Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1367563

ĐAU KHỔ

ĐAU KHỔ-  Lm. Jac. Phạm Văn Phượng OP

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đây là một điều kiện Chúa Giêsu đưa ra cho những ai muốn theo Chúa. Và ai muốn theo Chúa thì phải chấp nhận điều kiện của Chúa. Điều kiện đó là vác thập giá. Vác thập giá nghĩa là thế nào?

Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.

Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hít-le đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia.

Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.

Vấn đề đau khổ, ai sẻ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn ngườichết. Bản án còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.

Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: ” Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: “Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- B

PHẦN CON, CON BẢO THẦY LÀ AI?- Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Hôm ấy, “Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8, 27-28)

Như thế, người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.

Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29)

Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về Người: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”

Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”

Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”

Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giêsu là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu sinh!”

Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu: “dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)

Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.

Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8,31)

Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình.”

Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.

Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:

“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý”. (Thư gửi bà Von Vizine)

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:

Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.

Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- B

CON ĐƯỜNG CỦA THẦY- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật

Con đường tiến lên phía trước

So với các tác giả Nhất Lãm khác, trình thuật về lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô tại Xê-da-rê do thánh Mác-cô biên soạn khá vắn gọn. Bản văn này có thể đuợc giải thích theo nhiều điểm khác nhau. Dưới đây là ba điểm.

* Con đường đức tin

Thánh Mác-cô kể lại câu chuyện xảy ra ở bên kia sông Gio-đan không nhằm xác định về nơi chốn cho bằng về ý nghĩa thần học. Đây là một “nơi khác” ngoài môi trường Giu-đa giáo, và tại đây, lần đầu tiên, Đức Giêsu được nhìn nhận như Đấng Mêsia. Trong đất Do thái, việc mặc khải này chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối đời của Đức Giêsu: trước tòa Cai-pha (x.Mc 14,61-62).

Câu hỏi về lai lịch của Đức Giêsu không do thiên hạ hay các môn đệ nêu ra, nhưng do chính Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ như một con đường dọn sẵn: khởi đầu từ những ý kiến của dân chúng và cuối cùng là câu trả lời của các môn đệ.

Đến cuối bản văn, Đức Giêsu phác họa hình ảnh người môn đệ như một người luôn tiến bước, một người đi theo Đức Kitô.

Quả vậy người ta không thể diễn tả lòng tin của mình, không thể nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nếu như người ta cứ ở một chỗ, cứ yên vị trong sự an toàn chắc chắn với những ý tưởng có sẵn của mình.

Đức Kitô chỉ đến với những người “ đang tiến bước ”, và người Kitô hữu được mời gọi “ đi theo ” Đức Kitô đang bước đi, Đức Kitô sống động chứ không ở yên một chỗ.

* “Thầy là Đấng Mêsia”

Lòng tin vào Đức Kitô không phải là một thứ chủ nghĩa thủ cựu. Các môn đệ không được lấy điều người ta nói làm đủ, chính Đức Kitô cũng không muốn như thế; các môn đệ của Đức Kitô phải có một xác tín riêng về Thầy mình. Một tổng hợp những kiến thức về Đức Giêsu không bao giờ có thể thay được sự hiểu biết cá nhân về Người, bởi vì hiểu biết cũng là không ngừng chia sẻ thân phận của Người, tức là từ bỏ sự sống mình và đi theo Người đến tận thập giá.

Đàng khác, nhận định của dân chúng về Đức Giêsu không hoàn toàn sai, nhưng không đầy đủ. Nhận định này không diễn tả tính cách siêu việt của con người Đức Giêsu. Các quan niệm Cựu Ước không trình bày đủ về lai lịch của Đức Giêsu. Người vượt lên trên tất cả những điều đó.

Chính vì vậy, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi với các môn đệ: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu đòi hỏi một quan niệm đúng đắn, một sự chuyển hóa chứ không phải chỉ là lặp lại một hiểu biết hay một cái gì có sẵn.

Ông Phêrô đã làm điều ấy. Điều ông nói, nhân danh các môn đệ, vượt hẳn quan niệm của quần chúng, và cả chính ông cũng chưa hiểu được toàn bộ ý nghĩa. Đối với một người Do thái như ông, Đấng Mêsia hằng được trông đợi không hề có chút nào như Đức Giêsu. “Đấng tái lập vương quốc Ít-ra-en” sẽ không thể là con người bị loại bỏ này, sẽ không thể là con người lúc nào cũng lang thang trên các nẻo đường.

