Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 44
Tổng truy cập: 1374483
ĐÂY LÀ CON YÊU DẤU
Mỗi năm, ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình.
Chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường. Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của Người.
Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí thức” tôn giáo thời Người lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1; 16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền Palestine.
Ở đó tình hình từ nay đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh quang của Con Người…” (Mt 16,27-28). Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.
Sáu ngày sau. Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con đường núi. Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu, trong mùa Chay này?
Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được tái hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6); chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ. Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?
Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Matthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được Matthêu sử dụng ở đây, “metamorphoun” có nghĩa chữ là “biến dạng”; đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: “Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa,… đã lấy hình dạng con người đầy tớ… (Pl 2,6-7). Nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.
Và bỗng các ông thấy ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.
Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ mình của Người.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.
Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng đức tin của mình, lên tiếng và nói “tôi” đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại, ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ… Môsê là người đã khởi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để chuẩn bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt 17,10-13).
Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thể nói là cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này: “Tôi sẽ dựng nhiều lều…”. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thể bắt được hạnh phúc và cố định nó lại!
Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.
Đám mây này, biểu tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa; mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một cảnh tượng. Động từ ‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy Lạp “Episkiazô”, chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất “shékinah”, nghĩa là “nhà ở”, “Hiện Diện” của Thiên Chúa.
Và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.
Cái từ ‘Đây là’, bề ngoài có vẻ không quan trọng. “Đây là” chính nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong chuyện kể nó được lặp lại ba lần: “đây là một sự hiện ra… đây là một đám mây… đây là một tiếng nói…”. Trong Kinh Thánh, đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm gì cả.
Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ của Người… bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.
Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho chúng con.
Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.
Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo dựng để thu mình lại với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.
Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.
Sách kinh lễ không dám dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp “Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất… mà để làm cho con người sống lại. Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm…
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NGƯỜI CON YÊU DẤU- Chú giải của Fiches Dominicales
*l. Mối liên lạc chặt chẽ với lời báo trước khổ nạn:
Bị đám đông lòng dạ thất thường ở Galilê trở mặt và thường xuyên bị những kẻ thù kiếm chuyện gây rối, Đức Giêsu phải liên tục di chuyển. Người lên tận miền Césarée Philipphe, nơi đầu nguồn sông Giođan, và ở lại đó tập trung vào việc huấn luyện các môn đệ của mình.
“Người ta nói Con Người là ai?” Đức Giêsu thăm dò trước. Sau đó Người mới hỏi ngay họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai. Phêrô lên tiếng thay cho nhóm anh em: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp lại bằng một lời chúc phúc: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc. và đồng thời một uỷ thác sứ mạng: “Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Rồi “từ lúc đó”, thánh sử Matthêu ghi rõ, Đức Giêsu bất đầu báo cho các ông biết trước điều khiến Phêrô phải lấy làm xúc phạm, và phải lãnh nguyên lời quở trách của Chúa: “Satan, lui lại đằng sau Thầy. Đó là con đường đau khổ mà Con Người sẽ phải đi: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (16,21). Và Chúa tiếp tục cho biết con đường của các môn đệ cũng không thể là gì khác: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (16,24).
Đúng vào thời điểm quan trọng này, thánh Matthêu cho biết rõ: “sáu ngày sau” – chúng ta liên tưởng đến chuyện ông Môsê dẫn theo ba người bạn lên núi Sinai (Xh 24,9), để nhận lãnh mạc khải của Thiên Chúa “sáu ngày sau” đó (Xh 24,16), và cuối cùng diện mạo ông biến đổi khác thường (Xh 34,29) – Theo các tác giả Tin Mừng đó là lúc xảy ra biến cố biến hình trên núi. Jean Potin viết: đây là một câu chuyện “chắc chắn dựa vào sự kiện xác thực”, và được ba thánh sử nhất lãm ghi chép lại “bằng một thứ ngôn ngữ biểu tượng, vay mượn một số những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (Thiên Chúa tỏ bày thần tính) trên núi Sinai” (“Giêsu, lịch sự thật”, Centurion, trang 330).
*2. Cuộc biến hình trên núi cao:
*a. Ba nhân chứng được tách riêng trên núi:
“Chỉ có ‘các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê’ được Đức Giêsu gọi riêng đi theo Người. Là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm nay, rồi đây, cũng chính họ sẽ được chứng kiến cảnh khuôn mặt Chúa bị “biến dạng” tàn tạ trong vườn Cây Dầu (26,37). Chi tiết “ngọn núi cao”, nơi sẽ xảy ra cuộc biến hình, mang ý nghĩa thần học hơn là tính chất địa lý. Trong Kinh Thánh, núi thường là cho cho những cuộc mạc khải của Thiên Chúa. Ở đây nó khiến nhớ lại núi Sinai, ngọn núi lẫy lừng nhất trên trái đất, vì là nơi xưa kia Thiên Chúa đã hiện ra và phán truyền cho con người. J.Potin nhắc nhớ lại: “Chính trên ngọn núi này Môsê đã được đám mây bao phủ, khiến dung mạo ông ngời sáng. Đây cũng là núi mà vị ngôn sứ vĩ đại Êlia đã đặt chân tới để dưỡng sức, lấy lại can đảm trong cuộc chiến đấu chống lại tội thờ ngẫu tượng của dân chúng. Đến lượt chính Đức Giêsu cũng lên núi này” (Sđd trang 330).
*2. Đức Giêsu biến hình, đứng giữa Môsê và Êlia:
“Như ông Môsê khi xuống núi Sinai, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của Giao ước, “dung mạo Đức Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Người trắng tinh thư ánh sáng”. Trong trường hợp của Môsê, thì đó chỉ là sự phản chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Đức Giêsu, thì lại là sự lan toả của chính hữu thể của Người, là sự chiếu giãi của “vinh quang” Người (xem Lc 9,32). Cả 3 Phúc âm nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Đây là hai con người đầy uy lực là hiện thân cho cả Cựu ước Môsê là biểu tượng của Lề Luật; Êlia đại diện cho hàng ngũ các ngôn sứ. Người ta tin rằng ông này sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất, muốn chỉ rằng giáo ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô. Vào khoảnh khắc tái diễn lại cảnh thần hiện Xuất Hành, J.Potill giải thích, có sự tham dự của hai nhân vật lớn của lịch sử Israel, cả hai đều đã từng đặt chân trên ngọn Sinai. Họ chính là hiện thân cho Lề Luật và các ngôn sứ, và từ bao thế kỷ, đã loan báo và chuẩn bị cho Con Người đến. Hai vị đã trò chuyện với Đức Giêsu và qua đó nhìn nhận Người là Đấng phải đến (Sđd trang 330-331).
Cũng với ý chống lại cuộc khổ nạn của Đấng rnà ông xưng là “Messia”, Phêrô chỉ muốn giây phút này trở thành vĩnh cửu: “Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái.
*3. Từ đám mây có tiếng phán:
Người môn đệ còn đang nói thì bản thân ông và hài môn đệ kia bị bao phủ trong một “đám mây sáng ngời”. Trong Cựu ước đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa Dân Người qua sa mạc (Xh 13,21). Từ nay, Đức Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa loài người. Từ đám mây, vang lên một “tiếng phán”. Ở dây chúng ta thấy lặp lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Đức Giêsu khi người chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, nhưng thêm: “Hãy vâng nghe lời Người. Điều này gợi nhớ lại lời kêu gọi của Thiên Chúa đối với dân chúng khi loan báo vị Môsê mới sẽ ngự đến (Đnl 18,15). J.Potin giải thích: “Đức Giêsu không chỉ là vị ban lề luật không chỉ là ngôn sứ, Người chính là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, là Con Người đứng ở bên ngai Thiên Chúa. Từ nay, phải vâng nghe lời Người. Điều Người nối làm ứng nghiện những gì, Lề Luật và các ngôn sứ đã tiên báo xưa” (Sđd trang 331).
*4. Xuống núi:
Biết mình đang chứng kiến một cuộc hiển linh của Thiên Chúa, các môn đệ “sấp mặt xuống đất”. Đức Giêsu “lại gần”, “chạm vào các ông”, và trong một cử chỉ như để cứu chữa, Người thúc giục các ông hãy “chỗi dậy” (động từ mà những thế hệ Kitô hữu đầu tiên dùng dể chỉ sự phục sinh): sức mạnh phục sinh của Chúa đã khởi đầu trong cuộc sống và đức tin của các môn đệ.
Bây giờ chỉ còn lại “một mình Đức Giêsu”. Khi xuống núi, Chúa truyền cho các ông phải giữ kín những điều vừa xảy ra, “cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Cuộc tiếp xúc của các ông với Thiên Chúa chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, J.Potin kết luận liền sau đó, họ thấy Đức Giêsu đã trở lại với trạng thái bình thường của phận làm người phải chết. Tuy nhiên, cốt lõi của sứ điệp đã được công bố, phải vâng nghe lời của Người Con Yêu Dấu, cho dù đôi khi lời ấy xem ra rất nghịch thường. Bóng đen u ám của cuộc khổ nạn đã đè nặng ngay trên ánh quang của cuộc Biến hình. Thánh sử Luca đã cho: thấy rõ điều đó khi thêm chi tiết là Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31), nghĩa là về cái chết của Người. Máccô (và Matthêu) cũng hướng sự chú ý của các nhân chứng tới cuộc hy sinh sắp tới của Đức Giêsu khi đề cập đến lệnh Người truyền cho các ông ‘đừng nói cho ai hay những gì mình thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy’. Mặc dù cuộc biến hình dường như loại trừ khả năng phải chết của Đức Giêsu, bởi nó mặc khải Người là Con Người đến từ trời, nhưng các môn đệ chỉ nắm bắt được ý nghĩa của nó sau khi Chúa đã sống lại (Sđd trang 331).
BÀI ĐỌC THÊM
“Trên đường đời ta đi, Thiên Chúa vẫn ở bên”
“Cuộc biến hình của Chúa dạy cho chúng ta nhiều bài học: Thứ nhất, chúng ta đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa. Người dành cho ai Người muốn: ở đây Đức Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ, và dặn họ không được tiết lộ cho ai về thị kiến cho đến khi Người sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông này vẫn là những môn đệ bỏ Thầy, thậm chí chối Thầy như thường! Thứ đến, đó là con đường bình thường người môn đệ của Chúa phải đi, luôn ngang qua bóng tối Đức Tin của đời thường. Phêrô cảm thấy quá sung sướng được ở trên núi. Ông đề nghị dựng ngay ba lều và định cư ở đây chúng ta cũng thường thích ở lại nơi đâu mọi sự xảy ra cỏ vẻ như ý, nơi đâu đức tin và đời sống đạo của mình xem ra an toàn, vô sự, và chúng ta cảm thấy như Thiên Chúa rất gần. Chúng ta nghĩ rằng chính khi đó chúng ta mới thực sự là Kitô hữu. Thực ra Thiên Chúa không kém gần gũi với chúng ta trong giờ phút khó khăn của sa mạc hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo! Hơn nữa, sự ham muốn tìm kiếm một sự hiện diện khả giác của Thiên Chúa thực ra rất hàm hồ và chính Đức Giêsu cũng chẳng muốn ba môn đệ mình kể lể về thị kiến họ được hưởng. Nhưng lần hiện ra của Chúa sau khi Người phục sinh, cũng giống như cuộc biến hình này, đều chỉ là chút ánh sáng vụt tắt. Chúng ta cần phải bước đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi qua để đạt tới hoàn toàn và vĩnh viễn sự mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta hãy đối diện với cuộc sống và cái chết của mình. Môsê và Êlia là những kẻ đi tìm Thiên Chúa và đã từng được thấy hôm nay họ là nhân chứng của Đức Giêsu biến hình, chính họ đã chẳng từng phải vất vả lê bước trong sa mạc? Sứ điệp của Biến hình chính là trên đường đời ta đi Thiên Chúa vẫn ở bên.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- A
ĐỨC GIÊSU BÀY TỎ VINH QUANG CỦA NGƯỜI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố nầy nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng trong thời gian Mùa Chay họ không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm Thương Khó và Tử Nạn, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang của Đức Giê-su.
St 12: 1-4a
Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, thuật lại ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài, như thư gởi tín hữu Do thái viết: “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).
2Tm 1: 8b-10
Viết cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhớ hiệu quả tâm linh của đau khổ, vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho công cuộc loan báo Tin Mừng được sinh hoa kết quả và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.
Mt 17: 1-9
Tin Mừng trình thuật cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt vào trong bối cảnh Đức Giê-su loan báo lần đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Lời loan báo nầy đã khiến cho các môn đệ bàng hoàng. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao, ở đó Ngài cho các ông thoáng thấy trước vinh quang Phục Sinh của Ngài, qua đó Ngài đảm bảo với các ông rằng Thương Khó và Tử Nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh quang.
BÀI ĐỌC I (St 12 : 1-4a)
Sách Sáng Thế được chia thành hai phần: phần thứ nhất (1: 1-11: 26) trình thuật nguồn gốc nhân loại và phần thứ hai (11: 27-50: 26) trình thuật nguồn gốc dân Ít-ra-en qua các Tổ Phụ của họ. Bài Đọc I, trích từ đoạn đầu của phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.
*1.Ơn gọi (St 12: 1):
Lời mở đầu của Bài Đọc 1: “Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: ‘Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi’” (12 : 1), quy chiếu đến những sự kiện trước đó (11 : 27-32). Quê quán của ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, là thành Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua cùng với gia tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng ông Te-ra cùng gia tộc của mình định cư lập nghiệp ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và ở đó ông qua đời (11 : 32).
*A-Cuộc hành trình đức tin:
Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham, người con trưởng của ông Te-ra, muốn tiếp tục thực hiện ước nguyện của cha mình? hay vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về cuộc hành trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.
Trước hết, vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất khi loại bỏ các vị thần linh khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en. Thứ nữa, khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi ông thực hiện một hành vi đức tin: cắt đứt mọi mối dây liên hệ với quê hương, bà con thân thuộc và nhà cha của mình để đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người” (12 : 1). Hơn nữa, vào lúc đó, Thiên Chúa chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (12 : 4).
*B-Kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa:
Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà tổ phụ Áp-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó với Thiên Chúa mật thiết hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.
Đây là khuôn mẫu các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước. Khi nào Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … , Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân. Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ từ bỏ cách dứt khoát như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng phải có một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, Ngài cũng đòi hỏi những người mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý như vậy: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, hay “Hãy đi, đức tin của con đã cứu con”, hoặc “hãy chỗi dậy và đi !”.
*2.Lời hứa (St 12: 2):
Lời đầu tiên Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…” (12 : 2), lời hứa này sẽ còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần xuyên suốt “truyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham (St 11 : 27-25 : 11).
Tuy nhiên, những gì Thiên Chúa hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực trạng trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già bảy mươi lăm tuổi không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không tương xứng với những gì mà ông hiện có trong tầm tay: một kẻ không có gì bảo đảm cho tương lai (vợ ông, bà Xa-rai hiếm hoi, không con: St 11 : 30) được mời gọi lên đường đến một nơi chưa được xác định. Tuy nhiên, truyền thống Ít-ra-en luôn luôn xem tổ phụ Áp-ra-ham là cha của lời hứa. Chính vì lời hứa nầy mà ông sống. Quả thật, chính từ lời hứa này, ông sinh ra một dân mà Chúa đặc tuyển làm dân riêng của Ngài, một dân mà Thiên Chúa ưu ái cách đặc biệt.
*3.Lời chúc phúc (12 : 3):
Lời chúc phúc của Thiên Chúa là dấu chỉ hữu hình cho thấy tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hữu hiệu và nhắc nhớ ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa :
“Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho người;
ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12 : 3).
Lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham, nhưng mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo mạch văn của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của ông Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của ông Kham và ông Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông Áp-ra-ham cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một người, một dân tộc, trong cái khung lịch sử để truyền đạt giao ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân tộc trên mặt đất, ngay từ nguyên khởi của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích phổ quát của Ki-tô giáo rồi.
*4.Viễn cảnh thần học:
Tác giả Gia-vít đã suy niệm sâu xa về địa vị ưu đẳng của con người và sự thất bại do tội lỗi gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính tác giả đã nhắc nhớ huynh đệ tương tàn giữa hai anh em Ca-in và A-ben, lụt Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong vũng lầy của sự ác và là đối tượng của những trừng phạt và những lời chúc dữ của Thiên Chúa.
*A-Tổ phụ Áp-ra-ham là phản đề của nguyên tổ A-đam:
Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng lệnh Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ Áp-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập vào nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ: “Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành”.
*B-Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của những người tin:
Tổ phụ Áp-ra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi thờ phượng: Xi-khem, Bê-then… Từ cuộc sống du mục của vị tổ phụ nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh : “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng… Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 8-12).
BÀI ĐỌC II (2 Tm 1 : 8-10)
Thư thứ hai gởi ông Ti-mô-thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm rất nghiêm ngặt ở Rô-ma: thánh nhân “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2 : 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài : “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính” (2Tm 4 : 6-8).
*1.Ông Ti-mô-thê :
Ông Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã nhận ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16 : 1-3).
Cha ông là người Hy lạp, còn mẹ ông là người Do thái đã theo Ki-tô giáo, ông Ti-mô-thê đã được mẹ ông là bà Êu-ni-kê và bà ngoại ông là bà cụ Lô-ít dạy Kinh Thánh lúc còn thơ ấu, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn kiến thức sâu xa về Kinh Thánh, như thánh Phao-lô đã nhận định về lòng tin của ông: “Tôi hồi tưởng lại niềm tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (1Tm 1 : 5).
Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau vô cùng mật thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có ông Ti-mô-thê là người đồng gởi, trong đó có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê trông coi cộng đoàn Ê-phê-xô để đảm bảo công việc loan báo Tin Mừng vẫn được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi “Các Thư Mục Vụ”, vì trong những thư này, thánh Phao-lô đưa ra những huấn thị của mình cho những người kế nghiệp ngài.
*2.Lý do của bức thư :
Vào lúc đó, cộng đoàn Ê-phê-xô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Khi phải đối mặt với những trào lưu tư tưởng, người tông đồ phải giữ vững một thái độ duy nhất là “loan báo Tin Mừng”. Trong đoạn trích dẫn ngắn này, thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo được.
*3.Tính hiệu quả của sự đau khổ :
Để lời khích lệ mình có tác dụng, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình : “Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (1: 8). Nhờ đau khổ, lời rao giảng Tin Mừng được sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê : “Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1 : 24).
*4.Ơn gọi tông đồ :
Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy ân sủng của Thiên Chúa, không có liên hệ gì với “công kia việc nọ chúng ta đã làm”. Những lời nầy âm vang Bài Đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống: chính thánh nhân, xưa kia là một Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật và là người nhiệt thành bách hại Ki-tô giáo, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài không do công trạng của mình, nhưng do “kế hoạch và ân sủng của Chúa”.
*5.Sự chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh :
Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao hàm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Ki-tô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được biểu lộ qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.
Trong những thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự; chắc chắn trong đoạn trích nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết giữa lòng cộng đoàn Ê-phê-xô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Thánh Phao-lô ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.
Thư này không được gởi cho cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu là chứng nhân cho Đức Ki-tô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy, như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Ki-tô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (“Parole sur le chemin”, tr. 52).
TIN MỪNG (Mt 17 : 1-9)
Bài trình thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài trình thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng là một trong những bài trình thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Trước đó, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ Ngài : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Thánh Phê-rô đáp : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15-16). Nghĩ rằng thời điểm đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã ngăn cản Ngài. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.
*1.Thời điểm, nhân vật và nơi chốn:
Bài trình thuật bắt đầu với thời điểm: “Sáu ngày sau”, diễn ngữ thời gian này, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài trình thuật tiếp theo sau, nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài trình thuật đi trước. Thời điểm “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16).
Bài trình thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị” (Mt 16: 28), trong khi bài trình thuật Biến Hình bắt đầu với việc kể ra ba nhân vật được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: “Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao”. Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy rằng câu nói bí nhiệm nầy loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt kiểu nói: “trong số người có mặt ở đây”, có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Ngoài ra, thời điểm “Sáu ngày sau” và nơi chốn “một ngọn núi cao” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người mà sau nầy cũng sẽ được chứng kiến lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Mt 26: 37).
Trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều xác định biến cố Biến Hình xảy ra “sáu ngày sau” lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Mc 9: 2; Mt 17: 1), thì thánh Lu-ca lại xác định “khoảng tám ngày sau” (Lc 9: 28), tức là ngày thứ nhất sau ngày sa-bát, ngày các truyền thống Tin Mừng tưởng niệm ngày Phục Sinh của Đức Giê-su. Tuy các Tin Mừng Nhất Lãm đưa ra thời điểm có khác nhau, nhưng cả ba đều có chung quan điểm thần học như lời nhận định của cha Guillemette: “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ phải vâng lời đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang qua thập giá” (“L’Evangile de Matthew”, 195).
Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta câu trả lời: “Người lên núi để cầu nguyện”. (Lc 9 : 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và là nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, sự kiện núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì “ngọn núi cao” không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc Thần Hiển.
*2-Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài:
Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su thành một con người rạng ngời vinh hiển: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”, còn thánh Lu-ca thì mô tả sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Chúa Giê-su thân thưa với Cha của Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9: 29). Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có quyền gì trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là tham dự trước cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
*3-Sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a:
Chính trên một ngọn núi Xi-nai (còn gọi là Khô-rếp), ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp gỡ Thiên Chúa. Cũng trên ngọn núi Biến Hình nầy, “ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người”. Sự hiện diện của hai nhân vật này là một bảo chứng tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai ông được xem như báo trước Đấng Mê-si-a: ông Mô-sê đã báo trước rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18 : 18); còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến.
Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện khởi đầu và chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Bài trình thuật của thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9 : 31). Thuật ngữ “xuất hành” nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian khổ nhất của dân Ít-ra-en: ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn họ đến miền Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian khổ nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang. Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong kiếp sống phàm nhân trên con đường tiến về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, Chúa Giê-su được Chúa Cha an ủi cách đặc biệt bằng biến Cố Biến Hình. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua của cuộc Biến Hình.
*4.Ba nhân chứng :
Chỉ có ba môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, được diễm phúc chứng biến cuộc Biến Hình. Trước đây, chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5 : 37), và sau này cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su dẫn theo với Ngài vào trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Ngài (Mt 26 : 37). Trước đây, trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên sự chết (Mc 5 : 37), còn nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ nghe Chúa Cha chứng nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 17 : 5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.
Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê : “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16 : 16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Ki-tô chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Sau này, vị lãnh tụ của các Tông Đồ sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, còn lúc nầy thánh nhân chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Sọ. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.
Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình :
“Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
Ẩn hiện sau Tựa Ngôn nầy là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.
*5-Phản ứng của Phê-rô:
Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình thánh Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ một mình thánh nhân bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh.
Trong câu chuyện Biến Hình nầy, thánh nhân cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, bộc trực, nghĩ sao thì nói vậy, thánh Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều: một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu như vậy, thánh nhân không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể thánh nhân liên tưởng đến lễ Lều, lễ tưởng niệm dân Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa: biểu tượng niềm mong đợi thời Thiên Sai.
Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Ngài (Ed 37 :27 ; Hs 12 : 10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Ki-tô của họ (Ga 1 : 14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, thánh Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Ki-tô. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên mặt đất ngỏ hầu cuộc Thần Hiển trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.
*6.Cuộc Thần Hiển :
“Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông”. Trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời phủ che sự hiện diện hữu hình nhưng siêu việt của Thiên Chúa trước mắt phàm nhân (Xh 40 : 34-35 ; 1V 8 : 10-12 ; Ed 10 : 3-4 ; Tv 18 : 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả, tuy nhiên ở đây không còn là “các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người”, nhưng “dung mạo Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” với lời công bố tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su. Lời công bố này không chỉ nhấn mạnh đặc tuyển, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp : “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trên môi miệng của Đấng ấy, vì thế “Các ngươi hãy nghe vị ấy” (Đnl 18 : 15). Như vậy, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ làm một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại (17 : 9). Nói cho cùng, chỉ trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Giê-su, các ông mới có thể hiểu được những gì các ông đã chứng kiến trong cuộc Biến Hình này. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.
*7.“Chỗi dậy đi”:
Trước đây, các ông đã nghe lệnh truyền nầy vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia, lúc này Đức Giê-su cũng lập lại lệnh truyền này với các ông: “Chỗi dậy đi !”, đó cũng là lời căn dặn được ngỏ với các ông: “Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết”. Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia và cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3 : 2). Thánh Phao-lô cũng viết : “Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3 : 21).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam