Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 78

Tổng truy cập: 1372450

CÚI XUỐNG VỚI NGƯỜI KHỔ ĐAU

Cúi xuống với người khổ đau

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Người xưa có câu: “ngước lên chẳng bằng ai nhưng cúi xuống vẫn còn hơn nhiều người”. Câu này không hàm ý để tự an ủi mình và xem thường người hèn yếu hơn mình. Câu này cha ông chỉ muốn nhắc nhở chúng ta được như vậy là tốt lắm rồi, hãy cúi xuống mà chia sẻ với những anh em nghèo khó hơn ta.

Trong hạnh các thánh ta thấy một con người đã sống như thế, đó là thánh Martino. Ngài sinh ra trong một hoàn cảnh chẳng bằng ai, một người da mầu trong một xã hội kỳ thị chủng tộc, một đứa con bị bỏ rơi, một hoàn cảnh gia đình khó khăn… thế nhưng thay vì nhìn lên để phẫn uất vì hoàn cảnh “đen đủi” của mình, Martino lại biết nhìn xuống những người nghèo khó hơn mình, và luôn thể hiện một tấm lòng bác ái, quảng đại. Nhiều lần được mẹ sai đi mua đồ lặt vặt hay đi chợ, cậu bé Martino đã giữ lại một ít tiền để bố thí cho những người nghèo khổ; cũng thế, khi là một người giúp việc trong nhà Dòng, một vị thế rốt bét nhất trong một tập thể, Martino lại vẫn biết nhìn xuống để khám phá thấy có nhiều người nghèo khổ cần giúp đỡ, nhiều người bệnh tật cần được chữa trị và chăm sóc…

Martin đã cúi xuống để khám phá ra sứ vụ của đời mình chính là chăm sóc cho những người nghèo khổ hơn. Chính vì thế mà cuộc đời của Martin trở thành cuộc đời của một người sống lòng bác ái, lòng bao dung với thái độ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.

Martino đã họa lại chân dung đầy yêu thương nơi Thầy Chí Thánh Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã luôn cúi xuống mọi phận người khổ đau. Ngài thấy và chạnh lòng thương xót. Ngài cúi xuống để xoa dịu nỗi đau cho họ. Phúc âm hôm nay tường thuật việc Ngài cúi xuống với người phong hủi với lòng thương cảm sâu xa. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.

Trong thời đại hôm nay người ta đang nói đến hiệu ứng cách sống của Đức Thánh Cha Phanxico. Nơi Đức Thánh Cha ta thấy dường như ngài không thích ngồi trên ngai tòa của mình mà lại thích cúi xuống, đến với những con người nghèo. Ngài không ngại tiếp xúc với những người khổ đau bởi bệnh tật, nghèo đói. Ngài cúi xuống ôm hôn từng phận người bất hạnh lầm than.

Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì bệnh tật có thể tan biến. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì người ky-tô hữu luôn ân cần cúi xuống để xoa dịu mọi nỗi đau cho anh em qua việc phục vụ, bác ái dấn thân đến mọi hoàn cảnh cuộc sống, hầu xây dựng một thế giới tràn đầy tình yêu và hạnh phúc. Amen.

 

27. Đức Giêsu: con người và hành động

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Với Kitô hữu, Đức Giêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là trung gian giữa con người và Thiên Chúa, Ngài là đường dẫn con người tới với Thiên Chúa, và Ngài cũng chính là sự sống. Trong cuộc sống bình thường của Ngài, hàm chứa sự sống vĩnh cửu mà mỗi Kitô hữu được mời gọi để nhận ra mầm sống vĩnh cửu nơi cuộc đời mình.

1) Đức Giêsu ging dy nơi hi đường Do Thái

Đức Giêsu giảng dạy ở bất cứ đâu: ở hội đường (Mc. 1, 21), tại tư gia (Mc. 2, 2), ngoài bờ biển (Mc.2, 13). Đức Giêsu rao giảng ở bất cứ chỗ nào Ngài có thể rao giảng được. Có thể nói, nghề của Đức Giêsu là rao giảng (Mc. 1, 38).

Đức Giêsu giảng gì? Đâu là nội dung điều Đức Giêsu rao giảng? Đức Giêsu rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa là ai. Ngài là Đấng yêu thương mọi người, và mời gọi người ta tin tưởng phó thác cuộc đời họ cho Thiên Chúa tình yêu (Mt. 6, 25tt). Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên mọi người hãy yêu thương nhau (Mt. 5, 43-48). Hãy trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng trọn lành (Mt. 5, 48).

Nếu chỉ căn cứ vào Tin Mừng, chúng ta thấy những điều Đức Giêsu rao giảng không nhiều lắm. Có thể vì các tông đồ không có tài nhớ, nên không kể lại được nhiều; nhưng cũng có thể chỉ vì nội dung Đức Giêsu rao giảng cũng đơn sơ, vì điều quan trọng thì không nhiều. Biết là điều rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn lại là sống điều mình biết. Một khi người ta biết Thiên Chúa là ai một cách chân thực, người ta sẽ sống trong an bình và hạnh phúc hơn.

2) Người ta tuôn ti vi Đức Giêsu để được cha lành

Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng tuốn tới với Đức Giêsu để được Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật. Có lẽ với dân chúng, nghe rao giảng cũng là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là những gì thật cụ thể và liên hệ đến chính bản thân con người. Đức Giêsu cũng hành xử một cách rất “người”. Làm được gì, Ngài làm cho con người. Một cách cụ thể, Ngài thương cảm và chữa lành tật bệnh của những người tin vào Ngài, đến với Ngài.

