Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 59

Tổng truy cập: 1365628

CON YÊU DẤU

con yêu dấu (*)- Chú giải của Noel Quession

Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.

Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi “khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê”. Lại càng đáng tiếc hơn, vì ba Tin Mừng nhất lãm đều đồng ý liên kết chặt chẽ biến cố biến hình của Đức Giêsu với cuộc đàm thoại nầy của Người “khoảng tám ngày trước đó” (Mt 17,1-9,2; Lc 8,28). Đó là một trong những trường hợp biến cố mà hai giai đoạn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được nối liền theo thời gian. Vâng các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê phải nhớ đến sự kiện này. Tám ngày trước, đâu có một cuộc đối thoại không thể quên được, gồm hai phần: Trước hết, Người đã hỏi các ông: “Anh em bảo Thầy là ai?” và Phêrô đã trả lời câu hỏi về “lý lịch” này, bằng cách tuyên xưng đức tin vào Chúa là “Đấng Mêsia của Thiên Chúa”… Rồi ngay sau đó, Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho họ biết cái chết sắp tới của Người. “Thầy phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại”. Đó là cuộc đàm đạo của các ông còn ghi nhớ trong tâm trí.

Việc biến hình liên quan mật thiết với cuộc thương khó và biến cố Phục Sinh. Trong vài tuần nữa, Đức Giêsu lại đem ba người theo Ngài, ba người bạn này đến vườn Ghếtsêmani (Mt 26,37; Mc 14,33). Gương mặt của Đức Giêsu mà họ sắp thấy rạng ngời vinh quang, lúc đó họ lại thấy thấm đầy mồ hôi và máu đỏ (Lc 22,44) bị vả tát, rồi phỉ nhổ (Mt 25,67).

Trong cuộc đàm đạo tám ngày trước, Đức Giêsu cũng loan báo cho các ông biết rằng, chính các ông sẽ phải “vác thập giá, của mình để theo Người” (Lc 9,23) và Người nói thêm rằng, “một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9,27)… “Vương quốc” bí mật này là sự phát triển vinh quang của Thiên Chúa trong nhân loại, thế thì biến cố biến hình phải chăng là một hình ảnh của vương quốc đó? Lạy Chúa, làm sao con có thể đạt được mềm vui Phục sinh, mà không phải ngang qua con đường khổ giá? Mùa Chay này có là dịp để giúp con thông hiệp với những đau khổ của Chúa không? Tuần lễ thứ hai Mùa Chay bắt đầu để “nhờ thập giá tiến đến niềm vui”. Thương khó – Biến hình, cũng là một mầu nhiệm.

Cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, Người lên núi để cầu nguyện.

Oi! Thật các ông đã có một dịp may đặc biệt! Cầu nguyện với Đức Giêsu! Được thấy Người cầu nguyện! Nhưng chỉ lát nữa, chúng ta sẽ thấy ngay, dù các ông có hiện diện trong lúc đó, các ông cũng không xứng đáng hưởng dịp may này. Trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông lại “ngủ”. Đức Giêsu thật là “con người của cầu nguyện”. Vào mỗi lúc quan trọng của cuộc đời, Người đều cầu nguyện (Lc 3,21 – 5,16 – 6,12 – 9,18 – 9,28 – 10,21 -11,1 – 22,32 – 22,41 – 42-23,84 – 23;46). Trong suốt Tin Mừng của ông, Luca luôn ghi nhận Đức Giêsu tìm sự cô tịch có thể gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Có một bí mật trong con người Đức Giêsu. Ngài sống trong sự thân mật đặc biệt với một Đấng nào đó mà Ngài gọi là “Cha”. Đức Giêsu là “con người muốn hướng về Chúa Cha”. Đó là chìa khoá khai mở lý lịch sâu xa của Ngài. “Cha” là lời xưng hô đầu tiên khi Ngài còn là một cậu bé 12 tuổi ở Đền Thánh (Lc 2,49) và cũng là lời thưa cuối cùng khi Ngài đã trưởng thành, lúc Ngài chết trên thập giá (Lc 23,46).

Vậy thì, trong Mùa Chay này, tôi sẽ hướng việc cầu nguyện của tôi như thế nào đây?

Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.

