Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 49
Tổng truy cập: 1370763
DẤN THÂN
Ngày nay, bạn đã nghe nói nhiều về việc chọn lựa Chúa Giêsu. Người ta nói đến việc cam kết dấn thân theo Chúa Giêsu, quyết định bước theo Chúa Giêsu và dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho Người. Tôi nghĩ loại ngôn ngữ này rất quan trọng. Chúng ta phải cam kết dấn thân cho Chúa Giêsu. Chúng ta phải quyết định theo sát Chúa Giêsu hay là không.
Việc chúng ta cam kết dấn thân theo Chúa Giêsu thì rất quan trọng, nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là chúng ta cần phải nhớ Chúa Kitô đã cam kết dấn thân cho chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói rất rõ ràng điều đó: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. Nếu phản tỉnh về đời sống của mình, chúng ta se dễ dàng nhớ đến những lần mình đã bội nghĩa bất trung với Chúa. Nhưng Chúa Giêsu vẫn trung tín với giao ước mà Người đã cam kết dấn thân với chúng ta. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta và tình yêu đó đã thúc đẩy Người dấn thân chịu chết trên đồi Canvê vì chúng ta. Sự bất trung của chúng ta không bao giờ có thể làm biến đổi tình yêu trung tín của Người dành cho chúng ta.
Cuộc đời của thánh Matthia cho chúng ta thấy rõ sự dấn thân của Chúa Giêsu cho chúng ta. Thánh Matthia được chọn lựa là tông đồ sau khi Chúa Giêsu đã chịu chết và đã sống lại. Ngài thay thế cho tông đồ Giuđa, kẻ đã tự tử. Hãy nhớ lại ngài đã được tuyển chọn như thế nào để trở thành một người trong nhóm mười hai? Họ đã rút thăm và ông Matthia đã trúng thăm. Matthia biết rằng ông không quyết định trở thành một thành viên của nhóm mười hai, nhưng ông đã được chọn lựa và được chọn bởi chính Chúa Giêsu.
Chung ta cũng được Chúa kêu gọi và tuyển chọn. Lời cam kết dấn thân của chúng ta chỉ là một cách đáp ứng lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Người đã chọn bạn và cả cuộc đời của bạn phải trở nên một lời đáp trả yêu thương đối với lời mời gọi đó.
Ở đây có nét tương tự như lời cầu hôn. Chúa Giêsu ngỏ lời với bạn, mời gọi bạn, và đề nghị với bạn. Người nói với bạn là Người yêu thương bạn, và Người hỏi bạn có yêu Người không?
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì lời mời gọi yêu thương của Chúa. Xin Chúa ban cho con ơn biết cam kết dấn thân cho Chúa.
56. Yêu thương.
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khắc dòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc dòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nước. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa ngủ, cắn răng chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nươc, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhân bị chết xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”.
Đó là câu chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 nam 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “Ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuổi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn hanh khách sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dậy yêu thương, tôn giáo nào cũng dậy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Môsê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu thương, thực hiện yeu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra mon đệ Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Kitô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn, có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận ai, giận gì việc gì… Du lý do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người; giết kẻ bị nói xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
57. Vốn vẫn như thế! – John W. Martens
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Quả thực, tôi biết Thiên Chúa không thiên vị ngươi nào” (Cv 10,34)
Trong bài ca “Một lần trong đời”, phần điệp khúc đã lập đi lập lại câu: “Đời vẫn như thế, cuộc sống vẫn như vậy…”. Không biết điệp khúc này muốn nhấn mạnh đến tính “vẫn như thế” hay tính bất biến không đổi thay của cuộc sống, thắc mắc này vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy thế, người ta nghiệm thấy trong cuộc sống vẫn có những điều đổi thay, tăng trưởng và cả sự bền vững, không đổi thay của thực tại. Kinh nghiệm Phục sinh của các tong đồ cho chúng ta thấy nhiều minh họa về sự thường hằng và cả sự đổi thay này.
