng lực của một người có tài. Nó luôn luôn có nghĩa là một năng lực hữu hiệu để làm việc mà ai cũng nhìn nhận.

3) Chữ Semeion có nghĩa là một dấu hiệu (sign). Đây là chữ mà Gioan thích dùng. Theo ông, phép lạ không chỉ là một việc xảy ra kinh ngạc, một việc làm bởi quyền năng và là một dấu hiệu; nghĩa là nó cho người ta biết về người đã làm việc lạ ấy, phô bày một điều gì đó về tính tình, bản chất của người ấy, đó là một hành động mà qua đó người ta có thể biết rõ hơn, đầy đủ hơn về phẩm cách của người đã hành động. Với Gioan, điều tối quan trọng trong các phép lạ của Chúa Giêsu là bày ra cho người ta biết về bản chất và phẩm cách của Thiên Chúa. Quyền phép Chúa Giêsu đã được sử dụng để chữa kẻ bệnh, cho kẻ đói được ăn, an ủi kẻ gặp bối rối; chính sự kiện Chúa dùng quyền phép mình như thế, là bằng chứng Chúa quan tâm đến sầu khổ, thiếu thốn và đau đớn của con người. Với Gioan thì các phép lạ là các dấu hiệu bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa.

Vậy, trong bất cứ phép lạ nào cũng có ba điều: có điều lạ làm cho người ta bàng hoàng, sững sờ, kinh ngạc. Có phần quyền năng hoạt động hữu hiệu đối phó và hàn gắn thân thể bị thương tật, tâm trí bị rối loạn, tấm lòng tan nát, một quyền năng có thể làm mọi việc. Có phần dấu hiệu bày tỏ tình yêu và tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng đã làm những việc như thế cho loài người.

 

 

 

 

 

72. Tẩy uế đền thờ

 

“Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2,16)

Suy niệm:

Đức Giêsu mang lại những cái mới:

Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc “sinh ra bởi nước và Thần Khí” như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới mà Đức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: “Giờ đã đến – và chính lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật” (4,23).

Riêng với đoạn Tin Mừng hôm nay, cái mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như hậu quả của lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu sẽ bị tố cáo “Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: “Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!” (27,39-40).

Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay, điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm cho Đền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ (cc.17-22).

Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn này. Đây là đoạn đầu về đời công khai của Đức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!” (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Đức Giêsu hành động một cách chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái: “Lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến.” Độc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Đức Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính thức và công khai.

Đức Giêsu nổi giận trước cảnh Đền Thờ bị tục hoá:

Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Đức Giêsu thấy Đền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ câu. Đức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi nó ra tiền của Đền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể tới tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.

Ở đây ta có hình ảnh một Đức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Đó là dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ bán bồ câu rằng: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (c.16)

Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy nghĩ như sau:

Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh Thánh “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (c.17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số phận của Đức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Đức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con vì Người nói: “Đừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán.” (c.16).

Người Do thái đòi Đức Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Đức Giêsu đã không làm phép lạ. Người cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân thể của Người là thân thể sẽ trở nên Đền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).

Điều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.

Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là: “dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình” (2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác. Đó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.

Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ Phaolô nói: “Nào anh em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” (1Cr 3,16-17).

Vậy cơn thịnh nộ của Đức Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu chịu chết nay được phục sinh mới thực sự là Đền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.

Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới:

Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời là: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4,22-24).

Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi.” (2Cr 5,17)

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạc khải cho chúng con biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa chính là Đền thờ cao quý nhất. Xin cho chúng con biết trân trọng và yêu mến Đền Thờ. Xin cho chúng con chúng con cũng biết dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong sạch, xứng đáng là đền thờ đẹp cho Chúa ngự.

home Mục lục Lưu trữ