Bệnh tật, là cái gì rất tự nhiên và tuân theo luật lệ thiên nhiên. Những gì thuộc vật chất hữu hình đều biến đổi với thời gian, có trẻ có già, có sinh có tử. Đây là ý định của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu chữa lành bệnh tật, là Ngài diễn tả lòng thương cảm của Ngài đối với con người. Hơn nữa, khi chữa lành bệnh tật, Ngài mặc khải cho con người chân tướng của Ngài. Một thầy thuốc chữa lành người khác, là người biết vận dụng những dược chất nơi những cây cỏ để chữa trị bệnh tật; còn Đức Giêsu Ngài chỉ dùng lời, nghĩa là, Ngài dùng quyền năng được ban cho Ngài hoặc chính Ngài có.

Bệnh tật cũng là yếu tố giúp con người tới gần Thiên Chúa hơn; bệnh tật cũng là cơ hội để giúp con người nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc con người. Trong nhãn quan của những người thuộc về Thiên Chúa, bệnh tật hay sức khỏe không có giá trị tuyệt đối, nên mỗi người hãy bình tâm với bệnh tật. Điều quan trọng là, qua sức khỏe hay bệnh tật, con người vẫn nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người.

3) Đức Giêsu cu nguyn

Cuộc sống của Đức Giêsu dường như bị chi phối đặc biệt bởi tình yêu đối với con người. Vì lợi ích của con người, Ngài rao giảng về Thiên Chúa cho dân chúng. Đứng trước nỗi khổ của dân, Ngài chữa lành bệnh tật cho họ, như một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương dân Người. Nhưng chỉ như vậy thôi chưa đủ, Ngài đi tới nơi hoang vắng cầu nguyện từ sáng sớm (Mc.1, 35).

Hội Thánh dạy Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa; thế nhưng, chúng ta phải hiểu đúng giáo huấn của Hội Thánh. Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu là một Đấng khác với Thiên Chúa qua việc Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa. Đức Giêsu là một với Thiên Chúa, nhưng lại là Đấng khác với Thiên Chúa. Cái khác ở đây các nhà thần học dùng từ ngữ “ngôi vị” để diễn tả. Đức Giêsu không bao giờ LÀ Chúa Cha. Đức Giêsu là Ngôi Hai, hay Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng ở đây chữ ngôi vị khác với chữ “ngôi vị, bản vị” (person) được dùng cho con người. Tôi và bạn, chúng ta là hai ngôi vị độc lập và tách biệt tuy dù chúng ta cùng một bản tính con người; nhưng điều này không đúng khi nói về Đức Giêsu- “ngôi hai” Thiên Chúa và Thiên Chúa Ngôi Cha. Nếu chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai ngôi vị, tương tự như tôi và bạn là hai ngôi vị độc lập nhưng cùng một bản tính (một đàng là bản tính người, và một đàng là bản tính Thiên Chúa) thì lúc đó chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai chúa khác nhau; điều này không đúng giáo huấn của Giáo Hội. Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là hai ngôi vị, nhưng cả hai không chỉ là cùng bản tính Thiên Chúa mà Đức Giêsu còn tùy thuộc Thiên Chúa đến độ không thể nói là hai Chúa, mà phải nói là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, chỉ có một hiện hữu Thiên Chúa duy nhất. Điều này Giáo Hội diễn tả bằng từ ngữ “không có ngôi nào có trước ngôi nào tuy dù Chúa Cha sinh Chúa Con, không có ngôi nào hơn kém ngôi nào.” Đây là những từ ngữ để diễn tả về mầu nhiệm Giêsu, con người vô cùng đặc biệt mà dường như không từ ngữ nào diễn tả hoàn toàn được. Hội Thánh cũng cố gắng diễn tả hết sức mình, để các tín hữu hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô thôi.

Đức Giêsu cần cầu nguyện, vì dường như cầu nguyện làm Ngài là Ngài hơn, giúp Ngài kết hợp với Thiên Chúa hơn, làm Ngài triển nở và trọn vẹn hơn. Cầu nguyện diễn tả Ngài là một với Thiên Chúa tuy dù lúc nào Ngài cũng kết hợp với Thiên Chúa. Cầu nguyện diễn tả Ngài tùy thuộc hoàn toàn Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa muốn gì Ngài sẽ thực hiện như vậy. Qua cầu nguyện, Ngài là Ngài, Ngài triển nở và hạnh phúc. Chính khi Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa hoàn toàn, cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta được được nên giống Đức Giêsu hơn, làm một với Thiên Chúa hơn, trở nên con của Thiên Chúa hơn.

Câu hi gi ý chia s

1. Theo bạn, cầu nguyện có được lợi ích gì không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa hoặc những lợi ích bạn được qua việc cầu nguyện.

2. Có điểm nào cuộc sống của bạn giống cuộc sống của Đức Giêsu? Đức Giêsu và bạn, giống nhau và khác nhau ở những điểm nào?

 

28. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy

NHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC GIÊSU

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật cho chúng ta về những hoạt động và những giờ phút yên tĩnh của Đức Giêsu khi Người bắt đầu đời sống công khai ở Ga-li-lê-a. Suốt cả một ngày Người đã luôn năng nỗ và không bao giờ mỏi mệt chu toàn sứ mệnh mà Chúa Cha đã giao phó. Sứ mệnh chính yếu của Người là việc rao giảng Nước Thiên Chúa cho hết mọi người: “Chúng ta hãy đi sang các làng bên cạnh; Thầy cũng muốn rao giảng ở những chỗ đó nữa, bởi vì Thầy được sai đến là để làm chuyện đó”. Lời nói này của Đức Giêsu đã giúp chúng ta hiểu được chính xác hơn mục đích của những phép lạ Người đã làm: Tất cả đều nhắm phục vụ cho công cuộc thuyết giáo của Đức Giêsu về “Nước Trời sắp đến gần”. Mọi lời giảng dậy và mọi việc Người làm đều hoàn toàn nhắm tới sứ mệnh rao giảng Tin Mừng như mục đích duy nhất. Trước hết những lời nói và việc làm của Người là mạc khải cho những người có đức tin mầu nhiệm về Nước Thiên Chúa (x. Mc 2,10-12; 4,11). Như có lần thánh Augustinô đã viết: “Các phép lạ cũng có ngôn ngữ riêng, nếu như người ta hiểu được chúng: Chúng nói về Đức Kitô” (In Johann. Tr. 24,2)

Bởi vậy, Phúc Âm nhắc lại cho chúng ta về Đức Giêsu, Đấng đã chữa lành cho bà mẹ vợ của Simon, cho những bệnh nhân và những người bị quỉ ám mà vào cuối ngày người ta đã khiêng tới đặt trước cửa nhà Simon và Anrê để xin Người chữa cho. Nhưng việc quan trọng không phải là để mong được chữa lành bệnh, nhưng là để lắng nghe Đức Giêsu thuyết giáo về Nước Trời. Tiếp đến, ngày xưa cũng như hôm nay, điều người ta cần phải làm là dứt khoát đáp lại lời kêu mời của Đức Giêsu và sống như Người đã sống.

Tuy nhiên, một khi người ta đã không muốn tin và không đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu thì cũng không thể hiểu biết được lời giảng và việc làm của Người (x. Mc 8,11). Dù cho họ có chứng kiến hay nghe nói về các phép lạ Người đã làm bao nhiêu lần đi nữa, thì con mắt tâm hồn họ vẫn trong cảnh mù lòa (x. Mc 4,12).

Do đó Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ từ chối chứng nhân của ma quỉ. Người chỉ muốn thức tĩnh đức tin nơi mỗi người bằng chính lời nói và việc làm của mình. Do đó Người đã bỏ thành Ca-pha-na-um để đi sang các thôn xóm kế cận rao giảng. Đức Giêsu giảng thuyết cho dân chúng về Nước Thiên Chúa và trừ khử ma quỉ. Vì Người đến trong thế gian là để thực thi chuyện đo.

Những hoạt động hăng say cho Nước Trời như thế của Đức Giêsu chỉ bị gián đoạn bằng những giờ phút cầu nguyện hàn huyên với Chúa Cha trong nơi thanh vắng. Đó chính là những giờ phút nghĩ ngơi yên tĩnh của Người. Nơi Đức Giêsu: cuộc sống và sự cầu nguyện, cầu nguyện và cuộc sống hoàn toàn đan kết chặt chẽ với nhau: “Vào buổi sáng sớm, khi trời còn tối, Đức Giêsu đã chỗi dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”. Đây là lần đầu tiên thánh sử Mác-cô tường thuật về sự cầu nguyện của Đức Giêsu. Trong những phần kế tiếp của bản Phúc Âm, thánh nhân còn trình bày chân dung Đức Giêsu như là gương mẫu trong sự cầu nguyện, và đồng thời thánh nhân cũng đã nhắc đến lời cảnh giác của Đức Giêsu là phải cầu nguyện thế nào cho đúng đắn.

Trong bốn thánh sử ghi chép Phúc Âm chỉ có thánh Mác-cô nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu đã đi tới một nơi thanh vắng để Người cầu nguyện. Vâng, đoạn Phúc Âm ghi lại là sau khi làm phép lạ đầu tiên khiến bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng, Đức Giêsu đã đi lên Núi một mình “để cầu nguyện” (6,46). Trong Phúc Âm thánh Mác-cô người ta còn đọc được lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giêsu cùng Chúa Cha trong cơn sầu khổ tột độ: “Áp-ba, Cha ơi” (14,36). Kiểu nói “Áp-ba, Cha ơi” trong tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu là kiểu nói đầy trìu mến của một đứa trẻ nói với cha ruột của mình. Kiểu nói “Áp-ba, cha ơi” vào thời Đức Giêsu chưa một ai dám xử dụng để xưng hô với Thiên Chúa. Chỉ có Đức Giêsu là người đầu tiên duy nhất đã xử dụng kiểu nói đó. Đúng vậy, như một đứa bé lúc gặp phải nguy tử đã chạy đến ôm chặt vào cha mình, Đức Giêsu đã chạy đến cùng Chúa Cha và tin tưởng van nài: “Áp-ba, Cha ơi, đối với Cha tất cả mọi sự đều có thể. Xin Cha cho con khỏi uống chén đắng này. Tuy nhiên, xin Cha đừng làm theo ý con, nhưng hãy làm theo ý Cha” (14,36). Tình con thảo và lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối của Đức Giêsu trong khi câu chuyện trao đổi với Chúa Cha trên đã giúp cho chúng ta hiểu rõ được lời cầu nguyện của Người trong lúc hấp hối trên thánh giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?” (15,14). Đây không phải là lời kêu hốt hoảng vô ý thức hay một sự bộc lộ thất vọng cay đắng. Trái lại, trong cơn hấp hối đầy sợ hãi, Đức Giêsu đã xướng lên câu đấu của một thánh vịnh (Tv 22,2) như một lời nguyện thầm, mà kết cấu là sự phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Chúa đã nhậm lời con xin” (Tv 22,22)

Đức Giêsu cầu nguyện luôn và người mời gọi chúng ta cũng hãy cầu nguyện không ngừng. Thánh sử Mác-cô đã ghi lại những lời nhắc nhở của Đức Giêsu về sự tĩnh thức cầu nguyện. Vâng, con người luôn phải siêng năng và tĩnh thức cầu nguyện, vì cuộc đời con người là một cuộc chiến đấu dằng co với đủ mọi thứ thù địch, trong đó gay cấn nhất là cuộc “nội chiến” trong chính mình: Con người phải chiến đấu chống trả những cám dỗ (14,38), những xu hướng và những đòi hỏi quá độ của thân xác. Tiếp đến, con người phải đề phòng những nghịch cảnh và những hoạn nạn sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (13,18tt). Nhưng theo Phúc Âm Mác-cô, muốn cho lời cầu xin của mình được chấp nhận, con người cần phải thỏa mãn được hai điều kiện tiên quyết mà Đức Giêsu đã đặt ra, đó là sự tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa (11,22-24) và sự luôn sẵn sàng tha thứ, hòa giải với đồng loại (11,25; Mt 6,14-15).

Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong nơi thanh vắng thực sự là thời gian tĩnh dưỡng, là thời gian “lấy lại sức” để tăng cường cho các hoạt động thuyết giáo của Người. “Ora et labora” - Cầu nguyện và làm việc - đã được Đức Giêsu bắt đầu ở Na-da-ret trong suốt 30 năm trời và nay lại được tiếp tục trong cuộc sống công khai của Người. Điều đó đã đủ nói lên rằng: Cầu nguyện và hoạt động là hai điều kiện tất yếu cho cuộc sống của tất cả mọi Kitô hữu và nhất là của những ai dấn thân làm việc Tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa.

Một điểm khác đáng ghi nhận trong phần cuối bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay là thánh sử Mác-cô đã nhắc đến thánh Phêrô. Với tính bộc phát và hăng hái sẵn có của mình, Simon Phêrô đã dẫn các bạn đồng nghiệp đi lục soát tìm kiếm Đức Giêsu khắp nơi, và khi gặp được Người đang cầu nguyện trong một nơi hoang vắng liền thối thúc Người: “Thưa Thầy, ai nấy đều đi tìm Thầy đó”, chứ ông không hề nghĩ đến chuyện phải tôn trọng “giờ cầu nguyện” của Thầy. Chắc chắn rằng vào lúc bấy giờ Simon Phêrô chưa hiểu được việc cầu nguyện đối với Đức Giêsu quan trọng như thế nào! Ông cũng chưa biết đánh giá được sự yên tĩnh, sự lắng đọng của tâm hồn, hầu có thể nghe được tiếng Chúa, hầu có thể chìm sâu vào trong cầu nguyện!

Phải chăng trong cuộc sống hằng ngày đã có biết bao lần chúng ta cũng đã tư duy và hành động tương tự như Simon Phêrô xưa? Thật sự, đời sống đức tin, đời sống Kitô hữu của chúng ta đang phải đứng trước những mối đe dọa nguy hiểm trầm trọng, nếu chúng ta - vì bất cứ lý do gì - coi thường hay rút ngắn những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong sự lắng đọng của tâm hồn, để lao mình vào đủ thứ công việc - công việc sinh nhai cũng như công việc tông đồ. Vì đời sống một người mà thiếu cầu nguyện, những hoạt động tông đồ mà không có sự cầu nguyện kèm theo thì chỉ là cái xác không hồn hay chỉ là những chiếc xe thiếu xăng dầu.

Vâng, bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật về các hoạt động và cầu nguyện của Đức Giêsu, đã đặt ra cho lương tâm mỗi người Kitô hữu một vấn nạn thực tiễn: Liệu trong suốt chuỗi ngày sống, tôi còn dành cho mình có được giây phút nào đó để cầu nguyện nữa không? Ước gì gương sống của Đức Giêsu - Ora et labora - có được “tiếng dội” trong những ngày sống sắp tới của chúng ta.

 

29. Tiếp xúc với Cha trên trời

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP.

Không tôn giáo nào mà không chú trọng đến sự cầu nguyện, tuy cách thức có khác nhau. Dân Do thái ngày xưa, mỗi khi đi chinh phạt các dân ngoại hay dân phản động chung quanh, thì ông Maisen phải lên đỉnh núi giang hai tay ra cầu nguyện. Lúc nào ông giang hai tay ra cầu nguyện thì lúc đó quân Do thái thắng, trái lại lúc nào ông hạ tay xuống thì dân Do thái thua. Nên dân Do thái phải cắt người đỡ hai tay để ông Maisen có thể giang tay cầu nguyện mãi mãi cho dân để đánh thắng các quân địch.

Đức Giêsu cũng làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện. Ngài đã tận dụng những giờ phút tĩnh lặng, những nơi thanh vắng, nhất là ban đêm để tiếp xúc với Cha Ngài. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng phải chuyên cần cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Hãy tập cho có thói quen biến những công việc thường ngày của chúng ta thành những lời kinh sống động dâng lên Chúa.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: G 7,11-.6-7.

Đoạn sách Gióp hôm nay cho ta thấy cái nhìn bi quan của người Do thái trước đau khổ: con người sẽ phải chết, mọi chân trời đều bị bít lại, tất cả đều ê chề, tuyệt vọng, vô nghĩa. Ông Gióp là một người thánh thiện, không thể hiểu được tại sao ông lại bị phạt trong khi ông không ý thức được rằng mình đã phạm tội. Tuy nhiên, ông không quay lưng lại với Chúa, ông âm thầm chịu đdựng và đợi trông...

Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay,

+ Bài đọc 2: 1 Cr 9,16-19,22-23.

Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.

Thánh nhân cho biết Ngài rao giảng Tin mừng một cách tự nguyện chứ không phải do một động lực nào khác bó buộc Ngài.

+ Bài Tin mừng: Mc 1,29-39.

Thánh Marcô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu ở thành phố Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn sốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp tục đi rao giảng ở những nơi khác. Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ qủi.

Những công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với Cha Ngài ở trền trời. Ngài sẽ dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết với Cha Ngài.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Cầu nguyện và làm việc.

I. ĐỨC GIÊSU VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.

1. Đức Giêsu làm việc và cầu nguyện.

Đức Giêsu là gương mẫu của sự cầu nguyện. Cách đây không lâu, Đức Giêsu đã lên rừng ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Thánh Marcô hé mở cho ta biết Đức Giêsu một mình sáng sớm lên nơi thanh vắng để cầu nguyện. Suốt ngày Ngài bận rộn với công việc rao giảng Tin Mừng: giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh, trừ qủi, tiếp xúc với mọi người, trưa về nhà tiếp xúc với môn đệ. Trong khi mọi người còn ngon giấc thì Đức Giêsu đã lên núi cầu nguyện một mình. Đây không phải là lần cuối, mà luôn luôn như vậy. Ngài đã tỏ ra rất ham mộ cầu nguyện, nhất là trước những việc trọng đại.

Đọc Tin mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Đức Giêsu đã đi cầu nguyện và cầu nguyện nơi thanh vắng:

Vừa khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, Chúa lắng sâu trong cầu nguyện và đồng thời cửa mở ra (Lc 3,21 ; Ga 1,32-34).

Năm đầu cuộc đời công khai, ngày sabat Chúa vào hội đường cầu nguyện (Lc 5,16).

Đêm áp ngày Chúa chọn 12 tông đồ, Chúa đã lên núi và cầu nguyện suốt đêm(Lc 6,12).

Trước khi Chúa hỏi các tông đồ về dư luận dân chúng về Ngài, Chúa đã tìm nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Lc 9,18).

Trước khi biến hình Chúa đã lên núi cầu nguyện (Lc 9,28) và trong khi cầu nguyện thì Ngài biến hình.

Lần kia, sau khi thấy Chúa rời các ông để cầu nguyện, các Tông đồ xin Chúa dạy các ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông. Và Chúa đã dạy các ông kinh Lạy Cha (Lc 11,1-4).

Hơn nữa, nhất là trong giờ hấp hối trong vườn Cây Dầu, Chúa đã cầu nguyện thống thiết tới 3 lần (Lc 22,40-45).

Tại sao Đức Giêsu lại hối hả đi cầu nguyện như vậy? Trước hết là vì Ngài khao khát sống một mình với Cha Ngài, và lấy làm sung sướng khi ở riêng với Cha Ngài.

2. Đức Giêsu dạy ta cầu nguyện.

Đức Giêsu đã cầu nguyện và đã làm gương cho ta về sự cầu nguyện. Rất nhều lần Ngài đã khuyên các môn đệ cầu nguyện. Ta chỉ ghi ra đây một số trường hợp:

. Cầu nguyện trong thinh lặng: vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha nơi kín ẩn (Mt 6,6).

. Cầu nguyện với lòng tin: Thiên Chúa có thể ban mọi sự (Mc 11,23-24).

. Cầu nguyện với Cha chúng ta ở trên trời (Lc 11,13).

. Cầu nguyện không nhiều lời (Mt 6,7).

. Biết tha thứ cho người khác để Cha trên trời có thể tha thứ cho chúng ta (Mc 11,25).

. Với lòng khiêm tốn và thống hối như người thu thuế tội lỗi (Lc 18,9-14).

. Cầu nguyện không ngừng (Lc 19,1).

. Cầu nguyện chung với người khác (Mt 1118,119).

. Nhận biết ân huệ của Thiên Chúa (Ga 4,10).

. Xin những sự trên trời (Ga 6,27).

. Kinh Lạy Cha (Lc 11,2t ; Mt 6,9-13).

Đức Giêsu đã cảnh báo Phêrô về nguy cơ ma qủi làm cho ông bị sa ngã, phải luôn tỉnh thức và đề cao cảnh giác:”Phêrô, ma qủi nó sàng con như sàng gạo”. Sức riêng của loài người không thể chống lại được sức mạnh của ma qủi, nên phải cậy nhờ vào ơn Chúa, đừng cậy vào sức riêng mình.

Về điểm này, Đức Cha Tihamer Toth đã nói chuyện với thanh niên như sau:

”Bạn không muốn sao lãng những công việc bề bộn, thế thì, bạn ơi, hãy nghe tôi: Đây là chiếc tầu vượt đại dương bắt đầu mở máy giữa lúc giông tố nổi to, và một đoàn hải điểu theo bên như những tầu khác khởi hành. Chiếc tầu nọ mở hết tốc lực mà không vượt được những làn sóng dữ dội. Gió ngược mạnh vô cùng, chiếc tầu nghiêng ngả. Cả bộ máy rung chuyển, nhưng chiếc tầu chỉ tiến khó khăn được đôi chút. Một hành khách thương hại nói:”Khốn nạn đàn hải điểu. Mở máy tới hàng trăm, hàng ngàn mã lực thế mà chúng ta chỉ tiến được đôi chút thôi. Chim ơi, chim làm được gì với đôi cánh mong manh và bắp thịt yếu đuối”?

Nhưng người hành khách thương hại bỗng nói và cảm động vô ngần:”Đàn hải điểu nhẹ nhàng bay lượn với đôi cánh Đức Chúa Trời ban cho. Chúng gối lưng lên gió vật. Và trong khi chỉ còn một việc, chỉ trông cậy có máy móc, người ta tiến rất khó khăn, rất vất vả, thì đàn hải điểu vượt nhẹ nhàng lên trước chiếc tầu với đôi cánh khéo léo, bay lượn thay cho sức yếu đuối của mình”.

Bạn ơi, chiếc tầu đó là hình ảnh kẻ muốn thắng bằng sức riêng mình. Đôi cánh chim hải điểu là hai tay người ta giơ lên trong lúc cầu guyện. Bạn có còn cho rằng thời giờ bạn nguyện ngắm là thời giờ bỏ phí không? Bạn có còn nói rằng bạn không có thời giờ cầu nguyện không”? (Tihamer Toth, Chúa Cứu thế với Thanh niên, tr 209).

3. Giáo huấn của Giáo hội.

Việc cầu nguyện phát xuất do chức Linh mục vương giả:”Phần tín hữu nhờ chức Linh mục vương giả, cộng tác dâng Thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn. Bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực” (Hiến chế về Giáo hối, số 10).

“Mọi người phải nhớ rằng nhờ phụng vụ và cầu nguyện, nhờ sám hối và tự ý chấp nhận công việc cũng như những khổ cực của cuộc đời làm cho nên giống Chúa Kitô đau khổ, họ mới có thể ảnh hưởng tới mọi người và đem ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 16).

II. CHÚNG TA VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.

1. Nói về sự cầu nguyện.

a) Cầu nguyện là gì?

Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nói:”Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình.

Với con, cầu nguyện chỉ là một cơn lòng sốt sắng, một liếc mắt nhìn lên trời, một tiếng kêu tri âm, một lời nói tình giữa lúc phải gian nan khốn cực, cũng như khi được bình an vui sướng. Và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao thượng, siêu nhiên cởi mở lòng, phơi giãi linh hồn, trao đổi lại tâm tình, để được kết hợp cùng Chúa cách chí thiết” (Trích Một tâm hồn, Kim Thiếu dịch, tr 204).

Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội. Muốn biết bơi thì phải nhào xuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ vừa lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như việc học gia chánh. Muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn. Muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải phân bón, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong lớp “cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).

b) Cấp độ của sự cầu nguyện.

Có nhiều cách cầu nguyện. Thường thường người ta cho rằng cầu nguyện là chuyện vãn với Chúa, là một cuộc đối thoại, mình phải nói với Chúa, nói cho nhiều cho Chúa nghe. Cũng có người có ý kiến cao hơn: cầu nguyện là lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện chỉ là cơ hội để Chúa nói với ta. Tất cả đều đúng.

Nhưng cầu nguyện cao nhất là sự thinh lặng tuyệt đối, trong đó chẳng ai nói mà cũng chẳng ai nghe vì lúc đó giữa Chúa và ta có một sự kết hợp mật thiết rồi, một sự kết hợp cao độ đến nỗi không còn phân biệt giữa Chúa và ta nữa. Tư tưởng này đã được Cha Anthony de Mello diễn tả trong câu chuyện sau đây:

Truyện: Sự im lặng tuyệt đối.

Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm. Ngày kia, người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:

- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?

Cụ già chậm rãi trả lời:

- Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.

- Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?

- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.

Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:

- Lão thấy có 4 giai đoạn trong đời sống cầu nguyện. Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe. Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe và có lẽ giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe. Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối (Dựa theo truyện của Anthony de Mello, Taking Flight).

Một trong những yếu tố quan trọng trong việc cầu nguyện là sự thinh lặng. Chúng ta cần sự thinh lặng, vì chính trong sự thinh lặng này – một sự thinh lặng mà người “hướng ngoại” không thể nào chịu nổi – Chúa Cha sẽ nói với ta lời của Ngài, Chúa Kitô sẽ chia sẻ với chúng ta ý nghĩa của mầu nhiệm Chết và Phục sinh của Người, và Chúa Thánh Thần sẽ thôi thúc để chúng ta tìm ra đường hướng Chúa muốn chúng ta đi. Ngày nay, con người dường như rất sợ sự thinh lặng, do đó con người tạo ra trăm ngàn cớ để chạy trốn cái giây phút tĩnh lặng trước mặt Chúa, Đấng lột trần cho thấy sự hư vô tột cùng của kẻ từ chối chấp nhận mình nghèo khó và yếu đuối. (Thanh Thủy, op.cit. tr 203-204)

c) Cầu nguyện rất cần thiết.

Việc cầu nguyện có thể ví được như cách điều chỉnh radio và vô tuyến truyền hình. Chúa và ân sủng của Ngài lúc nào cũng sẵn sàng, bàng bạc khắp không gian như luồng điện. Con người nào không cầu nguyện cũng ví như máy thu thanh và vô tuyến truyền hình không bao giờ dùng tới. Muốn cho các máy đó bắt đúng luồng sóng, đúng tần số, ta cần điều chỉnh nhẹ nhàng, trong thinh lặng để các máy đó bắt đúng tần số; bằng không, vẫn chơ vơ một mình, đơn chiếc, lẻ bóng và chẳng ích lợi gì.

Hơn nữa, việc cầu nguyện còn có thể ví như “xạc” bình điện. Chúng ta ưa phóng ngoại, để chạy theo những cái hào nhoáng, những hấp dẫn bên ngoài, thích chạy trên chính mình chẳng khác gì bình điện xài luôn nên hết điện, hết năng lực. Thế nên cần phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng để “xạc” lại bình, để hấp thụ và để bắt liên lạc với chính nguồn điện lực.

Giờ cầu nguyện là lúc bồi dưỡng, chuyển hóa, thăng hoá chính bản thân mình như bắt lại với chính nguồn là Thiên Chúa, chính Thánh Thần là Tình Yêu, để ta được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8,1-5 ; Gl 5,22-26). Nhờ đó con người được đổi mới (Cl 3,9-11) tìm lại được con người nội tâm (Rm 7,22) của chúng ta. Tìm gặp, biến thể và hoà đồng với chính Tình yêu.

Thật vậy, ta có thể nhận ra và cảm nghiệm được kết quả của việc cầu nguyện qua biến thể tâm hồn và đổi mới của thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacóp; hoặc như hai môn đệ đi Emmau trong lúc lòng buồn và chán nản, xa rời tập thể, thế mà sau khi đã tâm sự với Chúa cải trang thành bộ hành, các ông đã nhận ra Chúa, tìm lại niềm tin vui và vội vã trở về với cộng đoàn (Lc 24,13-35) (Thái Hoà, Cải tiến Công giáo VN, số 7-8, tr 130-131).

Truyện: Luther bỏ cầu nguyện.

Tại bảo tàng viện ở Wittenberg (Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau:”Tôi quá bận rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ... nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.

Tuy thế, có những người vẫn chưa công nhận sự cầu nguyện là cần thiết, mà còn bác bỏ và chê trách sự cầu nguyện. Thi sĩ Alfred de Vigny đã nói:”Thở than khóc lóc, cầu khẩn là hèn nhát”.

Phải phân biệt hai lối cầu nguyện: thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái độ của kẻ ươn hèn, muốn được điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ chỉ há miệng chờ sung rụng hay ôm gốc cây chờ thỏ. Trái lại cầu nguyện chủ động là tính cách của người vừa cầu nguyện vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu xin: Aide-toi, le Ciel t’aidera (Tục ngữ Pháp): (Anh hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp anh).

Câu nói trên của Alfred de Vigny chỉ đúng cho những kẻ cầu nguyện thụ động. Còn chính nhà khoa học lừng danh Alexis Carrel đã nói:”Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta vẫn phải nhận là đúng rằng kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ”. Một nhà khoa học đã từng được giải Nobel vào năm 1912 còn tin tưởng như vậy, thì sự cầu nguyện đã rõ ràng không phải là sự mơ hồ.

Văn hào Cronin đã than thở cho những kẻ mất lòng tin tường, những kẻ không cầu nguyện:”Địa ngục là khi lòng mất hy vọng”. Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì còn sống làm sao? Chính vỉ vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng, những kẻ không biết có sự cầu nguyện.

d) Ích lợi của sự cầu nguyện.

Cầu nguyện đem lại cho con người rất nhiều lợi ích cho linh hồn. Điều đó chúng ta đã nói nhiều ở trên. Cầu nguyện cũng còn lợi ích nhiều cho đời sống tâm lý và thể lý nữa. Chính những nghiên cứu của các nhà khoa học thời danh đã chứng minh điều đó.

Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói:

- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.

Bác sĩ là một người Công giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:

- Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.

Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách nghiêm chỉnh.

Một tuần lễ sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.

Bác sĩ Carl Jung cho biết:”Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng”.

Giải pháp ông nói đây rõ ràng là CẦU NGUYỆN.

(Viết theo Vũ minh Nghiễm, Sống sống, tr 44-45)

2. Thực hành cầu nguyện.

Đức Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều trong công cuộc truyền giáo. Tuy rất bận rộn với công việc rao giảng, chữa bệnh, trừ qủi và tiếp xúc với mọi hạng người, nhưng Ngài không quên cầu nguyện, Ngài tranh thủ những lúc vắng vẻ, những đêm tĩnh lặng để tiếp xúc với Cha Ngài. Ngài đã làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện và còn thúc giục chúng ta cầu nguyện. Do đó, chúng ta không còn hoài nghi về sự cần thiết và ích lợi của sự cầu nguyện.

Hãy theo gương Đức Giêsu mà cầu nguyện trong đời sống hằng ngày, mặc dầu chúng ta rất bận rộn với công việc. Trong khi cầu nguyện chúng ta hãy lưu ý đến hai điểm này:

a) Cầu nguyện đơn sơ.

Chúa không đòi chúng ta phải cầu nguyện bằng những lời lẽ hoa mỹ hay bằng những hình thức gò bó, mất tự nhiên, nhưng hãy cầu nguyện đơn sơ như một em bé nói chuyện với cha mình, nói lên tất cả tâm tình của mình, nói lên những việc lớn cũng như việc nhỏ trong cuộc sống, cầu nguyện như thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã làm. Về điểm này Cha Charles khuyên:

“Khi bạn qùy gối trước nhan Chúa, bạn đừng xua đuổi những cái khác ra ngoài, nhưng hãy làm ngược lại. Khi bạn thưa chuyện với Chúa Giêsu Kitô, bạn đừng bỏ bớt ba phần tư từ ngữ quen dùng của bạn đi, bạn đừng dùng những từ ngữ ít gặp và đừng tránh không nói đến những chuyện tầm thường. Đừng giả vờ biến thành một người khác. Bạn hãy dám thưa với Chúa Giêsu rằng:”Bạn bị nhức đầu, bạn bị bực mình khó chịu, bạn làm bữa cho gia đình trễ quá rồi”.

(Charles, La prière de toutes les heures, tr 10)

Cũng cần lưu ý thêm khi cầu nguyện trong những biến cố quan trọng:

“Dĩ nhiên rằng khi một biến cố quan trọng xẩy ra, nhất là một thử thách xẩy đến trong đời bạn, bạn đem ra thưa với Chúa trong kinh nguyện của bạn, nhưng đàng khác cũng có một nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ không đưa vào kinh nguyện của bạn hàng ngàn chuyện lặt vặt xẩy ra hàng ngày, nhưng quan trọng đối với bạn và làm thành những đường chính yếu dệt nên đời sống độc điệu của bạn” (Gaston Dutil, Đạo trong đời bạn, tr 29).

b) Làm việc và cầu nguyện.

Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Người ta tưởng rằng cầu nguyện là phải chu chu chăm chắm, nhắm mắt nhắm mũi lại mà cầu nguyện, chứ còn làm việc nữa thì làm sao mà gọi là cầu nguyện được? Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.

Truyện: Cầu nguyện và làm việc.

Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo: một cái đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.

Người thanh niên nói kháy cụ già:

- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).

Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo chiếc có hai chữ “làmviệc” kia.

Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.

Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.

(GM Tihamer Toth, Dieu, La Providence, Sermons, tr 81)

Gaston Dutil nói một cách quả quyết:”Ngày nào mà bạn đem tất cả đời sống bạn vào lời cầu nguyện, thì bạn sẽ thấy ngày ấy bạn say mê cầu nguyện”.

 

30. Được chữa lành và phục vụ

Để hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh sốt của bà mẹ vợ ông Simon, ta cần phải biết rằng vào thời đó, bệnh sốt được coi như là một trong những hình phạt đối với những người mắc tội bất trung: "Nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta, thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này: Ta sẽ trút xuống các người nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt các ngươi mờ đi và các ngươi mờ đi và các ngươi phải kiệt sức" (Lv 26,15-16a). Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy", người bệnh lập tức được chữa lành, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn và bà đi phục vụ Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài. Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này mang một ý nghĩa biểu tượng: loài người đã từng bị nằm liệt do cơn sốt là tội lỗi. Nhờ Phép Rửa tội, Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy" có nghĩa là Ngài đến giải thoát con người khỏi tội lỗi, chữa lành họ, giúp họ trở thành những kẻ phục vụ Chúa và Giáo Hội. Chính Chúa Giêsu đã làm cho việc được chữa lành và phục vụ đi đôi với nhau.

Chúng ta là những người đã được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng để biết được mình lành mạnh ra sao là nhờ vào những việc phục vụ mà mình đang làm. Tuy nhiên, những công việc phục vụ hữu hiệu luôn đòi hỏi sự quan tâm, biết chia sẻ thời giờ, tiền bạc và của cải, lại là những việc mà chúng ta hay nghi ngại và không thích làm. Nhưng nếu chúng ta ích kỷ, chỉ biết sống cho bản thân mình, đóng khung trong gia đình mình hay nơi một vài người mà mình thương mến, mà thiếu tinh thần phục vụ Chúa, phục vụ Họ Đạo, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân, thì linh hồn mình vẫn còn bệnh hoạn, tâm hồn mình còn đang suy yếu. Khi chúng ta sống đúng tinh thần phục vụ vô vị lợi của Chúa, của Giáo Hội, thì ngay lúc đó, tâm hồn chúng ta mới thực sự được chữa lành và đến ngày sau hết, chúng ta mới được "đỡ dậy", được Phục Sinh với Chúa Kitô.

 

31. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.

Hằng ngày chúng ta đối diện trước những hình ảnh tàn khốc trên TV, nào là chiến tranh, nạn đói, nào là trẻ em đang hấp hối. Đứng trước những nỗi đau khổ khôn cùng như thế của nhân loại không lạ gì nhiều người đã đi đến chỗ kết luận rằng một là do hình phạt của Thiên Chúa, hai là không có Thiên Chúa nào hết. Không sao hiểu nổi những con người ăn ngay ở lành lại phải chịu đựng nhiều nỗi khổ đau và vác những thập giá nặng nề đến thế! Không gì đe dọa niềm tin cậy chúng ta vào một Thiên Chúa yêu thương quan phòng hơn là phải chứng kiến những cảnh khổ đau trên đời này.

Sách Gióp là một nỗ lực tiếp cận trực diện vơí vấn đề đau khổ của con người. Ông Gióp, một người đạo hạnh ăn ngay ở lành, bị Thiên Chúa đem ra thử thách. Ông bị mất tất cả vợ con và tất cả mọi tài sản, rồi sau cùng bị ngã quỵ vì đủ thứ bệnh tật. Ông bị buông xuôi bỏ cuộc đến nỗi cảm thấy rằng ngoài cái nỗi khốn cùng này ông không còn gì đáng sống nữa. Nghĩ tới nghĩ lui tại sao ông phải chịu đau khổ, hay tại sao Thiên Chúa giáng xuống quá nặng tay, ông Gióp không tìm thấy một câu trả lời thuyết phục nào có thể đem lại ý nghĩa cho nỗi tuyệt vọng hiện thời của ông. Sự thật là không dễ gì có ngay câu trả lời. Gióp không phải là người đầu tiên cũng chẳng phải là người cuối cùng bị dày vò và bế tắc trước vấn nạn đau khổ con người. Bệnh tật và cái chết có thể là những thời khắc quan trọng nhất và đòi nhiều nỗ lực nhất trong cuộc đời.

Chúng ta thường quên lãng hay chối từ Thiên Chúa cho tới khi chúng ta bị một cơn khủng hoảng nào đó đánh gục và ngã quỵ tới chỗ cảm thấy bất lực. Khi chúng ta chỗi dậy thoát khỏi cơn tuyệt vọng ấy, chúng ta tất tả tìm đến Ngài tìm ơn sủng chữa lành. Chúng ta được đưa đẩy đến chỗ hoàn toàn tín nhiệm vào Thiên Chúa, vì không có cách nào khác để đối diện với đau khổ hơn là nhận thức rằng đau khổ là một phần của chương trình Thiên Chúa. Bệnh tật có thể giúp thúc đẩy chúng ta gạt sang một bên những hoạt động sôi nổi cuồng nhiệt của cuộc sống thường nhật để thay vào đó tập trung tâm tư vào ngôi nhà vĩnh cửu mà Thiên Chúa Cha đã dọn sẵn cho chúng ta trên trời. Đây là những cơ hội đặc biệt đúng lúc để chúng ta giáp mặt với hy vọng và thất vọng của cuộc sống. Không cần gì mà nghĩ ngợi rằng chúng ta sẽ làm gì nếu hoàn cảnh của chúng ta có thay đổi khác đi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Chúa Giêsu đến với bà nhạc của ông Simon, giơ tay ra chữa lành cho bà ấy. Đức Kitô không trao cho chúng ta câu trả lời về vấn đề đau khổ cũng không giải thích tại sao con người phải chịu đau khổ nhưng Ngài cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biến đau khổ thành niềm vui. Bằng cách đồng hóa mình với bệnh nhân hay người hấp hối Đức Chúa Giêsu khi hấp hối trên Thập Giá đã mặc khải cho chúng ta thấy rõ ràng đau khổ là một phần trong chương trình của Thiên Chúa. Tất cả đều tùy thuộc cách chúng ta vác thập giá của mình bởi lẽ một khi kết hợp những gian nan thử thách của chúng ta với những gian nan thử thách của Đức Kitô, chúng ta có thể vui hưởng chiến thắng của Ngài. Cho dù bất cứ điều gì xảy ra, đối với những ai yêu mến Thiên Chúa và sẵn sàng chung phần thương khó với Chúa Giêsu, tất cả mọi việc đều có ý nghĩa. Tin Mừng không bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi những nỗi khổ đau nhưng đoan chắc với chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta cho dù những nỗi khổ đau của chúng ta có lớn đến đâu đi chăng nữa.

 

home Mục lục Lưu trữ