Chúng ta biết Thiên Chúa vẫn như thế, không đổi thay và vĩnh cửu, như Người đã tỏ lộ cho ông Mô-sê “Ta là Đấng Hằng sống” (Xh 3,14). Ở tâm điểm của Hữu thể không đổi thay của Thiên Chúa là chính sự Hiệp nhất và Tình Yêu. Tuy nhiên, cách mà sự hiệp nhất và tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ cho các tông đồ, các môn đệ của thời Giáo hội tiên khởi, lại dường như phá vỡ sự bất biến không đổi thay của bản tính Thiên Chúa. Qua việc sai phái Người Con một của Thiên Chúa là Đức Giêsu Ki-tô xuống trần gian để cứu chuộc chúng ta khi chiến thắng trên tội lỗi và sự chết, và sau đó trao ban Thánh Thần an ủi để hướng dẫn Giáo hội, có điều gì đó làm đổi thay cách thế chúng ta biết và cảm nghiệm về hữu thể và tình yêu của Thiên Chúa.
Hẳn rằng không phải tình yêu của Thiên Chúa là điều mới me đối với người Do Thái. Như lá thứ thứ nhất của Thánh Gio-an đã nói tới điều này “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa”. Tình yêu của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong suốt lịch sử của dân Ít-ra-en. Tuy nhiên “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống”. Chính qua sự biểu lộ của Người Con Một, mà có một điều gì mới đã xảy ra.
Điều mới mẻ này được tìm thấy nơi sự phát triển mở rộng của Giáo hội sau biến cố Phục sinh của Đức Ki-tô, và nó làm cho những gì Đức Giêsu đã thực hiện không chỉ dành cho một nhóm nhỏ các môn đệ của Ngài, nhưng cho toàn thể nhân loại. Đã chẳng có một lối đường rõ ràng cho Giáo hội, một đồ án hay một bản hướng dẫn cho kế hoạch phát triển 5 năm của Giáo hội. Những gì mà các tông đồ có được vẫn là ân huệ của Chúa Thánh Thần để giúp họ nhận biết sứ mệnh của mình và khám phá ra Giáo hội thực sự là gì.
Vẫn còn có một thứ sa mạc trong Chúa Thánh Thần, một điều gì đó dường như chưa thuần thục hay chưa kiểm soát được, và công việc của Chúa Thánh Thần có thể làm thay đổi những lối tư duy và hành động cũ kỹ. Hẳn rằng điều này cũng thách đố chính Giáo hội tiên khởi, như chúng ta nhìn thấy trong cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Cornelius trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Qua những thị kiến, cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần, Phêrô đã đi đến một lối nhận định mơi mẻ: Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho cả Dân ngoại nữa. Nếu chuyện này dường như không tạo nên cơn “sốc” cho chúng ta, đó là vì chúng ta đã được Phêrô và các tông đồ chia sẻ: ngay cả các dân ngoại cũng được cứu độ. Thế nhưng chính sách Công vụ cũng nói tới việc Phêrô bị “sốc” về chuyện này (Cv 10).
Tính chất mới mẻ về việc cả dân ngoại cũng được đón nhận, đã được công bố qua lời của Phêrô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa khong thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”. Đây là điều thực sự mới mẻ, mới mẻ tận căn, mở ra con đường mới cho sứ mệnh phổ quát của Giáo hội. Phêrô không đợi sự đồng thuận của các tông đồ khác, nhưng hành động dựa vào sự cảm nghiệm Thánh Thần Thiên Chúa ở giữa họ. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”. Thế rồi, Phêrô đã làm phép rửa cho họ.
Người ta không thể chối bỏ sự đổi thay gây sốc này trên các môn đệ của Đức Giêsu qua tác động của Thánh Thần, và tính mơi mẻ của việc dân ngoại cũng được đón nhận, dầu Phêrô có quyết định một cách nhanh chóng, cũng cần được Giáo hội phê chuẩn tại công đồng Giê-ru-sa-lem. Thế nhưng tính mới mẻ này cũng ở ngay trong trạng thái thường hằng của nó, tức là trong tình yêu không đổi thay của Thiên Chúa. Vì những gì mà Giáo hội được mời gọi thực thi cũng chính là việc đưa toàn thể thế giới tới với lời mời gọi tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, một điều xem ra rất xưa, nhưng lại được làm mới mẻ trong tương giao với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương anh em” – Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu cận nhân, vốn vẫn như thế, nhưng đã được làm nên mới hoàn toàn.