Rõ ràng là Thánh Luca tránh dùng từ biến hình mà Mát-thêu (17,2) và Máccô (9,2) đã dùng để loan báo Tin Mừng cho người đương thời, chúng ta cũng phải biết thích nghi, có thể phải tránh một vài từ. Thính giả của Luca là những người gốc ngoại giáo, hấp thụ văn hoá Hy Lạp, có thể chỉ thấy trong từ “biến hình” một trong rất nhiều biến dạng của những thần linh có tính huyền thoại. Luca thích một thứ ngôn từ bề ngoài có vẻ khiêm tốn hơn nhằm trong lúc cầu nguyện, gương mặt của Đức Giêsu trở nên khác thường”. Thực tế, khi ngắm nhìn một số người nam nữ, trong lúc họ sốt sắng cầu nguyện ta cũng có thể thấy gương mặt của họ rạng ngời từ bên trong: cũng chính là con người đó, nhưng có một cái khác thường đang toát ra.

Trong văn hoá Kinh Thánh, biểu tượng “y phục” cũng giúp ta bổ sung cho sự quan sát đầu tiên này. Y phục “trắng tinh và chói loà” là “dấu chỉ” cho các hữu thể trên trời (Đn 7,9-10,5) Còn các Kitô hữu đầu tiên dùng để nói về Đức Giêsu. Phục Sinh (Kh 1,13, Lc. 17,23-24,4). Đó là tấm áo trắng các bé thơ của chúng ta thường mang khi chịu phép rửa… Ao trắng của những người lớn khi tuyên xưng lại đức tin… áo trắng của cô dâu trong ngày cưới, áo của linh mục trên bàn thờ… Đó là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của những môn đệ, chia phần vinh quang với Thầy (Kh 3,4-5 – 3,18-4,4 – 6,11-7,9-9,13)

Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi” phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2 Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay, phải là khuôn mặt biến đổi!

Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sấp hoàn thành tại Giêrusalem.

Chỉ mình Luca mới nói cho chúng ta biết về đề tài cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai chứng nhân vĩ đại của Cựu ước: Họ nói về việc Chúa lên đường, cuộc “xuất hành” (exodou, theo từ Hy Lạp). Chúng ta không hiểu rõ Đức Giêsu đã sống bị ám ảnh và đeo đuổi trước viễn tượng về cái chết của mình như thế nào, cái chết mà Gioan gọi là sự “bước qua” cuộc vượt qua của Người ( Ga 13, 1 ) và Luca gọi là “sự bốc đi” (Lc 9,51-24,51). Đức Giêsu là con người hy sinh chính thân mình. Người biết Người đến để làm gì, sẽ đi về đâu Ngời đi về cùng Chúa Cha, Người “bước vào trong vinh quang bằng cách ngang qua cái chết”, và kéo theo Người toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu tại Giêrusalem, là tóm tắt toàn bộ lịch sử con người, tóm tắt định mệnh của tôi: Dù tôi muốn hay không, dù tôi ý thức hay không, tôi cũng đang bước đi trên con đường về với Chúa, bằng cách vượt qua cái chết. Tôi đang “xuất hành”, rời bỏ miền đất nô lệ để đến miền đất hứa. Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay, vào ngày lễ tro, để nhắc cho ta nhớ định mệnh của ta: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!”. Nhưng cuộc biến hình sẽ biến đổi tình trạng phũ phàng của ta thành một viễn tượng vinh quang: Nhờ trở thành tro bụi, chúng ta mới bước vào trong Chúa. Niềm tin nơi Đức Giêsu là một điều lạc quan phi thường. Đó là ánh sáng cho mọi người? Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa.

Ong Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia”. Ong không biết mình đang nói gì.

Trước cảnh tượng gây ngỡ ngàng mà các ông đang chứng kiến một lần nữa các tông đồ không hiểu gì. Các ông đang sống trong tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa tỉnh vừa mê, nói linh tinh. Tiếp cận với thế giới thần linh, không thể nói lên bằng ngôn ngữ rõ ràng được. Khi mọi sự kết thúc, nghĩa là khi Môsê và Êlia đã ra đi, thì các ông mới nhập cuộc, mới ấp úng mở lời. Tại Ghếtsêmani, cả ba người này đều ngủ cả.

Môsê và Elia là những con người của núi Sinai (Xh 38,18-22; 1 V 19~9-14). Cả hai như bừng cháy lên vì được gặp cảnh tượng không thể diễn tả. Cả hai, đều đã khơi dậy công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi mọi thần tượng đang chiếm chỗ của Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu đã đàm đạo thân mật với các vị ngôn sứ lớn trong cựu ước. Trong Mùa Chay tôi có dành thời giờ để mở Kinh Thánh không?

Ong Phêrô còn đang nói, thì có đám mây đến bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.

Khác với Mát-thêu và Máccô, Luca đưa ba môn đệ vào trong “đám mây: là biểu tượng thường xuyên của thế giới thần linh. Vì các Ngài còn không hiểu gì về biến cố. Biến hình vua xảy ra, nên có thể nói, chính Chúa đã muốn mạc khải lần thứ hai cho các ông. Để bước vào trong Chúa, chúng ta cần phải trải qua nhiều giai đoạn liên tiếp. Và một lần nữa, chúng ta lại ghi nhận sự sợ hãi liên tiếp của những người được gặp gỡ Chúa: Vì đó là Đấng hoàn toàn khác”. Hơn nữa, họ đâu có gì về việc đó lần này họ cũng lại im lặng.. Tất cả những, định nghĩa tín tý, theo lý trí, về Thiên Chúa, chỉ là những lời lẽ phần lớn là sau những lời nói tầm phèo. Lạy Chúa, Chúa vượt trên mọi quan niệm, chúng con chỉ có thể gọi Chúa là Đấng mà chúng con “không thể nhận biết được”. Chúng ta nên im lặng, thinh lặng nội tâm: Chúng ta hãy bước vào bóng mờ của đám mây, trong màn sương mù tạo bóng tối, trong đó ta không thấy cách xa bốn thước, nơi đó, ta phải dò dẫm, tìm đường mà đi.

Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta chuyện chọn”. Hãy vâng nghe lời Người.

Ở đây Mát-thêu và Luca đã dùng từ “Con yêu dấu” (tiếng Hy Lạp là “Aga pèto). Chỉ có Luca dùng từ “Người con đã được tuyển chọn” (tiếng Hy Lạp là “eklegnlenos”). Những nhà duy lý đề cao lịch sử, thường đặt vấn đề: Thực sự tiếng nói đó đã hàm chứa điều gì? Các Tin Mừng không hề quan tâm đến việc trả lời sự tò mò đó. Từ “được tuyển chọn”, là do Luca tự ý viết ra. Luca tham chiếu nhiều đoạn sách ngôn sứ Isaia trong đó từ này nói về “dân Chúa” một cách tập thể, hay nói về nhân vật bí mật “Người tôi tớ của Thiên Chúa” (Is 42,1~3). Vào lúc Chúa bị đóng đinh, Luca cũng sẽ dùng lại từ này (Lc 23,35).

Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã được tuyển chọn do phép rửa của mình và mọi người lựa chọn đều nhằm tách riêng con người ra, để phục vụ kẻ khác. Chúa đã tuyển chọn tôi vì Người đang mong đợi một điều nào đó nơi tôi, một cái gì rất độc đáo.

Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Con các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã xem thấy.

Như vậy thì tốt hơn! Các ông đã không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn trong biến cố Vượt qua”, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY – C

ÁNH SÁNG TRONG BÓNG TỐI CỦA HÀNH TRÌNH VỀ GIÊRUSALEM – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1/. Trong bước đi tăm tối về Giêrusalem

Rõ ràng thánh sử Luca muốn nối kết đoạn này vào những biến cố và những đoạn văn trước đó:

Câu hỏi then chốt của Hêrôđê về căn tính thực sự của Đức Giêsu: “Người này là ai mà ta nghe nói đến nhiều?”. Ong thắc mắc và “ông tìm cách gặp Người” (9,9)

Lời tuyên xưng của Phêrô với Đức Giêsu như với “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” (9,2) và lời tiên báo lần đầu về cuộc

khổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi không chỉ đối với Đức Giêsu: “Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, chịu chối bỏ; chịu chết nhưng đến ngày thứ ba người sẽ sống lại (9,22), nhưng còn đối với các môn đệ thân tín của Người: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hằng ngày rồi theo Ta” (9,23).

Jean-luc Vesco chú giải: “Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn, một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn là Phục Sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly” (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó”, Cerf, trg 38).

Khoảng “8 ngày sau khi nói những lời này” là thời gian Luca đã định vị trình thuật về cuộc Hiển Dung, trong đó hai khía cạnh của mầu nhiệm vượt qua sẽ nối kết với nhau. Đó là.”khoảnh khắc thoáng qua lúc tấm màn che phủ căn tính Đức Giêsu được vén lên, lúc vinh quang tàng ẩn trong Người, nhờ qua đau khổ và cái chết, sẽ bừng lên vào buổi sáng lễ Phục sinh, sẽ từ thân thể Người chiếu toả ra.

2/. Một thị kiến chói loà trên núi.

Trừ hai ba chi tiết, Tin Mừng thứ ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và mát thêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.

* Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một “ngọn núi”, theo truyền thống Kinh Thánh, là nơi gặp Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người.

* Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: “Phêrô, Gioan và Giacôbê” những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zai-rô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).

* Khung cảnh của biến cố cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Đức Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Tin Mừng thứ ba, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Đức Giêsu.

Lúc Người “cầu nguyện” trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3.21-22). Sau khi lánh vào “núi rừng để cầu nguyện”, Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người “cầu nguyện một mình” Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-51).

– Tại nơi đây, trên núi cao, chính “đang khi cầu nguyện” mà

Đức Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói “dung mạo Người trở nên khác thường” và “Y phục Người trắng rực rỡ”. Sau đó Người viết rằng: “Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Đức Giêsu”.

Hugues Cousin xác định: “Mặc lấy vinh quang” có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Đức Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Đức Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Đức Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Đức Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người “Tin Mừng theo thánh Luca” Centurion, trg 137).

-Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: “Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang” (Lc 24,26-27).

Sự hiện diện của các ngài là chứng cớ sống động rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.

-Một chi tiết riêng của Tin Mừng thứ ba đó là “cuộc lên đường của Người” (theo sát nghĩa là: cuộc “Xuất Hành” của Người: vừa chết, vừa Phục sinh, vừa được tôn vinh) mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê không phải là con người của cuộc Xuất hành. của núi Si-nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao? Và Êlia chẳng phải là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh sao?

Như một Êlia mới, Đức Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được “cất lên” (9,51) trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất

Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.

– Phêrô có lẽ nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng “ba lều”. Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài “ông không biết phải nói gì” vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn thống khổ nạn như một đoạn đường buộc phải đi qua.

– Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong “một đám mây” – Trong Kinh Thánh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa – giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy “phủ bóng che rợp” các ngài. Các ngài “sợ hãi “.

– Chính lúc ấy “một tiếng nói ” vang lên trong đám mây. Cũng là tiếng nói khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.

Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Đức Giêsu nữa (“ Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con”) nhưng nói với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn”. Người Tôi Tớ đau khổ (xem Is. 42,1-8). Đức Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ là Người Con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải “lắng nghe” Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.

3/. Quy hướng về cuộc Xuất hành của Đức Giêsu.

Giờ đây mọi sự trở lại bình thường; “họ chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu “. Tạm thời, các môn đệ “im lặng” cho tới buổi sáng sau đêm khổ nạn, mọi sự chợt có ý nghĩa dưới ánh sáng ban mai ngày Phục sinh, ngày mà Chúa Thánh Thần của Lễ Hiện Xuống sẽ tháo cởi miệng lưỡi để họ làm chứng về những gì đã thấy đã nghe. Nhưng họ hiểu rằng từ nay họ sẽ cùng Người dấn thân vào một định mệnh vượt quá sức họ. Cần phải lên đường, đường đi về Giêrusalem chỉ mới bắt đầu. Định mệnh đó phải diễn ra trong niềm thao thức lắng nghe lời vị tiên tri, Con Thiên Chúa là Người Tôi tớ vừa mạc khải cho biết chuyến xuất hành lên Giêrusalem là thiết yếu. Giờ đây, Đức Giêsu chỉ còn một mình, nhưng ta phải bước theo Người.

Con Người tiến về sự chết, nhưng cũng là tiến về vinh quang cuộc biến hình vừa biểu lộ và các tông đồ đều được mời gọi bước theo số phận của Người.

BÀI ĐỌC THÊM:

1/. Điểm dừng chân ơn phúc nơi cộng đoàn ngày Chúa nhật. (F. Deleclos trong hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn”, Centurion- Duculot trg 195).

Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu. Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ. Nhưng đường thăm thẳm và đích điểm còn quá xa vời. Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân giữa “những sự dưới đất” và “những sự trên trời”, ta có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì?

Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng “dung nhan của Chúa” và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chang, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về “thế giới khác” với cõi phàm trần nơi ta cư ngụ. Cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc.

Từ nay họ biết rằng Đức Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Họ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ lênh láng máu.

Hãy nghe Lời Người! Nghe Người và theo Người tìm lại con đường phiêu lưu dưới đồng bằng.

Dù vật vã say ngủ và thổn thức bất an, hay sa lầy trong những thói tật xưa cũ trên đường, ta vẫn được Đức Giêsu mời gọi lên núi cầu nguyện.

Thánh lễ là điểm dừng chân ơn phúc, là ánh sáng chân lý là mạc khải hành trình là ý nghĩa cuộc hành hương của ta. Một dừng chân vắn vỏi để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.

2/. Khi con Người chiếu toả Thiên Chúa (G. Bossière trong Thiên Chúa rất gần, năm C”, DDB, trg 35-36).

Khi bị khinh miệt, bị săn đuổi, các Kitô hữu vẫn giữ được lòng can đảm nhờ nói về Đức Giêsu. Trong số những kỷ niệm trao đổi cho nhau, có đoạn văn tươi đẹp này: Đức Giêsu hiển dung, đột nhiên chói ngời ánh sáng thần thiêng. Việc toả sáng phát xuất từ bên trong bản thân Người: “Dung mạo Người trở nên khác thường”. Một con người chiếu toả Thiên Chúa! Và khoảnh khắc khiêm tốn nhất của đời Người đã đem đến sự Hiện Diện như thế.

Hằng ngày, ta vẫn nghe nói. “Nhân loại không xinh đẹp”. Con người có thể làm được tất cả. Thật ra nhân loại thường bị biến dạng vì bạo lực, ích kỷ hèn hạ, và thật thảm hại, lịch sử những điều ghê sợ vẫn chưa chấm dứt. Cần phải tỉnh táo tiến bước. Tuy nhân:ân nhân loại thật sự là đẹp, và con người – theo kiểu nói mạnh của những Kitô hữu thế kỷ đầu tiên “có khả năng đạt tới Thiên Chúa”.

Biết bao người, nổi tiếng hay vô danh, đã biểu lộ Thiên Chúa qua lòng can đảm, qua sức mạnh tình yêu, qua sự hy sinh trong đời sống hằng ngày của họ. Sự biến hình diễn ra rạng ngày ở khắp nói trên trái đất: Sự biến hình là năng lượng thẳm sâu của lịch sử, năng lượng ấy giúp con người tiếp tục dong duổi đường trường. Môsê, Êlia là hai khuôn mặt vĩ đại của quá khứ hai con người bằng lửa đã đưa dân qua những chặng đường hiển hách. Các ngài cũng có mặt và nói về “cuộc lên đường của Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” của Người. Một chuỗi các thế kỷ vừa khép lại và một kỷ nguyên mới sắp bắt đầu.

Ba tông đồ, ba kẻ thân tín nhất, muốn ở lại cắm lều trong ánh sáng, khai mạc thành đô và các lễ hội vinh quang. Không được phải đi thôi. Cuộc biến hình đó chính là một hành trình, phải mất hằng thiên niên kỷ. Ta vẫn chưa leo lên đỉnh núi, chưa cầu nguyện cho đủ đâu.

Còn Đức Giêsu đã hướng đích điểm về Giêrusalem, sự đương đầu, phiên toà và cái chết. Chính trên giá khổ hình mà Người đã xé đôi chân trời trần gian để thời gian liên tục.

Người vẫn là Tin Mừng, là nắm men trong các lương tâm, và Người chỉ cho ta thấy thành đô đang kêu gọi mọi xã hội hãy biến đổi tận gốc rễ. Đức Giêsu, tiêu điểm, chuẩn mực, là khuôn mặt thần linh của nhân loại chúng ta. Cuộc sống của Người sẽ mãi mãi biến hình cuộc sống của ta.

 CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- C

BÀI HỌC CỦA BIẾN CỐ BIẾN HÌNH(*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.

St 15: 5-12, 17-18

Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên cho đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.

Pl 3: 17-4: 1

Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.

Lc 9: 28-36

Tin Mừng tường thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca.

BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)

Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.

Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa mà Ngài đã hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.

Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin

Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.

Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.

Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước:

Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).

Hy tế Giao Ước:

Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước” đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).

Giấc ngủ mê:

“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngũ huyền nhiệm nầy muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.

Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.

BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)

Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.

Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.

Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô:

Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).

Hai con đường:

Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.

Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).

Trời và Đất:

Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư  có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.

Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.

TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)

Câu chuyện Biến Hình được cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.

Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình.

Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh ký mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh ký đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.

Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều” như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.

Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Chúa Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.

Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Chúa Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.

Biến cố Biến Hình đối với Chúa Giê-su:

A-Chúa Giê-su cầu nguyện:

“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh ký kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh ký đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời” đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh ký định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.

B-Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a:

“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.

“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào ánh vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.

Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.

Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ:

A-Họ sẽ là những nhân chứng:

Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngỏ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.

B-Giấc ngủ của ba môn đệ:

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.

“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.

C-Cuộc Thần Hiển:

Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.

“Ông còn đang nói, thì bổng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…

“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.

Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.

“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).

Bài học của biến cố Biến Hình:

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Chúa Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc trọn vẹn bên cạnh Thiên Chúa.

home Mục lục Lưu trữ