Dù vậy, ông Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Nhờ đức tin, ông chấp nhận sự sai biệt giữa ý tưởng ông đang có và thực tại đang diễn ra.

* “Xa-tan, lui lại đàng sau”

Cũng với tư cách phát ngôn viên của các môn đệ, ông Phêrô đã phản ứng trước những lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương khó. Ông kéo Đức Giêsu ra một nơi như muốn che chở cho Người. Với vẻ trịch thượng, ông trách Thầy, coi Thầy như yếu hơn ông, và muốn cất khỏi đầu óc Thầy tư tuởng cuồng điên về cuộc khổ nạn.

Trong câu chuyện này, người ta nhận ra một trong những cám dỗ cơ bản thường thấy nơi con người: hành quyền trên Thiên Chúa. Đức Giêsu vừa mô tả con đường duy nhất dẫn đến sự sống, ông Phêrô đã trách Người … đã ngăn cản con đường Người phải đi.

Làm như thế, ông đã tự cho mình có quyền trên Đức Giêsu, ông vượt lên trước Người để chỉ cho Người thấy theo ý ông, đâu là con đường tốt nhất.

Thế nhưng, trên con đường tiến đến Nước Trời, người ta “ không đi trước ” Đức Kitô, người ta “đi theo” Người. Do đó, Đức Giêsu quay về phía các môn đệ và tái lập vị thế. Không phải Thầy đi theo các môn đệ, nhưng môn đệ phải theo Thầy. Đức Giêsu không chấp nhận một điều đình nào cả. Con đường thập giá là con đường duy nhất dẫn đến sự sống, con đường Chúa Chúa đã định. Ngăn cản Đức Kitô, không cho Người đi con đường đó tức là xúi giục Người bất phục thánh ý Chúa Cha: công việc này chỉ có thể là của Xa-tan, tên đã muốn lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường đó khi Người bắt đầu cuộc đời công khai (x. Mc 1,12-13).

Có lẽ ông Phêrô chỉ nghĩ Đức Giêsu là Đấng Mêsia theo quan điểm loài người nên đã trách Người. Ông chưa hiểu hết ý nghĩa của lời tuyên xưng ông vừa thốt lên, cũng như lời ngăn cản ông đưa ra. Dù vậy, Đức Giêsu cũng muốn cho thấy Thập giá là con đường cứu độ, Người sẽ đi, đi đến cùng, và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Người, muốn đi theo Người, cũng phải buớc đi trên con đường ấy.

Đặt tên cho Người

Trở lại với lời tuyên xưng của ông Phêrô.

Khi một đứa trẻ sinh ra, cha mẹ của em sẽ đặt cho em một tên gọi. Một thời gian sau, chính em bé sẽ đặt cho cha mẹ em một tên gọi và tên gọi này sẽ thay thế mọi tên gọi khác. Tên gọi đó sẽ là “ ba ” là “ má ”.

Gọi như thế, em bé làm cho cha mẹ em thay đổi, đem lại cho cha mẹ em một chiều kích mới: là “ ba ”, là “ má ”.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cũng gần giống như thế.

Khởi đầu, ông Phêrô đem lại cho Đức Giêsu một tên gọi: “ Thầy là Đấng Kitô ”. Mặc dù ông chưa hiểu hết ý nghĩa của câu nói này, nhưng ít ra, cứ dựa theo truyền thống Do thái, tên gọi ông vừa đọc lên về Đức Giêsu cũng đã có một chiều kích quan trọng. Đặc biệt gọi tên cũng là làm cho hiện hữu.

Về phần mình, Đức Kitô đặt tên cho các môn đệ bằng cách mô tả điều sắp xảy ra để làm cho một người trở thành Con Thiên Chúa: trải qua cái chết và sinh ra trong một đời sống mới.

Điều này quả là có tính cốt yếu vì nó xác định rõ bản chất những tương quan Thiên Chúa muốn nối kết con người và con người phải có đối với Thiên Chúa.