58. Niềm tâm sự – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu có nói: “Cha Thầy dạy Thầy thế nào, Thầy cũng dạy anh em như vậy, nên anh em hãy dạy nhau như Thầy đã dạy anh em” không? Hay nói: “Cha Thầy làm gì cho Thầy, Thầy cũng làm điều ấy cho anh em, nên anh em hãy làm cho nhau như Thầy đã làm cho anh em”? Điều đó có nghĩa gì?
2. Xét về gương của Đức Giêsu: Ngài yêu thương con người đến mức độ nào? Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau ở mức độ nào?
3. Để yêu thương mọi người, ta có thể làm gì cụ thể và ích lợi cho họ nhất? Họ cần gì nhất?
Chia sẻ
1. Đức Giêsu bắt chước Chúa Cha, sau đó Ngài mời gọi ta bắt chước Ngài
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có những lời của Đức Giêsu có hình thức ít nhiều tương tự như sau: “Chúa Cha làm cho Thầy, Thầy cũng làm như vậy cho anh em”, nên “anh em hãy làm như vậy cho nhau, giống như Thầy đã làm cho anh em”. Chẳng hạn:
– Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Sau đó Ngài mời gọi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
– “Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”, Vậy “anh em (hãy) giữ các điều răn của Thầy và ở lại trong tình thương của Thầy”
– “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”, nghĩa là: Tất cả những gì Cha Thầy nói với Thầy, Thầy lại nói hết với anh em, nên tất cả những gì Thầy nói với anh em, anh em hãy nói hết với nhau. Vì nói cho nhau biết hết tức coi nhau như bạn hữu, nên lời trên có thể diễn tả cach khác: Cha Thầy đã coi Thầy như bạn hữu, Thầy cũng coi anh em như bạn hữu, vậy anh em hãy coi nhau như bạn hữu, giống như Thầy đã làm như vậy với anh em.
Như vậy, Chúa Cha nêu gương cho Đức Giêsu noi theo, Đức Giêsu lại nêu gương cho chúng ta noi theo. Đức Giêsu cũng đã nói rõ điều ấy: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15). Vì thế, bổn phận của chúng ta là tiếp tục nêu gương tốt cho nhau, và cho mọi người. Nhờ đó, chúng ta trở nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian” (x. Mt 5,13-16).
Trong nghi thức phong chức giáo sĩ, Đức giám mục đại diện Giáo Hội trao cho các tân chức bổn phận phúc âm hóa, gồm hai nhiệm vụ được tóm lại trong câu: “Facete et docete” (=Hãy làm và dạy). Không phải là không có dụng ý khi Giáo Hội đặt chữ làm trước chữ dạy. Giáo Hội không bảo: “Hãy dạy và làm”, mà bảo: “Hãy làm và dạy”. Giáo Hội có ý nói: hãy làm gương trước đã rồi hãy dạy bảo sau, vì làm gương thì cần thiết và quan trọng hơn dạy bảo rất nhiều. Nhưng dường như nhiều nhà phụ trách phúc âm hóa thời nay thường chú tâm đến việc dạy bảo hơn là làm gương, thậm chí coi rất nhẹ việc làm gương. Nhiều khi lời dạy và việc làm của người dạy trái ngược hẳn nhau. Vì thế, việc phúc âm hóa và việc giáo dục Kitô hữu không đi đến kết quả mong muốn vì chưa đi đúng tinh thần của Đức Giêsu và Giáo Hội. Cần nhận thức rõ ràng rằng gương sáng có tác dụng giáo hóa hữu hiệu gấp nhiều lần lời dạy: “Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn”. Các nhà phúc âm hóa và giáo dục Kitô hữu nên tránh vết xe đổ của nhưng người Pharisiêu xưa là “nói mà không làm” (Mt 23,3), hay “nói một đằng, làm một nẻo”.
