Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 45

Tổng truy cập: 1366498

CON NGƯỜI ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ

CON NGƯỜI ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ

 

 

– Noel Quesson.

Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi Châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được Gia đình gởi về Rôma học ngành điện tử. Đậu tiến sĩ điện tử xong, anh Caphu gia nhập phong trào Tổ Ấm.

Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý.

Trong cuộc sống trần gian, ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn. Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa, các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.

Nhân dịp này Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống, và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng Tin Mừng.

Đọc lại câu chuyện hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.

Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, ngừơi ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết… Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. "Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân". Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Chúa, không màng tới địa vị cho mình, nhưng luôn dấn thân phục vụ anh em, như Chúa đã đến phục vụ và hy sinh cả mạng sống làm giá cứu chuộc chúng con.

 

38.Phục vụ.

Con Người đến để phục vụ.

Nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta thấy chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy của mình.

Thực vậy, với tinh thần phục vụ, Ngài đã xuống thế làm người, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu nỗi đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cứu độ chúng ta khỏi án phạt đời đời.

Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài thực hiện tinh thần phục vụ trong đời sống thường ngày. Ngài phán:

- Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.

Trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ:

- Nếu Ta là Thày và là Chúa của các con, mà còn quỳ xuống rửa chân cho các con, thì các con cũng phải quỳ xuống mà rửa chân cho nhau.

Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực hiện lời khuyên trên đây của Chúa Giêsu.

Phanxicô d’Assie, mặc dù thuộc về gia đình quyền quý và giàu sang, nhưng đã từ bỏ tất cả, để sống khó nghèo, trở nên một người anh em hèn mọn để phục vụ những người khổ đau.

Gần đây, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng, tên là Kagawa, cũng đã từ bỏ căn nhà tiện nghi, đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo, để chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho những ai đang cần đến một sự giúp đỡ. Một tác giả đã viết về ông như sau:

- Ông đã cho đi tất cả quần áo của mình và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng đã cũ. Lần kia, mặc dù đang ốm, ông vẫn tiếp tục đi dạy giáo lý dưới cơn mưa, ông lặp đi lặp lại không ngừng: Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa. Trong một bức thư, chính ông đã viết như sau: Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những bệnh tật. Ngài đứng về phe những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Chúa thì hãy đến thăm nhà tù trước khi đến nhà thờ, đến thăm bệnh viện trước khi tham dự thánh lễ. Hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta phải làm gì để sống tinh thần phục vụ một cách thiết thực hơn? Chúng ta phải làm gì để trở thành những Kitô hữu đích thực trong chính gia đình và môi trường làm việc của mình?

Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó, dù rất nhỏ bé và vô nghĩa, khởi đầu là cho những người thân yêu trong gia đình, rồi từ đó mở rộng việc phục vụ ra môi trường rộng lớn hơn. Còn nếu không khởi sự từ gia đình thì chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.

Và để kết luận, chúng ta nên nhớ:

- Mỗi khi chúng ta phục vụ anh em, cho dù bằng những việc làm nhỏ bé và tầm thường nhất, thì đó cũng là chúng ta phục vụ cho chính Chúa vậy.

 

39.Khôn ngoan.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc hai ông Gioan và Giacôbê muốn ngồi hai bên tả hữu của Chúa Giêsu Kitô. Họ đang nghĩ đến chuyện thăng quan tiến chức. Họ cũng nghĩ rằng mình có khả năng và xứng đáng ngồi ở địa vị cao. Phản ứng của Chúa Giêsu là: “Các con không biết các con xin gì”. Thay vì nói đến vinh quang và sung sướng. Chúa Giêsu nói với họ về việc chia sẻ “chén đắng” và “phép rửa” với Chúa. Chén trong Kinh Thánh là hình ảnh tượng trưng cho những đau khổ lớn lao. Còn phép rửa tượng trưng cho những lo âu, buồn sầu, đau đớn. Đây là những điều đang chờ đón người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.

Khi người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông, không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Họ tức giận vì nghĩ rằng họ có đủ tư cách hơn hai ông Gioan và Giacôbê.

Có lẽ mỗi người trong chúng ta cũng bực mình với hai ông Giacôbê và Gioan, vì họ đầy tham vọng và ích kỷ. Nếu chúng ta có thái độ đó, là do chúng ta quên rằng mình cũng đang khiển trách y như họ. Chúng ta cũng đang làm những điều tương tự đối với những bạn đồng nghiệp của mình. Chúng ta cũng muốn vượt lên trên họ, bước lên họ mà đi, dùng họ như bàn đạp để thăng tiến bản thân mình. Chúng ta cũng muốn phục vụ, cũng muốn cho đi thời giờ, cống hiến tài năng và tiền bạc, bao lâu chúng ta có thể thu lại được một điều gì đó.

Rất ít người tự nguyện làm việc cho Giáo hội, bởi vì không được trả lương. Người làm việc phụ thuộc vào sự từ tâm của các giáo dân trong giáo xứ. Nhưng tạ ơn Chúa, vì cũng còn những người muốn chia sẻ tài năng ít ỏi của mình, thời giờ và tiền bạc cho công việc của Giáo hội. Đó là những bậc làm cha mẹ muốn giáo dục con cái theo các giá trị Kitô giáo, những giáo viên khơi dậy nơi học trò của mình lòng khao khát sống cho một lý tưởng cao đẹp, những y tá chăm sóc cho các bệnh nhân, và những người tình nguyện thăm viếng những người tản cư.

Lạy Chúa, xin cho con nhớ Chúa là Thầy, là Chúa nhưng Chúa đã hạ mình xuống để phục vụ tất cả mọi người.

 

40.Gus và Ruth.

Một người đàn bà tên là Ruth đang đi ra khỏi nhà thờ sau Lễ Chúa Nhật. Bà nhìn thấy một người đàn ông lụ khụ đang gắng sức để mặc chiếc áo lạnh. Bà liền đi lại gần ông già, mỉm cười và giúp ông một tay.

Sau đó, Ruth lại gặp ông già ấy một lần nữa và hai người bắt đầu nói chuyện với nhau. Sau khi hỏi han, Ruth mới biết tên ông già là Gus và nhà ông già ở tiện đường về nhà Ruth nên bà cho ông già quá giang. Lần quá giang đó đã trở nên hằng tuần cho tới hai năm.

Vào một buổi sáng Chúa nhật, Ruth không nhìn thấy Gus đâu hết nên mới vào nhà ông xem. Khi vô thì Ruth thấy ông già Gus đang nằm bệnh gần chết. Ông được đem vô nhà thương ngay.

Một vài ngày sau, Ruth được nhà thương gọi và báo là Gus chỉ còn có thể sống thêm một ngày nữa. Ruth liền hỏi cô y tá: "Vậy cô có gọi cho họ hàng của ông ấy chưa?"

Cô y tá trả lời: "Ông ấy không có họ hàng gì cả. Ông ấy chỉ bảo cô là người thân duy nhất để liên lạc trong trường hợp khẩn cấp." Nghe như thế, Ruth hết sức ngạc nhiên. "Chẳng lẽ Gus chỉ có một mình?"

Ruth liền đến nhà thương và đến bên cạnh giường ông già gần chết. Gus thở từng hơi rất mạnh và không thể nói được gì hết. Tuy vậy, Gus xem ra vẫn nhận ra Ruth. Gus chỉ biết dùng ánh mắt để đáp lại những lời an ủi và yêu thương của Ruth. Sau đó một vài phút, Gus đã ra đi trong bình an.

Câu truyện trên diễn tả một cách sống động hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay, nhất là bài Phúc Âm. Hai chủ đề đó là đau khổ và phục vụ. Đau khổ và phục vụ giống như hai đường sắt của đường rầy xe lửa. Nếu bạn tìm thấy một ở đâu, thì đó bạn cũng tìm thấy cái kia. Hai cái luôn đi song đôi với nhau.

Thứ nhất, sự phục vụ người khác luôn đi với đau khổ. Bạn không thể nào giúp một người khác mà không phải hy sinh một cái gì đó. Chúng ta nhìn thấy điểm này trong câu truyện của Ruth và Gus. Trải qua hai năm, Ruth đã hy sinh để chở Gus về nhà sau lễ. Cho dù đây không phải là hy sinh lớn lao gì, nhưng đó cũng là hy sinh.

Thứ hai, đau khổ và phục vụ đi với nhau, bởi vì một trong những cách đơn giản nhất là chúng ta có thể giúp người khác làm cho gánh nặng đau khổ của họ nhẹ đi.

Chính Chúa Giêsu đã cứu giúp các anh chị em đau khổ của Ngài. Chúng ta hãy nhìn sâu xa hơn làm sao để chúng ta có thể phục vụ những người xung quanh chúng ta, nhất là những người thân trong gia đình, bằng cách là làm cho gánh nặng của họ được nhẹ đi.

Có lẽ điều cản trở lớn nhất để thực thi điều nói trên là tính lãnh đạm với những đau khổ của những người sống chung quanh chúng ta. Chúng ta bắt đầu dùng khả năng để ý tập trung đến những sự cần thiết của người khác hơn là những khó khăn của bản thân.

Trong thời gian 'Great Depression' (Đại Tình Thế Suy Nhược) vào năm 1930, các nhân viên chính phủ thường hay đi rảo qua các vùng núi tiểu bang Tennessee để phân phát tiền của cho một số nông phu nghèo để mua thức ăn và những thứ cần thiết.

Khi một nhân viên chính phủ đến một căn nhà lụp xụp nhỏ của một người đàn bà nọ, ông hỏi bà ấy rằng: "Nếu tôi cho bà $200 thì bà sẽ làm gì?" Sau một lúc, bà trả lời: "Tôi sẽ giúp cho những người nghèo ở chung quanh đây."

Người đàn bà ấy đã tập được cái tính biết để ý quan tâm đến những sự cần thiết của kẻ khác hơn là của chính mình.

"Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người."

 

41.Ai là người lớn nhất?

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)

Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.

Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).

Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.

Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.

Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.

Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:

“Lạy Chúa từ nhân

Xin cho con biết mến yêu

Và phụng sự Chúa trong mọi người

Lạy Chúa xin hãy dùng con

Như khí cụ bình an của Chúa

Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù

Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục

Ðem an hòa vào nơi tranh chấp

Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm

Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan

Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng

Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm

Ðem niềm vui đến chốn u sầu

Lạy Chúa xin hãy dậy con

Tìm an ủi người hơn được người ủi an

Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết

Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu

Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh

Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ

Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời

Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con

Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí

Ơn an bình”.

 

42.Làm lớn.

Lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi bỗng nhớ tới một vài câu đố, thoạt xem ra thì có vẻ vô lý, nhưng ngẫm nghĩ lời giải đáp thì lại thấy có lý.

Câu đố thứ nhất: cái gì càng kéo thì lại càng ngắn. Tôi xin thưa đó là điếu thuốc lá. Câu đố thứ hai: cái gì càng to lại càng bé. Tôi xin thưa đó là con cua.

Từ câu đố thứ hai này, tôi muốn đi vào tinh thần của lời Chúa:

- Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu, thì phải trở nên đầy tớ.

Như vậy có nghĩa là càng làm to thì càng phải sống bé nhỏ khiên tốn trong tinh thần phục vụ.

Suy đi nghĩ lại, tôi thấy lời Chúa hôm nay quả thật rất đúng cho mọi mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thời buổi nào cũng vậy, ngày xưa cũng như ngày nay. Thực vậy, bất kỳ chế độ nào cũng hô hào lấy dân làm gốc. Người công an cảnh sát là bạn của dân. Còn công chức cán bộ là nô bộc, là đày tớ của dân. Nhưng đó mới chỉ là những khẩu hiệu, việc thực hiện mới chỉ được phần nào, nếu không muốn nói là nhiều khi đã đi ngược lại với những lời hô hào kể trên.

Ngày xưa, ông vua làm đầu trong một nước. Vua phải tôn trọng dân, vì ý dân là ý trời, như người đời vốn thường bảo:

- Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là dân đáng quí nhất, tiếp đến là đất nước, rồi sau mới tới nhà vua.

Thế nhưng, nhiều ông vua đã không tôn trọng nguyên tắc ấy, cai trị dân như tên hôn quân bạo chúa, dùng pháp luật và quyền lực để áp chế dân, đúng như Chúa đã nói.

Còn ngày nay, những cán bộ và công nhân viên cấp lớn, cũng vốn tự xưng mình là bạn dân, là đầy tớ của dân, thế nhưng lại quan liêu hống hách, khiến cho người dân thấp cổ bé miệng phải khốn đốn khổ sở.

Nhiều kẻ vơ vét về cho đầy túi bằng tham nhũng hối lộ, theo kiểu làm quan để được vinh thân phì gia. Nhiều kẻ lợi dụng chức quyền để bênh vực hay đề bạt đàn em, gương cao ô dù theo kiểu: một người làm quan cả họ được nhờ.

Vì thế, trong những ngày gần đây báo Tuổi Trẻ cũng như nhiều báo khác đã có những bức biếm họa, những bài phiếm luận đượm mùi cay đắng, nói lên tình trạng trộn đảo lộn khác thường: đầy tớ thì đi xe con còn ông chủ thì đi xe lớn, đầy tớ thì quát tháo còn ông chủ thì đứng mà run…

Vì thế, cần phải đổi mới cách nghĩ và cách sống, nhất là cần phải bám sát vào tinh thần của lời Chúa. Càng làm lớn thì càng phải tỏ ra khiêm nhường và bé nhỏ trong tinh thần phục vụ. Chúa Giêsu đã nói và đã làm như vậy. Là Thiên Chúa, Ngài đã trở nên một người như mọi người và hơn thế nữa, Ngài còn vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.

Trong ngày thứ năm tuần thánh, để nêu gương khiêm nhường và phục vụ, Ngài đã quì xồng rửa chân cho các môn đệ, như lời Ngài đã phán:

- Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người… Các con gọi Ta là Thày và là Chúa thì phải lắm. Nếu Ta là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.

Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực thi lời Chúa, đã sống khiêm nhường và phục vụ anh em. Ngay cả đến Đức Thánh Cha, trong mọi văn thư chính thức, bao giờ cũng tự xưng là “Servus servorum” nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ.

Chúng ta cũng vậy, dù nắm giữ chức vụ nào trong xã hội cũng như trong tôn giáo, phần đạo cũng như phần đời, chúng ta hãy sống khiêm nhường và phục vụ. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:

- Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu thì phải trở nên đầy tớ.

Nghĩa là càng to, thì lại càng phải nhỏ.

 

43.Khiêm nhường phục vụ.

Trên đường đi lên Giêrusalem, một lần nữa, đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu lại loan báo cho các môn đệ về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Lần này thánh Marcô không kể lại phản ứng của các môn đệ như thế nào, nhưng câu chuyện kể ra liền sau đó đã nói lên một cách sâu sắc rằng các ông vẫn chưa hiểu gì. Trái lại, các ông tưởng đâu Chúa sẽ ra đi làm vua thống trị, thì họ sẽ được những ghế cao trong nước Chúa, bởi vì trước đây vài tuần Chúa đã hứa là họ sẽ được ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Ítraen. Nhân câu chuyện này, Chúa Giêsu lại giảng thêm về ý nghĩa cái chết của Ngài và về cách thức làm môn đệ của Ngài.

Khởi đầu câu chuyện là việc hai anh ruột Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi hai bên tả hữu Chúa trong nước Chúa. Tức là hai ông muốn xin được địa vị cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Theo bài Tin Mừng thánh Marcô hôm nay thì chính hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu. Còn Tin Mừng thánh Matthêu lại cho biết: không phải hai môn đệ thỉnh nguyện mà là bà mẹ của hai ông đã đến thỉnh cầu cho hai con bà. Bà mẹ nào chẳng thế! Ai lại chẳng muốn cho con mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự. Chúa Giêsu quá biết tâm lý tự nhiên của mỗi người: muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai bảo người khác. Chúa đã sửa bảo họ một cách tế nhị.

Trước hết, Chúa hỏi họ: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Hai ông vui vẻ và mau mắn trả lời ngay: “Thưa được”. Chắc chắn lúc ấy hai ông chưa ý thức và chưa hiểu rõ thế nào là uống chén và thế nào là chịu phép rửa. Bởi vì ngay những tư tưởng về nước trời và vinh quang nước trời hai ông cũng chưa hiểu đúng, nên mới xin Chúa một cách đơn sơ được ngồi hai bên tả hữu Chúa.

Vậy “chén” và “phép rửa” Chúa Giêsu nói ở đây là gì? Trong Cựu ước, “chén” đôi khi cũng dùng để chỉ phúc thái ơn lộc, nhưng qua thời các ngôn sứ, “chén” thường được dùng để chỉ đau khổ, bất hạnh. Trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: xin Chúa Cha cất chén đau khổ, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Còn “phép rửa” ở đây là cái chết đau thương của Ngài, đây là phép rửa bằng máu, cũng có nghĩa là đau khổ. Nói chung, điều kiện mà Chúa đòi hỏi hai anh em Giacôbê và Gioan là có sẵn sàng chịu đau khổ với Ngài không? Lúc ấy hai ông thưa được dù chưa hiểu, nhưng sự thật sau này hai ông đã uống chén và chịu phép rửa như đã cam kết với Chúa. Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua A-gờ-ríp-pa đệ nhất, và là thánh tông đồ chịu tử đạo đầu tiên. Còn thánh Gioan, nếu không có một phép lạ thì cũng đã chết tử đạo khi bị bỏ vào vạc dầu sôi. Nhưng dù sao ngài cũng chết anh hùng sau chuỗi ngày bị lưu đày ở đảo Pát-mô.

Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và thắng vượt lòng ghen tị. Sở dĩ các môn đệ khác bực mình với Giacôbê và Gioan bởi vì họ cũng có lòng ghen tị không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các môn đệ suy nghĩ về nước Chúa Giêsu ở trần gian này. Nhưng Chúa lại suy nghĩ một cách khác. Nước Ngài không thuộc về thế gian, nơi đó người có quyền áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị người nghèo đói. Nước Trời ngay trong lòng mỗi người, là Giáo Hội của Chúa, nơi đó không dựa trên quyền bính nhưng dựa trên tình thương. Đó là nơi không có hận thù, ghen tị, tranh chấp.

Trong Giáo Hội cũng như trong bất cứ một tập thể nào, thường có một người đứng đầu để điều khiển những người khác và tổ chức sinh hoạt, không thể nào có cảnh “cá đối bằng đầu” mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn tùng phục ai. Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác, lên mặt ta đây tự cao tự đại. Trái lại, phải biết phục vụ. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người vốn là điều không tốt, nhưng lòng ghen tị cũng không tốt đẹp gì. Hai tật xấu này vốn là những khuyết điểm đã từng làm cản trở sự phát triển đời sống con người về mọi phương diện. Nên Chúa Giêsu bảo chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu ấy.

Xin Chúa cho chúng ta luôn có tham vọng tốt để phát triển khả năng của chúng ta và sử dụng khả năng đó để phục vụ mọi người. Đồng thời xin Chúa cho chúng ta luôn vui vẻ với mọi người, không ghen tị, để chúng ta luôn được mọi người yêu mến, và nhất là Chúa Giêsu cũng sẽ hài lòng về chúng ta.

 

44.Phục vụ.

Bài Tin Mừng bàn về một chủ đề quan trọng – sự thực thi quyền bính. Nó liên can đến tất cả chúng ta. Nhiều người đã có kinh nghiệm xấu về quyền bính.

Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như một cơ hội để thăng tiến bản thân.

Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bính áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền, làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.

Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về.

Một vài người có tham vọng quyền lực, và sử dụng quyền bính của họ để thống trị những người khác. Đó là một sự lạm dụng quyền bính. Tham vọng quyền lực không mọc rễ trong sức mạnh nhưng trong sự yếu đuối. Chỉ có kẻ yếu mới đo lường giá trị của mình bằng những con người mà họ có thể thống trị. Thực hành quyền bính theo cách này sẽ làm cho người có quyền bị cô lập và lúc đó quyền bính chỉ đem lại điều xấu nhất cho mọi người.

Khi Giacôbê và Gioan xin Đức Giêsu cho họ có chỗ cao nhất trong vương quốc của Người thì họ chỉ nghĩ về mình. Họ không nghĩ đến lòng ganh tị và sự bực bội to lớn mà họ gây ra cho các bạn mình. Rõ ràng họ đã nghĩ đến vương quốc của Người theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian trong đó những người ở địa vị cao phải được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói với họ điều ngược lại. Trong vương quốc của Người, ai lớn nhất phải sẵn sàng phục vụ người khác thay vì chính bản thân mình.

Trước tiên, Đức Giêsu phác họa tiêu chuẩn mà người ta chấp nhận về chính quyền dân sự: sự thống trị với quyền lực của các thủ lãnh trên những thần dân của họ. Nhưng trong cộng đoàn của Người thì không phải như thế. Người coi quyền bính như một cơ hội để phục vụ. Và lúc nào cũng thế, Người lấy chính mình làm gương. Người không làm một chúa tể hống hách trên dân. Người kêu gọi, mời gọi để họ đáp lại. Người muốn hướng dẫn nhưng không muốn điều khiển. Quyền bính của Người phản ánh quyền bính của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng quyền lực của Người không phải để điều khiển mà để cho phép.

Đó là cách thi hành quyền bính mà Người muốn có trong cộng đoàn của Người. Quyền bính không nên ban cho những người tìm kiếm nó, nhưng chỉ ban cho những người đã chứng tỏ mình sẵn sàng để phục vụ. Những người được giao cho quyền bính trên anh em mình phải cẩn trọng, công bằng, nhân hậu, khôn ngoan, khoan dung và quảng đại.

Để phục vụ, người ta phải sẵn sàng uống chén mà Đức Giêsu đã uống – chén hy sinh và đau khổ. Người ta có thể phục vụ ở bất cứ địa vị nào. Tuy nhiên, những người ở địa vị có quyền bính có vị trí tốt nhất để phục vụ. Chúng ta đang khám phá lại tinh thần này trong Giáo Hội và đây là một điều rất tốt. Quyền bính được sử dụng để phục vụ của người Kitô hữu có thể trở thành một sức mạnh kỳ diệu cho điều thiện hảo.

 

45.Đảo ngược.

Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ. Người bắt các tông đồ phải nhớ lại một bài học mà Người đã dạy họ trước đó, tức là bài học quyền bính đối với họ là một hình thức của sự phục vụ. Thế nên trong tâm trí các tông đồ không còn chút mơ hồ, nghi hoặc về những lời Đức Giêsu muốn nói: “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.

Ngày nay, thường có một hố sâu ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị cai trị. Đặc biệt một số tổn hại là do những điều sau đây. Những người ở địa vị thấp cảm thấy không được những người ở địa vị cao đánh giá đúng. Họ thấy những người này xa cách và coi thường họ. Những người đã cố sức leo lên địa vị cao rất dễ quên lúc mình còn dưới “đất đen” thì sự việc ra sao. Nhớ lại chính là hiểu biết. Cha mẹ tốt nhớ lại sự việc như thế nào khi mình còn nhỏ như con mình bây giờ.

Giá mà những người quyền cao chức trọng theo được tấm gương của Đức Giêsu đã đưa ra trong Bữa Tiệc Ly. Hãy để cho anh cảnh sát bị bắt; linh mục xuống ngồi ở hàng ghế dành cho giáo dân; ông thầy giáo xuống ngồi ở bàn học trò, đốc công xuống con mương; cai ngục bị nhốt vào xà lim; bác sĩ bị bệnh nặng; quan tòa ngồi vào ghế bị cáo; ông tướng phải ra tiền tuyến; người có công việc ổn định phải đứng xếp hàng nhận trợ cấp… hẳn chúng ta sẽ có sự quan tâm và nhạy cảm nhiều hơn trong việc thực thi quyền bính?

Dĩ nhiên trường hợp ngược lại cũng xảy ra – những người cấp trên không được người cấp dưới hiểu, và những lời phê phán khó nghe đôi khi được truyền cho nhau nghe.

Một ngày nọ một đồng hồ đeo tay đi ngang qua quảng trường tháp đúng lúc đồng hồ lớn trên tháp chuông gõ mười hai giờ trưa. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn lên đồng hồ lớn và nói: “Có phải ông tưởng rằng mình tốt hơn chúng tôi sao? Ông hãy nhìn lại chính mình xem. Khuôn mặt ông thì thường quá, tay ông thì vụng về, lóng ngóng, còn giọng nói của ông thì thô lỗ?”

Nhưng đồng hồ lớn bình tĩnh đáp lại: “Chú em nhỏ của tôi hãy lên đây và anh sẽ chỉ cho chú em cái này”.

Đồng hồ đeo tay leo lên những cầu thang dài và sau cùng đứng bên cạnh đồng hồ lớn. Phong cảnh nhìn từ nơi này đẹp làm sao! Nhưng chẳng mấy chốc, nó nhận thấy ngất ngưởng trên này thật nguy hiểm và cũng luôn cô độc.

“Này chú em, có một người ở dưới kia muốn biết giờ. Tại sao chú em không nói cho người đó biết?”

“Ôi, tôi không thể nào làm cho người đó nghe và thấy tôi từ chỗ này. Đồng hồ đeo tay đáp.

“Thế thì chú em không thể nói cho người đó biết”, đồng hồ lớn đáp: “Nhưng tôi có thể làm được. Mỗi người chúng ta có một việc phải làm. Việc tôi làm được thì chú em không thể, việc chú em làm được thì tôi không làm được. Vì thế, chúng ta không nên phê phán lẫn nhau. Trái lại, mỗi người hãy theo cách của mình và từ vị trí của mình để nói cho người ta biết thời giờ. Bằng cách đó, chúng ta không những bình đẳng mà còn là anh em của nhau”.

Đức Giêsu phá bỏ khoảng cách giữa ông chủ và tôi tớ. Trong Người hai bên đã trở nên một.

 

46.Đắng cay.

Một trong những hình ảnh mà Kinh Thánh dùng để chỉ đời sống là cái chén. Cũng giống như một cái chén có thể đựng một thứ đồ uống vừa đắng vừa ngọt, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể nói được là sự pha trộn giữa ngọt ngào và đắng cay. Đây là một hình ảnh phong phú và mạnh mẽ.

Nếu chén có thể hiểu như cả một cuộc đời thì nó cũng có thể hiểu như một phần cuộc đời. Vậy thì, có những lúc chén đời sống đầy những điều đắng cay, đắng cay đến nỗi chúng ta không muốn uống hoặc cảm thấy không thể nào uống được. Nhưng có những lúc khác, chén ấy tràn đầy sự ngọt ngào. Có lúc chúng ta không có đủ. Và còn những lúc khác, chén ấy có thể nhạt nhẽo và vô vị. Sau cùng, có những lúc, chén của đời mình trống rỗng.

Giacôbê và Gioan đến cùng Đức Giêsu với một đòi hỏi rất ích kỷ. Họ đòi được một người ngồi bên tay phải và người kia ngồi bên tay trái Đức Giêsu trong nước trời. Rõ ràng họ nghĩ vương quốc của Đức Giêsu cũng theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian. Người ở địa vị cao sẽ được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực.

Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ liền đáp lại: “Thưa được”. Bởi vì họ nghĩ rằng đó là một chén rất ngọt ngào.

Nhưng điều mà Đức Giêsu thật sự muốn hỏi hai môn đệ là: “Các anh có sẵn sàng đi qua những đau khổ mà Thầy sắp trải qua không?”

Uống chén đau khổ và hy sinh không phải là việc dễ dàng. Dĩ nhiên khi giờ đã đến để Đức Giêsu phải uống chén đó, Người đã chùn bước. Ba lần Người xin Chúa Cha cất chén ấy khỏi tay Người: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, và Người đã uống chén đó.

Các tông đồ lúc đó không biết chén của Chúa sẽ là chén rất đắng cay. Họ cũng không biết sự yếu đuối của mình. Thế nên khi giờ của Chúa đến, họ không cùng uống chén ấy với Người mà để Người uống chén đắng cay ấy một mình.

Chúng ta không biết trước chén đời sống nào được đưa cho chúng ta. Chúng ta khám phá dần dần khi chúng ta tiến bước. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã chọn uống chén rất đắng cay. Nhưng như chúng ta đã thấy. Người không thấy việc đó dễ dàng. Thế nhưng Người đã uống cạn chén đó và làm thế vì yêu thương chúng ta (sự cần thiết bi thảm cũng thế – hãy nghĩ đến những viên thuốc đắng mà người ta phải uống)

Dù Đức Giêsu vô tội, Người đã cảm nghiệm sự yếu đuối và cám dỗ mà chúng ta cảm nghiệm. Người biết sự yếu đuối của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đến gần Người với lòng trông cậy, vì biết rằng Người có thể và sẽ giúp đỡ chúng ta.

Nếu chúng ta thấy chén đời sống cay đắng lạ lùng, thì chúng ta không cần phải cho rằng nó ngọt ngào hoặc nghĩ rằng chúng ta uống nó bởi sức mạnh của riêng mình. Không giống như hai môn đệ Giacôbê và Gioan, chúng ta không nên sợ hãi hay xấu hổ mà nói rằng: “Không, Lạy Chúa, con không thể uống và không muốn uống. Nhưng nếu con phải uống thì với sự giúp đỡ của Chúa con sẽ uống được”.

Uống chén đời sống, đặc biệt chén khó khăn được làm bởi một cuộc đời hy sinh và phục vụ người khác, chính là đi theo Đức Kitô. Nhưng những ai chia sẻ với Người chén đắng cay của thập giá Người thì cũng sẽ chia sẻ với Người vinh quang phục sinh của Người.

 

47.Khiêm tốn phục vụ - Lm Jude Siciliano.

Tôi viết bài suy niệm này, khi đang rao giảng ở vịnh San Francisco, bang California. Hồi này là cuối tháng Chín. Tiểu bang đang vào mùa tranh cử. Không khí hùng biện thật sôi nổi. Người ta vận động truất phế thống đốc đương nhiệm và tranh nhau cái ghế của ông. Địa vị chỉ có một mà người tranh cử lại quá nhiều, cho nên cuộc ganh đua thật ráo riết. Thêm vào đó, chức vị thống đốc tiểu bang là cơ hội tốt để hướng tới những tham vọng chính trị khác, kể cả chức tổng thống hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ngoài ra, bây giờ cũng là cuối mùa bóng chày (Baseball). Các đội mạnh cũng đang quyết tâm đoạt giải vô địch, thực tế đội San Francisco hay Oakland đang thư hùng những trận đấu cuối cùng, thành thử chỗ nào cũng nhan nhản các động viên, chính trị và thể thao. Đầu mùa đội San Francisco Forty Niners đã chịu một vài thất bại. Nếu như không thắng phen này thì quả là đại hoạ! Chỉ có mưu kế chui xuống đất để tránh xấu hổ cùng bàn dân thiên hạ! Mọi người đều muốn đội "ruột" của mình thắng, bởi lúc ấy chúng ta cùng "thắng" với họ. Chẳng ai dại liên kết với kẻ thất bại. Ông bầu Vince Lombardi một lần đã nói: "thắng là điều duy nhất chúng tôi nhắm tới."

Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hai mươi chín này, các môn đệ Chúa Giêsu cũng khao khát là kẻ chiến thắng, bởi trong quá trình rao giảng họ đã kỳ mục sở thị danh tiếng và quyền năng của Ngài. Họ đã nếm trước vinh quang khi Chúa thực hiện các phép lạ, loại trừ các đối thủ một cách vẻ vang. Nhưng thực ra họ đã nhầm. Bài Phúc Âm cho thấy quan điểm của họ hoàn toàn trái ngược với mạc khải của Chúa về những đau khổ Ngài sắp phải chịu: "Các anh chẳng hiểu biết điều các anh xin! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Thực tế, bài Tin Mừng nối tiếp ngay sau lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (Mc 10,32). Nếu để ý, chúng ta thấy Chúa huấn luyện các môn đệ đang trong hành trình lên Giêrusalem. Ngài dạy bảo họ nhiều điều và ngày càng hết thời gian. Các Ngài đã đến ngoại ô thành phố. Vậy mà các môn đệ chẳng tiếp thu được bao nhiêu, vẫn cái não trạng xôi thịt. Nếu như Chúa làm một cuộc kiểm tra cuối học kỳ, chắc chắn họ sẽ thất bại, ăn điểm loại. Có đúng là họ đã trốn học trong những ngày Chúa dạy về từ bỏ mình để có thể theo Ngài. (Mc 8,34). Hoặc những điều kiện để lắng nghe lời Thiên Chúa? Hay những kẻ giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao? Hoặc phải trở nên trẻ nhỏ để vào được Nước Hằng Sống?... Khi lắng nghe hai anh em Giacôbê và Gioan yêu cầu, hẳn Chúa Giêsu phải thất vọng ghê gớm! Họ chẳng thấm được chi hết! Tuy nhiên, phần chúng ta thế nào? Suốt đời nghe Chúa rao giảng, mời gọi, có học được gì không? Lương tâm và nếp sống mỗi người trả lời cho câu hỏi!

Cứ như tiến trình bình thường thì tham vọng của cuộc sống là như thế. Các ông Gioan và Giacôbê không thể ra ngoài thông lệ. Họ nhìn về phía trước, lượng định cho mai sau. Khi cho con đi học, vừa bước chân vào cổng trường là chúng ta đã hy vọng tương lai: bằng cấp, công ăn việc làm, địa vị, lương bổng,... Chúng ta muốn chúng thành công trong học hành, để có thể đạt tới các mục tiêu. Chúng phải cắt ngắn các ngày nghỉ hè, cắp sách đi học thêm, bỏ bớt các hoạt động ngoại khoá, các vui chơi giải trí, mùa hè xanh, lửa trại. Phải "cày" ngay từ buổi đầu năm học, thuê mướn gia sư phụ đạo, chạy chọt trường điểm, trường chuyên để đảm bảo việc học hành cho con cái và thoả mãn ước vọng tương lai. Như vậy, chúng ta hiểu được những hy sinh, gian khổ gắn liền với mục tiêu đề ra, khác hẳn các đệ tử ham chơi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, dễ dãi mà tính đạt danh vọng cao!

Nhưng cũng không thể quá nghiêm khắc với họ được, bởi lẽ trong cuộc sống xã hội cũng như riêng tư của các Ngài, toàn bị các phù phiếm tấn công (như chúng ta phải chịu đựng ngày nay): khao khát quyền lực, giàu sang phú quý, danh vọng, giai cấp. Họ mong đợi một Đấng Messiah, quyền uy mạnh mẽ, lật đổ ách thống trị ngoại bang, thiết lập vương quyền như thời David và dĩ nhiên, họ được chia phần, không khanh tướng thì cũng bộ trưởng nọ kia. Họ sẽ được ăn trên ngồi chốc, sai bảo, cắt cử, trị vì. Giấc mộng thật là đẹp. Hai tông đồ Gioan và Giacôbê chẳng qua can đảm hơn, nói lên được suy nghĩ của mình. Vì thế, họ mới phát ghen khi hai ông dự định dành chỗ nhất, và thẳng thừng nhờ mẹ (chỗ thân thích với Thầy Giêsu) yêu cầu giùm. Đúng là Giacôbê và Gioan ranh mãnh. Chiếc vé vinh quang hai bên tả hữu Chúa Giêsu hai ông tính chiếm đoạt! Trong lúc các môn đệ khác đều ước ao quyền bính, tiếng thơm và địa vị.

Sự thật là chiến thắng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa ban cho Đức Kitô và các môn đệ. Nhưng phải thông qua đau khổ và cái chết. Đức Kitô đã mạc khải rõ như vậy. Thầy trò phải trở nên "tôi tớ" phục vụ nhân loại trong ý nghĩa "thí mạng sống để cứu chuộc loài người". Chắc chắn ý nghĩa này không phải là tham vọng trần tục của các tông đồ, và cũng không nằm trong ý đồ của chúng ta, khi vỗ ngực tự xưng là kẻ theo Chúa. Đức Kitô chẳng muốn xỉ nhục và đau khổ cho chính mình và các môn đệ. Nhưng đó là con đường không thể tránh khỏi khi tuân theo thiên ý Đức Chúa Trời. Đường lối Thiên Chúa trái ngược với những yêu thích xác thịt. Đau khổ của Đức Kitô là hậu quả tất yếu của việc Ngài lựa chọn con đường Thiên Chúa, đồng hoá với những kẻ nghèo hèn, tối tăm và bị loại. Ngài vươn tới những tội nhân, kết bạn với phường bị xã hội và tôn giáo nguyền rủa, tẩy chay. Bởi Ngài luôn đau nỗi đau của những số phận ngoài lề, cho nên bị loài người và dường như cả Thiên Chúa trừng phạt. Cuộc đời của Ngài nhằm mục tiêu duy nhất là phục vụ những ai bị khinh bỉ, dày xéo hoặc bỏ qua. Lòng của Ngài đối với những kẻ nghèo hèn thúc đẩy đến cái chết nhục nhã. Ngài đâu có dấu vết gì là thuộc thành phần thượng lưu, thống trị. Vậy mà luôn luôn đối đầu với giai cấp giàu sang, quyền quý cả đạo lẫn đời. Họ căm phẫn, cay đắng về cách hành xử và rao giảng của Ngài, đến độ nhất trí triệt hạ Ngài. Vậy thì không chi lạ lẫm nếu như hơn hai ngàn năm nay, những kẻ thực sự nhận Ngài làm tôn sư đều bị thế gian, ma quỷ và xác thịt truy lùng và giết hại. Bởi họ cũng như Ngài là cái gai gây nhức nhối thiên hạ: "Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian, nên thế gian ghét bỏ anh em." (Ga 15,19) Đó là những gì Chúa Giêsu tiên báo về số phận của Ngài và của tông đồ, khi các Ngài đang trong hành trình tiến về Giêrusalem.

Nhưng xin nhớ Chúa Giêsu không cưỡng ép ai làm môn đệ Ngài. Ngài chỉ kêu mời và chúng ta hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên vào giai đoạn này của Phúc Âm Marcô, Chúa có một lời mời gọi khác, quyết liệt hơn nhiều cho những kẻ sẵn sàng bước theo Ngài: "Các anh có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống không?" Chả là vì lúc này theo Ngài có nghĩa là hy sinh triệt để cùng Ngài. Ẵm lấy thánh giá, chịu treo lên và chết nhục nhã. Cái chết của một tử tội, mọi người ghê sợ và xa tránh. Khi mới theo, có lẽ các môn đệ chưa nhận ra nội dung này, nhưng bây giờ thì họ được mời gọi chấp nhận, và họ vẫn còn tự do theo hoặc không theo. Đây là thực tế của ơn Ngài kêu gọi, các môn đệ chưa thể nhận ra lúc ban đầu, tuy nhiên điều phải đến đã đến. Hậu quả là đa số chạy trốn, ngoại trừ Gioan và các phụ nữ! Chúng ta cũng đã nói "vâng" với tiếng Chúa mời gọi, liệu có ý thức được đau khổ và hy sinh là một phần của thửa ruộng đã mua? Liệu có bằng lòng đi theo Ngài lên Giêrusalem để chịu chết? Liệu còn sẵn sàng chấp nhận số phận của Ngài trên thập giá? Xem chừng câu trả lời rất khó. Không kể các linh hồn thật sự can đảm. Con số này xưa nay hiếm!

Bởi lẽ, đa phần nhân loại đều tìm kiếm vẻ vang. Là con cháu dòng giống xây tháp Babel, luôn luôn có khuynh hướng nhìn lên cao, ngưỡng mộ những thành công rực rỡ, những công trình "vĩ đại". Nhanh hơn, cao hơn và xa hơn, là khẩu hiệu của các cuộc đua Olympic, phần nào nó nói lên tâm lý Babel này. Bất hạnh thay, các đệ tử của Chúa Giêsu trong Giáo Hội cũng mắc phải cùng một tâm trạng, ganh đua nhà thờ, tranh giành ảnh hưởng, địa vị cao sang, là nhân vật quan trọng trong địa phận, địa giới, âm mưu hạ bệ bạn bè, vươn lên chiếm ghế chủ toạ. Nói gọn lại, đủ mọi mánh khoé như con cháu Giacóp. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội Thánh, và ngoài xã hội? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào? Cứ như cái nhìn của Tin Mừng hôm nay, thì kẻ "vĩ đại" là người phục vụ kẻ khác, tinh thần và vật chất. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng "vĩ đại" trong nếp sống thường nhật chung quanh mình. Những người cha hy sinh, các người mẹ chung thuỷ, dịu dàng, các con cái vâng lời, cần mẫn, những nông dân, công nhân vất vả làm ra của cải cho xã hội. Chúng ta cũng cần nhìn vào những con người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, phần thưởng. Những giúp đỡ không cần lời tạ ơn. Những lòng trung thành với bổn phận không cần biểu dương ầm ĩ.

Trong giáo xứ tôi đang rao giảng có một nhóm ông bà lớn tuổi. Họ là những thành viên tích cực của hội từ thiện thánh Vinhsơn đệ Phaolô. Nhờ họ mà hội này sống được và hoạt động. Họ nuôi dưỡng những gia đình nghèo khổ trong giáo xứ. Họ đi xin lương thực, quần áo, chăn mùng rồi tập trung phân phát cho các gia đình thiếu thốn, nhập cư. Một giáo dân cho tôi hay, không có những người này thì hội đã tan rã từ lâu. Vậy mà xem dáng vẻ bên ngoài, họ toàn là những người quê kệch, lôi thôi, chẳng ai muốn nhìn, mặc dù công việc của họ là then chốt cho việc từ thiện trong giáo xứ. Ai mà biết được sự "vĩ đại" của họ nằm ở đâu? Họ thực thi sứ vụ và ơn gọi của mình khiêm tốn và lặng lẽ. Mục tiêu duy nhất của họ là người đói nghèo có cơm ăn áo mặc. Phải chăng họ đang nhắm đến nếp sống "vĩ đại" mà Phúc âm hôm nay chỉ bảo? Xin Chúa cho chúng ta cũng được trở nên các linh hồn sáng giá như họ. Amen

*** Ai đó hỏi linh mục John Wesley tại sao nhiều người vất vả vượt quãng đường xa để đến nghe ông giảng. Linh mục trả lời: "Tôi tự thiêu đốt mình và người ta đến xem tôi bốc cháy." Câu nói đáng chúng ta suy nghĩ. Tuy nhiên nó ngầm ý hy sinh và khổ hạnh.

 

48.Bánh và nước – Lm Mark Link.

"Chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ người khác chứ không phải để được người khác phục vụ"

Câu cuối cùng trong bài Phúc Âm ngày hôm nay là một trong những câu hỏi nổi bật nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta hãy nghe lại câu ấy: "CON NGƯỜI không đến để được phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người". Ít câu nào trong Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.

Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: "Lạy Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài". Và để nên giống Đức Kitô hơn, Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo. Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Trong cuốn sách nhan đề "Quyết Định Nổi tiếng Về Cuộc Đời" (Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác, dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập lại không ngừng, "Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".

William Barclay cho chúng ta thấy tâm hồn và trí tuệ của Kagawa qua những lời của Kagawa mà ông trích dẫn như: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất, Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những người bệnh hoạn, Ngài đứng về phía những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa thì hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi đi dự lễ, hãy giúp đỡ kẻ nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.

Khi đọc về một người như Kagawa, chúng ta nên tự vấn chính mình; chúng ta phải làm sao để có thể sống Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh hơn trong đời sống mình? Phải làm sao để bắt chước đời sống phục vụ của Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn? Phải làm sao để trở thành Kitô hữu đích thực hơn trong chính gia đình và trong môi trường làm việc của mình?

Dĩ nhiên không ai có thể trả lời dùm chúng ta, vì đây là những câu hỏi mà chúng ta phải tự trả lời lấy, nghĩa là mỗi người đang hiện diện ở đây sẽ phải trả lời những câu hỏi ấy theo cách thức của mình. Tuy nhiên, đừng bao giờ vịn cớ rằng: "Tôi không thể đến những khu tồi tàn ở Tokyo để sống giống như Kagawa đã làm", để rồi chúng ta chẳng làm gì nữa cả; vì nếu chúng ta không thể làm được một điều thật can đảm, thật anh hùng, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn có thể làm được bất cứ việc gì khác.

Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó dù rất là nhỏ bé và xem ra vô nghĩa, khởi đầu là cho chính những người thân trong gia đình chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ có những may mắn mở rộng việc phụng sự ra môi trường xa hơn, còn nếu chúng ta không khởi sự ngay từ gia đình mình thì chúng ta cũng sẽ không bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.

Sau đây là một trong những ví dụ hấp dẫn nhất nói về việc phục vụ tha nhân khởi sự từ chính gia đình mình. Đó là câu chuyện được đăng trong tạp chí Leadership (Giới lãnh đạo) cách đây ít lâu:

Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ răn bảo cậu. Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói; "Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé. Con nghe rõ chưa?" Cậu bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu. Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.

Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời. Cha cậu gặp cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu. Tuy nhiên, tối hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao! Đầu tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã. Đây chính là hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại cảm thấy đói quá chừng.

J. Allan Peterson, tác giả câu chuyện đã mô tả diễn tiến sự việc như sau: "Người bố chờ cho bầu khí căng thẳng lắng xuống đoạn lặng lẽ cầm chiếc đĩa của cậu đặt trước mặt ông, rồi cầm chiếc đĩa của ông đặt trước mặt cậu bé…" Cậu bé chợt hiểu ngay điều bố cậu đang làm. Bố cậu đã nhận hình phạt mà lẽ ra chính cậu phải chịu vì hành vi bê bối của riêng cậu…. Mãi nhiều năm về sau, chính cậu bé ấy vẫn nhớ đến biến cố và nói: "Chính nhờ hành vi bố tôi đã làm tối hôm ấy, mà suốt cả đời, tôi đã hiểu được Thiên Chúa tốt lành biết bao!".

Câu chuyện trên giúp ta hiểu thật dễ dàng điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua lời Ngài nói trong Phúc Âm hôm nay; "Con Người…. đến… để hiến mạng cứu chuộc nhiều người". Đức Giêsu đã đến trong thế gian để làm cho chúng ta điều mà bố cậu bé đã làm cho cậu. Ngài đến để đền tội lỗi chúng ta bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá.

Vậy, để kết thúc, chúng ta hãy nhớ rằng bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức; Đó là chúng ta phải hiến mạng sống mình để phụng sự tha nhân như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta và nơi chốn tốt nhất để khởi sự việc này là chính gia đình ta và môi trường làm vịêc của ta. Nếu chúng ta khởi đầu từ những môi trường này, chúng ta sẽ mở rộng được lòng yêu thương phục vụ của chúng ta sang những môi trường khác nữa.

Biết đâu vào một thời gian nào đó, chúng ta sẽ có dịp phục vụ kẻ khác cũng quảng đại như Kagawa đã làm nơi những căn nhà tồi tàn vùng Tokyo. Chúng ta sẽ có thể có dịp phục vụ tha nhân cũng quảng đại như người bố trong câu chuyện đối với đứa con hư của mình. Tuy nhiên, trước khi chúng ta hy vọng có thể bay được thì chúng ta phải tập đi bộ đã. Và bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta bắt đầu tập đi bộ, mời gọi chúng ta bắt đầu phục vụ lẫn nhau, ngay từ trong gia đình và môi trường làm việc của chúng ta; Đó chính là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu là Đấng đã phán"

"Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người".

 

home Mục lục Lưu trữ