Đức Giêsu có thể tự mình tuyên bố: Tôi là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Và ngược lại, Nhóm Mười Hai cũng có thể nói: Chúng tôi làm điều này điều nọ, chúng tôi tin, vì vậy chúng tôi là những môn đệ. Mỗi bên tự đặt tên cho mình và buộc người khác phải tôn trọng.

Đức Giêsu đã không xử sự như thế. Người dần dần nêu ra các câu hỏi để rồi chính các môn đệ nói lên mặc khải sâu xa nhất về Người. Tuy vậy, Người vẫn phải giải thích cho các ông nội dung của mặc khải ấy, hay là con đường Đức Kitô sẽ trải qua để đem lại ơn cứu độ cho Ít-ra-en và mọi người.

Như vậy, chính Đức Giêsu có sáng kiến, nhưng Người không áp đặt. Người đưa các môn đệ qua con đường của sự thông tri, nhìn nhận trong tình yêu. Nhờ được Thần Khí soi sáng, con người đặt cho Thiên Chúa tên gọi, một tên gọi chính xác. Thiên Chúa khiêm tốn biết bao!

Về phần chúng ta, mỗi người cũng phải đặt tên cho Đức Giêsu; mỗi người phải có ý kiến riêng của mình về Đức Giêsu Kitô. Thế nhưng, hình như chúng ta có khuynh hướng đặt cho Người một tên gọi giống như chúng ta. chúng ta vẫn muốn lặp lại “ điều thiên hạ nói về Đức Giêsu ”. Điều này có nghĩa là chúng ta muốn Người đi theo chúng ta hơn là chúng ta đi theo Người, hay ít ra, chúng ta không muốn chia sẻ cuộc sống của Người, không dám từ bỏ mình để đi trên con đường Người đã đi.

Và rồi, chúng ta có sẵn sàng để Người đặt tên cho chúng ta không? Chúng ta có dám chấp nhận đổi khác đi khi khám phá ra tên gọi đích thực của mình? Chúng ta có dám để Đức Kitô làm cho chúng ta sinh ra trong sự sống Người ban cho chúng ta, tức là trong sự sống của Người?

 CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- B

ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng ta được thứ tha tội lỗi, được giải hòa với Chúa Cha. Nói nôm na rằng Chúa vác thập giá là để nhân loại chúng ta được hạnh phúc. Vậy thì cớ sao Chúa Kitô lại khẳng định rằng ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người? (x.Mc 8,34). Vác thập giá là chấp nhận hy sinh, bỏ mình, chấp nhận cả những bất công, nhục hình. Những người Macxit cũng như một vài triết gia thế kỷ ánh sáng đã vin vào điều này để kết án Kitô giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ đám đông dân cùng khổ cam chịu cảnh bất công đàn áp với niềm hy vọng sẽ được hưởng phần phúc sau này mà vô tình tạo cớ cho bất công ngự trị, tạo dịp cho kẻ thống trị bốc lột, đàn áp. Dù kết án Kitô giáo nhưng khi đã nắm được quyền thì người ta lại giương khẩu hiệu rằng nhân dân hãy hy sinh chịu khó, chịu khổ vì một tương lai tươi sáng sau này to đẹp gấp mười lần hôm nay, một tương lai mà nhiều người nhận định rằng chỉ là một viễn ảnh khó thành hiện thực, dĩ nhiên là đối với đám dông dân chúng bị trị. Phải chăng cái khẩu hiệu ấy cũng là một thứ thuốc an thần? Cái vòng lẩn quẩn và cũng là một nghịch lý xem ra khó có câu trả lời.