2. Gương yêu thương và hy sinh của Đức Giêsu
Điểm nhấn của bài Tin Mừng hôm nay là gương yêu thương và hy sinh của Đức Giêsu, và lời Ngài yêu cầu chúng ta hãy bắt chước Ngài mà yêu thương nhau: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Gương của Ngài trong việc yêu thương chúng ta là: Ngài yêu bằng những hành động cụ thể, nghĩa là hy sinh thật sự cho người mình yêu. Khi yêu ai, người ta có thể hy sinh cho người ấy thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc, cơ hội, tình cảm khác, v.v… Nhưng hy sinh cao độ nhất là hy sinh chính mạng sống mình: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Đức Giêsu đã thực hiện chính sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,6.8; x. Ep 5,2; 1Ga 3,16). Không ai thật sự yêu thương mà lại không sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu. Ai nói mình yêu thương mà lại không muốn hy sinh, kẻ ấy nói dối, hay tình yêu của kẻ ấy chỉ là thứ môi miệng.
Như vậy, một trong những lý do quan trọng khiến chúng ta phải yêu thương nhau, đó là chính Thiên Chúa và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).
3. Yêu thương nhau bằng cách làm gương sáng cho nhau: gương tốt nhất là gương yêu thương nhau
Người yêu thương đích thực thì sẵn sàng hy sinh bất kỳ điều gì mà người mình yêu cần đến. Điều mà người mình yêu cần đến có thể rất khác nhau, tùy theo mỗi người và theo từng trường hợp cá biệt. Để hy sinh, để thể hiện tình yêu một cách thích hợp, chúng ta cần phải tìm hiểu xem người mình yêu cần những gì, và cần gì nhất. Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người không trừ ai. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem con người thời nay, nhất là những người chung quanh ta, cần gì nhất.
Trong vô số những nhu cầu tinh thần cũng như vật chất, điều mà con người cần nhất là được cứu rỗi; nói cụ thể và chi tiết hơn là tin vào Thiên Chúa, đồng thời biết sống xứng đáng với phẩm giá của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa để nhờ đó được hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, người yêu thương tha nhân cách sáng suốt là người biết quan tâm tới sự cứu rỗi của họ, nghĩa là chẳng những giới thiệu cho họ biết Thiên Chúa, tin Đức Giêsu, ý thức phẩm giá cao quí của mình, mà còn giúp họ sống cho xứng với phẩm giá cao quí ấy.
Để sống xứng với phẩm giá cao quí ấy, không gì tốt cho con người bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Ngài đã chia sẻ hay thông phần cho họ: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Mà điều cốt yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8.16). Vì thế, sống yêu thương – yêu Thiên Chúa và tha nhân – chính là thực hiện bản chất cao quí nhất của con người, là sống xứng với phẩm giá của con người là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều mà con người cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Chính vì thế, Đức Giêsu chỉ truyền cho con người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17; x. Ga 13,34-35; 15,12; 1Ga 3,23; 2Ga 1,5). Vào ngày chung thẩm, Thiên Chúa chỉ căn cứ vào một điều duy nhất để phán xét chúng ta, đó là tình yêu của chúng ta đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Vì thế, tìm cách làm cho những người chung quanh ta yêu thương nhau, hy sinh cho nhau, chính là làm cho họ được cứu rỗi. Và không cách nào hữu hiệu để giúp họ yêu thương nhau cho bằng chính ta làm gương sáng cho họ về điều ấy. Nghĩa là ta không chỉ dạy họ yêu thương nhau và yêu thương mọi người, mà chính chúng ta phải thật sự gương mẫu trong việc yêu thương mọi người và yêu thương chính họ (những người ta dạy dỗ). Phải sống làm sao để có thể nói được tương tự như Đức Giêsu, chẳng hạn: “Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương tôi, nên tôi cũng yêu thương anh chị em như vậy… và anh chị em cũng hãy yêu thương nhau giống như tôi đã yêu thương anh chị em”. Tình yêu của ta đối với mọi người phải là tấm gương để mọi người nhìn vào đấy mà yêu thương nhau.
Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức Giêsu đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi người và bùng cháy lên: “Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ay đã bùng lên!” (Lc 12,49). Lửa ấy có bùng lên hay không, điều ấy tùy thuộc vào mỗi người chúng ta có lửa ấy trong tâm hồn mình hay không, và có biết truyền lửa ấy đến tâm hồn những người chung quanh ta hay không!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha và Đức Giêsu đã yêu thương con vô bờ bến, xin cho con cũng biết yêu thương mọi người chung quanh con bằng những hy sinh cụ thể về thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc, cơ hội… Xin cho mọi người chung quanh con cảm nghiệm được tình yêu chân thật của con dành cho họ, để chính họ cũng bắt chước con mà yêu thương nhau.
59. Yêu như Chúa.
“Con chim trước khi chết thì cất tiếng hót bi thương; con người trước khi chết thì lời nói rất chân thật”. Điều này chúng ta có thể lấy Chúa Giêsu làm bằng chứng. Trong bữa tiệc ly, trước khi ra đi chịu chết, Chúa đã nói với các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Một trong những chỉ thị ấy coi như bao hàm mọi chỉ thị khác là “anh em hãy yêu thương nhau” trong bài Tin Mừng hôm nay.
Luật cũ trong Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”. Nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu bản thân tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Đó là mức yêu thương cao độ lắm rồi, nhưng vẫn còn giới hạn và chưa loại trừ được hết những động lực vị kỷ. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và Ngài đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Đó là Ngài dạy: hãy yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Chúng ta không chỉ lấy chính mình làm tiêu chuẩn: yêu người như mình, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn và kiểu mẫu; yêu người như Chúa yêu. Chúng ta phải yêu như Ngài đã yêu.
Chúa đã yêu như thế nào? Cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã yêu thương tất cả mọi người và mỗi người một cách thiết thực và yêu thương cho đến cùng. Ngài không để ai về tay không mỗi khi họ đến với Ngài: người mù được sáng, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, người mẹ mất con được lại con, người chị mất em được lại em, thậm chí đám cưới đang lúng túng vì thiếu rượu cũng được Ngài cho rượu tràn trề. Ngài quan tâm cả tới nỗi mệt nhọc của môn đệ và đưa họ đi nghỉ dưỡng sức. Ngài quan tâm tới những yếu đuối của họ để sửa dạy và nâng đỡ. Tình yêu của Ngài thiết thực như một người mẹ hiền săn sóc con cái.
Có những người xem ra không xứng đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến họ. Những cô gái điếm cũng có giá trị đối với Ngài. Với những người sống ngoài lề xã hội, những người mà không một ai thèm để ý tới, thì Ngài đã nhìn nhận họ và chuyện trò với họ. Tất cả mọi người trước mắt Ngài đều rat quan trọng. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, cả trong những lúc gặp hiểm nguy. Và cuối cùng, Ngài đã hy sinh đến chết, vì Ngài không muốn và không thể cắt đứt sự yêu thương, đúng như Ngài đã nói: “Tình yêu cao quý nhất la chết cho người mình yêu”.
Tình yêu của Chúa cao đẹp quá, cao quí quá và Chúa bảo chúng ta hãy yêu như Ngài. Thật khó quá, nhưng Chúa truyền chúng ta phải thực hiện bao nhiêu có thể. Xin hãy nhớ câu chuyện cùng lời khuyên sau đây và cố gắng thực hiện: trong một lớp học kia,một thầy giáo bất ngờ ra bài làm cho các học sinh như sau: “Từ nay đến cuối tuần, mỗi em hãy tìm quan sát một loại hoa tầm thường nở bên vệ đường hay ngoài đồng nội. Những bông hoa không được ai để ý và đặt tên cho đàng hoàng, nhưng chỉ được gọi bằng một tên chung là “hoa dại”. Không có giá trị gì cả”. Cả lớp học hăng say thực hiện điều thầy giáo muốn. Mỗi em cầm theo một cái kính lup để quan sát thật kỹ những bông hoa dại. Sau đó từng em đã mô tả những nét đẹp của những bông hoa dại mà các em đã quan sát; và cả lớp đều công nhận: những bông hoa dại bị khinh thường đều có những vẻ đẹp riêng tuyet vời không ngờ được.