Không gì hơn là tập chú vào cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu để tìm lời giải đáp cho vấn nạn nêu trên, cho dù biết rằng trong kiếp lữ hành này chúng ta không thể nào đến với sự thật toàn vẹn, vì được mấy ai dám chắc chắn là mình đã mở hết lòng để đón nhận Thần Chân Lý. Trước hết cần khẳng định rằng khi mời gọi chúng ta, mời gọi dân chúng hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo, thì Chúa Giêsu không hề và không bao giờ muốn chúng ta cúi mình cam chịu cảnh khổ, cảnh bất công cách tiêu cực, làm cớ cho những người bóc lột những kẻ gian ác lợi dụng để vinh thân phì da và ngụp lặn trong tội ác của họ. Việc tìm sự sung sướng hay hạnh phúc trong chính sự đau khổ là điều lệch lạc mà ngày nay người ta gọi đó là một dạng tâm bệnh, bệnh khổ dâm. Một điều chắc chắn không kém, là người cha thực sự thì không bao giờ muốn con cái phải khổ đau. Chúa Giêsu đã từng nói rằng dù chỉ là người cha trần thế với nhiều khiếm khuyết thế mà sự thường khi con cái xin bánh thì chẳng ai lại ném cho chúng hòn đá, như thế người cha trên mọi người, là Đấng trọn hảo chỉ muốn và làm điều tốt lành cho con cái (x.Lc 11,9-13; 12,32). Vậy lý giải thế nào về sự hiện hữu của thập giá mà Chúa Giêsu đã gánh trên vai và Người đã minh nhiên mời gọi chúng ta vác lấy để đi theo Người?

Đường yêu thương, con đường làm người chính là chìa khóa giải đáp cho vấn nạn này. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Đây không phải là một tình yêu quy ngã nhưng là tình yêu hướng tha từ trong bản thể của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi và rồi được thông chia cho các loài thụ tạo, đặc biệt cho loài người. Yêu thương đích thực thì không sống cho chính mình mà sống cho ai đó và vì ai đó. Chính khi hướng đến tha thể là lúc ta mới thực sự là mình. Chúa Cha thực sự là mình trong tương quan với Chúa Con, trao ban tất cả cho Chúa Con. Ngược lại Chúa Con thực sự là mình khi luôn hướng về Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện ý Chúa Cha, trao ban lại tất cả cho Chúa Cha. Và Chúa Thánh Thần chỉ thực sự là Tình Yêu Ngôi Vị giữa Chúa Cha và Chúa Con khi luôn tìm vinh danh hai Ngôi cực trọng ấy.

Sống trong tương quan liên vị và ra khỏi chính mình là động thái từ bỏ mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh khi khẳng định: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Như thế thập giá hay những hy sinh, từ bỏ không phải là sự khổ đau ta đành phải trả giá theo nghĩa tiêu cực mà chính là dữ kiện hay điều kiện ta phải vượt qua trong tiến trình sống yêu thương, tiến trình thể hiện bản thân mình là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Hình ảnh con nhộng lột xác để hóa thành bướm, hình ảnh con rắn lột vỏ để lớn lên vẫn thường được gợi lên để minh họa cho ý tưởng này. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến hình ảnh hạt lúa mì chịu mục nát đi để nẩy mầm, thành cây, đơm bông, kết hạt, thì mới thực sự là chính nó khi thể hiện ý nghĩa hiện hữu của nó (x. Ga 12,24). Mọi so sánh dù cố nhắm làm rõ một khái niệm nào đó, nhưng vẫn là khập khiễng, nghĩa là còn hạn chế. Lột xác để thành bướm hay lột vỏ để lớn lên thì vẫn có cái gì đó vì chính mình. Trong khi đó chuyện vác thập giá là vì tha nhân. Chúa Giêsu vác thập giá là vì chúng ta. Người chịu khổ hình là để chúng ta được cứu độ. Người tự nguyện nên nghèo khó là để chúng ta nên sang giàu. Và khi sống vì chúng ta, thì Người thể hiện chính Người là Giêsu, Đấng Cứu Độ, là Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giải thoát kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng (x. Lc 4,18-19).

“Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Một trong những hành động để làm sống đức tin theo thánh Giacôbê đó là yêu thương tha nhân cách cụ thể và toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Để sống yêu thương thì chuyện vác thập giá là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên cần ý thức rằng chúng ta vác thập giá là vì tha nhân, nghĩa là để cho tha nhân được hạnh phúc, cho người nghèo khỏi cảnh khổ, cho người bị áp bức được tự do, cho người tội lỗi biết sám hối ăn năn, cho người gian ác biết quay gót trở về… Hiểu được điều này thì hy vọng chúng ta sẽ biết cách thế vác thập giá như thế nào để thực sự là theo Chúa Giêsu chứ không phải là làm cớ cho sự dữ thống trị, làm cớ cho kẻ gian ác thích chí, cười khì.

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- B

CON NGƯỜI LÀ AI?- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Trong bài Tin mừng này, thánh Marcô trình bày cho ta thấy có ba mức độ nhận biết về Đức Giêsu.

Mức độ của dân chúng: Họ nhận thấy Đức Giêsu là một tiên tri như Gioan tẩy giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri hay Ngôn sứ là người được Thiên Chúa trao cho một nhiệm vụ, tuyên bố một việc gì sẽ xảy ra, một điều gì về Thiên Chúa, hay một sự gì Chúa sẽ làm cho dân, cho loài người. Để nhận biết đó là vị tiên tri của Thiên Chúa, Chúa thường cho ông có quyền làm một ít việc lạ lùng như chữa bệnh, khiến mưa nắng … Vì thế, người ta đến với tiên tri để nghe lời Chúa thì ít, để xin chữa bệnh, xin ơn cứu con, cứu mình khỏi tai họa thì nhiều. Cũng thế, chúng ta nghe lời Chúa thì ít, mà xin ơn này ơn kia thì nhiều.

Dân chúng coi Đức Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Người để cầu khấn hơn là tin lời Người. Họ xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại, như vậy, họ đến với Đức Giêsu vì ích lợi cho họ, không vì theo Chúa. Họ ích kỷ, vị kỷ, không có lòng vị tha, xả kỷ. Họ giống như kẻ theo đạo kiếm gạo mà ăn, cầu lợi, cầu phúc. Không được lợi, được phúc là chán, rồi bỏ đạo.

Những kẻ như thế, không thể nhận ra Người là Đấng Kitô.

Mức độ thứ hai của các môn đệ nhận biết về Đức Giêsu: Khi Đức Giêsu hỏi: “Các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Trước cộng đồng hội đường Nagiareth, Đức Giêsu đã xác nhận lời ngôn sứ Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc. 4, 18. xem Is. 11 và 61, 1-2 và 1V. 19, 16). Đức Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.

Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Người siêu việt, sự việc Người đã lừng vang trên toàn cõi đất, Người là Đấng Thánh của Israel và nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv. 11 và 12).

Phêrô và các môn đệ đã nhiễm lây quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế, nên khi thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ hai môn đệ Gioan và Giacôbê đến xin cho con mình: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Người ra và can ngăn Người đừng dại dột thế. Đức Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 22-23).

Mức độ thứ ba nhận biết về Đức Kitô: Chính Đức Giêsu đã dạy các môn đệ nhận biết về Đức Kitô ở mức độ này: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại. Người nói rõ điều đó và không úp mở”.

Đó là sứ mệnh cốt yếu của Đức Kitô: Hy sinh khiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga. 3, 16-18. 15, 13).

Chỉ có con đường hy sinh như thế mới chứng tỏ tình yêu vô cùng quảng đại và vị tha, mới cho ta thấy được Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Còn những con đường cầu lợi, cầu danh, cầu vinh trần gian chỉ là giả dối, ích kỷ, hẹp hòi. Cho nên, không lạ gì, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta phải tin vào con đường tình yêu hy sinh xả thân đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.

Đó là thứ “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Không một thánh nhân nào mà không để cho Thánh Thần nung nấu. Không một vĩ nhân nào mà không trải qua gian nan.

Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm thấm thía thánh giá của Đức Kitô trên đỉnh đồi Canvê, nhờ thế các ông đã vác thập giá của mình cho đến hơi thở cuối cùng trên đỉnh đồi Vatican.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã trả lời cho con biết: Người là Đức Kitô đã hy sinh chịu đau khổ, chịu chết vì con. Xin cho con biết trả lời cho Chúa: Con là Kitô hữu đang vác thập giá mình mà theo Chúa, chứ không phải là thứ môn đệ chỉ xin ngồi bên tả, bên hữu, chỉ đòi vinh quang cầu lợi, cầu phúc, cầu cứu mạng sống mình mà chẳng biết hy sinh chút nào! Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận biết Người là ngôn sứ để con lắng nghe lời Chúa, chứ không phải để cầu lợi, cầu phúc. Người là vua để cai trị lòng con, chứ không để xin địa vị danh vọng. Người là Đức Kitô chịu chết trên thánh giá, để con được vác thập giá theo Chúa, chứ không để cứu mạng con ở đời này.

home Mục lục Lưu trữ