Cuối cùng, thầy giáo lên tiếng kết luận: “Các em đã có kinh nghiệm rồi đó. Nếu chúng ta chú ý quan sát, và dành thời giờ để quan sát đi quan sát lại, thì cả vật tầm thường nhất như bông hoa dại kia cũng sẽ xuất hiện vẻ đẹp trước mắt chúng ta. Ap dụng vào mối tương quan giữa người với người, các em hãy nhớ điều này: mỗi người là một kỳ công tuyệt đẹp của Đấng Tạo Hóa. Nét đẹp của mỗi người khác nhau mà chúng ta không thể quan sát cho hết được. Thế nhưng, mỗi người chúng ta không có thời giờ dành cho nhau để tìm hiểu nhau, chúng ta chỉ biết nhau một cách hời hợt bên ngoài. Chúng ta chỉ nhớ ghi nhận những tật xấu, những khuyết điểm, những lỗi lầm… mà quên đi hay không muốn nhìn đến cái hay cái đẹp nơi người chúng ta gặp. Chúng ta không thể có tất cả những gì, những ai chúng ta thích, nhưng hãy yêu thích những gì chúng ta có; hãy yêu mến những ai chúng ta gặp hằng ngày”.
Ước chi những lời nhận định của thầy giáo trên đây thức tỉnh mỗi người chúng ta về mối tương quan của mình đối với anh chị em chung quanh: chúng ta có dành đủ thời giờ để tìm hiểu và nhận ra những điều tốt nơi anh chị em chung quanh hay không? Có phải vì năng gặp mỗi ngày mà chúng ta có thái độ coi thường, không biết tôn trọng không? Có phải vì khó khăn này nọ mà chúng ta không để ý tới hay thờ ơ đối với anh chị em sống quanh chúng ta không? Có phải vì một điều gì đó mà chúng ta né tránh và phủ nhận điều cao đẹp của họ không?
60. Tình yêu
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm vieng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”.
Vị tu sĩ đáp “có chứ”.
Người thanh niên hỏi “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?’.
Vị tu sĩ đáp “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta”.
Người thanh niên hỏi “nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp “Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy”.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi “Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”.
Vị tu sĩ đáp “Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn”.
Người thanh niên chỉ phản ánh lại những lời nói của thánh Gioan “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. (Bài đọc 2).
Tình yêu là điều kiện đầu tiên, để thực sự hiểu biết về cuộc sống, và đặc biệt là hiểu biết về Thiên Chúa. Như cha Zosima nói trong cuốn sách Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky “Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mỗi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiem có trong tất cả mọi sự”. Van Gogh đã nói một câu tương tự: Cách thức tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương nhiều thứ. Hãy yêu thương bạn bè, vợ con…, và bạn sẽ được đi trên đường lối đúng đắn trong việc nhận biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người giáo viên tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng tình yêu không đạt được sự hòa hợp riêng của nó. Người ta phải trả giá đắt cho tình yêu. Tình yêu thường đòi hỏi nhiều năm tháng kiên trì, qua những công việc lặt vặt, trước khi người ta có thể đạt được khả năng biết yêu thương.
Có một khoảng cách lớn, giữa việc nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người. Không biết yêu mến, có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta biết yêu mến, thì khoảng cách này được lắp đầy. Biết yêu mến, có nghĩa là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa; ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có tình yêu. Sự nhận biết không phải la chứng tỏ hoặc giải nghĩa.
Ghen ghét là một điều tồi tệ. Ghét bất cứ thứ gì cũng đều là xấu xa cả. Thật là điều tốt đẹp, khi yêu mến tất cả mọi sự, ngay cả một bụi hoa hồng. “Đối với tôi, tôi hài lòng được trở thanh một người làm vườn, một người biết yêu quí những cây cỏ của mình” (Van Gogh).
Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Tuy nhiên, để được như vậy, trái tim phải ngay thẳng. Nếu chỉ có được một trái tim ngay thẳng, thì chúng ta có thể hiến tặng nhiều hơn nữa. Nhưng than ôi! Nhiều khi trái tim con người lại thờ ơ lạnh lẻo, đôi khi còn trống rỗng, tan vỡ nữa. Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này. Tất cả điều đó nói lên rằng chúng ta có một trái tim bằng máu thịt, chứ không phải là bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương của trái tim, để co khả năng tạo ra được những hoa quả của tình yêu.
Khi chúng ta biết yêu thương, thì hình ảnh của Thiên Chúa đạt mức độ tươi đẹp nhất và rạng ngời nhất nơi chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam