Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 59

Tổng truy cập: 1364797

ĐỀN THỜ CAO QUÝ NHẤT

ĐỀN THỜ CAO QUÝ NHẤT

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Nếu hôm nay, có tin đồn Chúa Giê-su hay Đức Mẹ hiện ra tại nơi nào đó thì có hàng ngàn, hàng vạn và thậm chí hàng triệu người công giáo đổ xô tìm đến để cầu nguyện, để xin ơn… bất kể ngày đêm, mưa nắng, xa xôi khó nhọc và không ngại tốn kém.

Tuy nhiên, điều oái oăm là có một nơi chắc chắn không những chỉ có Chúa Giê-su mà còn có cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đang hiện ra, đang ngự trị… nơi này gần lắm, thiêng lắm… nhưng chỉ được rất ít người tìm đến.

Đó là nơi nào vậy?

Chúng ta sẽ biết đó là nơi nào, khi lắng nghe lời dạy của Chúa Giê-su sau đây:

"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). Ngoài ra, thánh Phao-lô cũng nói: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19).

Thế thì tâm hồn người tín hữu yêu mến và tuân giữ lời Chúa Giê-su là nơi linh thiêng vì có Chúa hiện ra, có Chúa ngự trị. Vậy thì nơi đây đúng là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa, là nơi thánh, là chốn linh thiêng… Thế mà sao không có mấy người đến cầu nguyện, đến hành hương, khấn vái?

Xưa kia, thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả trong những đam mê thế tục… nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: "Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài".

“Chúa ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài!” Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.

Cũng như thánh Augustinô xưa, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta lại đi tìm Chúa bên ngoài, đang khi Chúa vẫn ở trong chúng ta.

Vậy thì từ nay, chúng ta đừng quên tìm Chúa, gặp gỡ Chúa ngay trong tâm hồn chúng ta, vì tâm hồn ta đúng là đền thờ của Thiên Chúa như Chúa Giê-su dạy:

"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23) và lời thánh Phao-lô: “Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19).

Đền thờ này rất cao trọng vì được chính Thiên Chúa thiết kế và thi công, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài.

Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giê-su đổ máu ra mà cứu chuộc. Không đền thờ vật chất nào được diễm phúc như thế.

Đền thờ nầy rất linh thiêng vì được Chúa Giê-su hiến thánh bằng Bí tích Thánh tẩy, được nên một với Chúa Giê-su nhờ Bí tích Thánh thể…

Và mai đây, ngôi đền thờ nầy sẽ được đưa lên cõi thiên đàng vinh hiển, trong khi những đền thờ bằng vật chất nguy nga đồ sộ và nổi tiếng trên mặt đất nầy, cho dù được xây bằng đá quý, dù được nạm ngọc dát vàng… sẽ tàn lụi với thời gian.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho chúng con biết quý trọng thân xác chúng con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có Ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.

Xin cho chúng con biết thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.

Xin cho con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.

Và nhất là xin cho chúng con hằng đến gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong đền thờ tâm hồn chúng con.

 

45.Đền thờ cao quý nhất – Lm Ignatio Trần Ngà.

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Một hôm, đang lúc đùa vui với các thiên thần, Thiên Chúa ra cho họ câu đố vui có thưởng. Ngài nói: "Ta muốn chơi trò chơi cút bắt với loài người. Các con nghĩ xem đâu là nơi ẩn trốn tốt nhất mà con người khó tìm ra Ta được?"

Thế là các thiên thần tranh nhau trả lời. Vị thì nói là Chúa hãy ẩn trốn ở đáy biển khơi, khó tìm lắm! Vị khác lại nói là Chúa hãy ẩn mình trên những đỉnh núi cao, chẳng ai leo tới đó được! Vị thì nói là Chúa hãy ẩn khuất giữa những lớp mây trời, loài người không ai nghĩ tới..." Thế nhưng Chúa chỉ cười và cuối cùng, Ngài nói: "Sai bét hết. Chỗ ẩn nấp tốt nhất Ta có thể chọn để loài người không phát hiện được Ta, đó là ngay trong tâm hồn của họ!" (phỏng theo Cha Anthony de Mello)

Ngày xưa thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả trong những đam mê thế tục... nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: "Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài".

Chúa ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài! Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.

Cũng như thánh Augustinô xưa, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta lại đi tìm Chúa bên ngoài đang khi Chúa vẫn ở trong chúng ta.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta biết có Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chúng ta: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23); lại có cả Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ cũng luôn hiện diện trong ta cùng với Chúa Cha và Chúa Con: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em"

Thế là thân xác hèn mọn của chúng ta đã được nâng lên hàng vương cung thánh đường thiêng liêng cao trọng vì đã được Ba Ngôi Thiên Chúa chọn lựa làm nơi cư ngụ của Ngài.

Đây là ngôi đền thờ thật cao cả, thật quý giá, cao vượt hơn hết mọi đền thờ khác trên thế gian.

Đem đền thờ bản thân người Kitô hữu so sánh với các đền thờ nổi tiếng do bàn tay con người xây dựng ngót hai ngàn năm qua, thì những đền thờ vật chất kia triệu lần thua kém.

Đền thờ nầy rất cao cả vì đây là đền thờ sống, được chính Thiên Chúa thiết kế và thi công, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài; còn những đền thờ kia chỉ là gạch đá vô tri.

Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giêsu đổ máu ra mà cứu chuộc. Không đền thờ vật chất nào được diễm phúc như thế.

Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giêsu hiến thánh bằng bí tích rửa tội, được Chúa Thánh Thần xức dầu qua bí tích thêm sức...

Và mai đây, ngôi đền thờ nầy sẽ được đưa lên cõi thiên đàng vinh hiển, trong khi những đền thờ bằng vật chất nguy nga đồ sộ và nổi tiếng trên mặt đất nầy, cho dù được xây bằng đá quý, được nạm bằng vàng ngọc kim cương sẽ tàn lụi với thời gian.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con biết quý trọng thân xác con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có Ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.

Xin cho con biết thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.

Xin cho con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.

Và nhất là xin cho con hằng biết đến gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong ngôi đền thờ là chính bản thân con. Amen.

 

46.Bình an

"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy".

Bạo lực nói chung vốn là một điều bất hợp pháp song nó vẫn tồn tại trong xã hội của con người. Bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em vẫn còn đang làm nhức nhối lương tâm của những người có trách nhiệm. Trong khi chưa ai tìm được cách gì để giải quyết triệt để những vấn nạn đó thì hôm nay lại nỗi lên một thứ bạo lực mới - bạo lực trong học đường. Một thế hệ tương lai đang bị đe doạ trước những làn sóng bạo hành. Bây giờ, nhiều phụ huynh không còn biết phải gửi con đi học nơi đâu vì môi trường học đường không còn là nơi trong lành nữa. Ngay cả thầy cố giáo mà cũng nôm nốp lo sợ. Bởi dạy giỗ lơ mơ thì cũng bị ăn đòn bởi chính học trò của mình.

Thế giới ngày càng văn minh. Con người càng ngày càng hưởng được nhiều những ích lợi của những công trình khoa học. Thế nhưng, xem chừng con người lại càng khốn đốn hơn trong chính thế giới văn minh, tiện nghi của mình. Thế giới ngày càng bất ổn. Chiến tranh tuy được dàn xếp một cách cẩn thận nhưng đau thương vẫn diễn ra hàng ngày với tính chất khốc liệt không thua gì chiến tranh. Đó là hậu quả của những cuộc khủng bố, tranh chấp, biểu tình, thiếu lương thực, và của cả một môi trường tự nhiên bị tàn phá. Chính con người đang gây ra những đau thương cho chính đồng loại của mình. Bình an xem ra là một xa xỉ cho nhiều dân tộc và quốc gia. Mà nguyên nhân sâu xa của vấn nạn này là chính do con người với lối sống ích kỷ, hưởng thụ mà quên tinh thần chia sẻ và trách nhiệm. Con người chỉ muốn an định, cố thủ cho riêng bản thân mình. Theo quan niệm càng tích trữ càng nhiều thì càng đảm bảo an toàn. Nghĩ thế nên con người đua nhau tranh dành. Và càng tranh dành thì bình an đâu không có mà thấy chỉ thêm nhiều bất ổn mà thôi.

Con người không thể đem lại bình an cho nhau được. Con người chỉ có thể chúc cho nhau bình an mà thôi. Như chuyện con người không thể tạo ra dòng điện mà chỉ góp phần để thu lấy nguồn điện đã có sẵn trong tự nhiên. Bình an được nói ở đây không là chuyện chúng ta thoát ra khỏi những khó khăn, rắc rối, cũng không là một sự nhàn hạ, an thân mặc cho cuộc đời đang biến chuyển, không là sự an toàn của một thiếu nữ trong bốn bức tường của ngôi nhà mình. Nhưng ở đây là bình an đến từ Đức Giêsu - bình an thật. Một sự bình an không có đau khổ, rắc rối nào có thể cướp được. Đây mới là bình an thật mà chúng ta phải tìm kiếm. Nếu như ở trên là một thứ bình an ngoại tại, mong thoát ra khỏi những bất ổn thì ở đây là bình an nội tại cho dù đang sống trong những bất ổn. Đây là sự bình an chỉ có nơi Đức Giêsu - Đấng đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha.

Chúng ta được bình an vì chúng ta chiếm hữu được Thiên Chúa. Thật sự nhận ra sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Việc này đòi hỏi chúng ta phải có niềm tin và mắt "thịt" này không thể nhìn thấy được. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận sự bình an bên ngoài nhưng chúng ta trước hết phải tìm cái bình an nội tâm. Để từ nền tảng này ta thánh hoá những hoàn cảnh bên ngoài mà có được bình an ngoại tại nữa.

Càng ngày con người càng cảmt hấy bất an. Vì con người không đón nhận được bình an của Chúa. Con người đã loại trừ Thiên Chúa. Con người nghĩ rằng tự bản thân mình có thể tạo dựng được sự an định lâu dài nhờ những khả năng và thành tựu đạt được. Con người đã quên đi cái bình an nền tảng. Bao lâu con người chưa nhận ra được sự hiện hữu của Thiên Chúa thì bấy lâu con người chưa có bình an đích thực. Và hơn thế nữa, chúng ta không chỉ được mời gọi hưởng bình an của Chúa mà chúng ta còn được kêu gọi cộng tác kiến tạo bình an và đem bình an cho người khác.

 

47.Phúc cho ai biết xây dựng hoà bình

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos Tạ Duy Tuyền)

Con người từ tạo thiên lập địa luôn mang hoài bão xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng. Một thế giới không còn khổ đau, không còn đói nghèo. Người người biết lấy tình yêu để xoá bỏ những nghi kỵ, hiểu lầm, và biết nắm lấy tay nhau để dìu nhau đi tới. Đó là ước mơ thật chính đáng. Thế mà, đã bao nghìn năm vẫn mãi mong chờ trong vô vọng. Ngược dòng lịch sử, người ta chỉ thấy những dấu ấn thời gian đã qua là những đau thương, mất mát. Đói khổ và hận thù đã làm cho quá khứ đượm mầu tang chế, chia ly. Thế giới có mấy khi bình yên? Con người có mấy khi hạnh phúc? Kiếp người chỉ đong đầy những lo sợ và bất an!

Với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, người ta tưởng rằng: khi con người thoát ra khỏi lối sống hoang dã lạc hậu, sẽ làm cho thế giới an bình và lành mạnh hơn. Thế nhưng, nói theo kiểu Nguyễn Du "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Chiến tranh Trung Đông vẫn kéo dài. Chiến tranh vì quyền lực vẫn sôi bỏng hằng ngày, hằng giờ. Khủng bố, bạo loạn vẫn lan tràn khiến hàng ngàn người phải chết oan uổng, đã đẩy hàng triệu người sống trong cảnh đói khổ bần cùng. Xem ra sự văn minh đã làm cho con người vong thân đôi khi đánh mất tính người. Mới đây, cả nước đều xôn xao vì tài xế xe container đã cán đi cán lại trên một thân xác cô bé 17 tuổi đến 3 lần. Một cô giáo mần non tại Hà Nội, chỉ vì bị giáng chức đã bỏ thuốc diệt chuột vào đồ ăn để đầu độc học sinh khiến cho hơn 20 học sinh phải nhập viện cấp cứu. Mỗi ngày khi khám xét các nơi nhạy cảm như vũ trường, quán Karaoke, các tiệm hớt tóc...; người ta đã bắt được biết bao cậu ấm, cô chiêu đã bỏ trường bỏ lớp để tìm niềm vui điên loạn trong ma tuý và mại dâm. Cuộc sống vẫn nhan nhản những lừa đảo, tham ô. Vì đồng tiền bát gạo người ta vẫn chà đạp lên nhau và làm hại lẫn nhau.

Nhìn vào những gì đang diễn ra cho chúng ta thấy, dường như thế giới chỉ có hai loại người. Một loại chỉ lo đối phó với chiến tranh, với đói nghèo. Một loại chỉ lo ăn chơi, thác loạn. Kẻ không có tiền thì lo có tiền bằng muôn nghìn cách, kể cả bằng thủ đoạn gian dối, lừa bịp, bằng chiến tranh, bạo động. Kẻ có tiền lại tìm thoả mãn cho nhu cầu hưởng thụ bằng ăn chơi sa đoạ mà người ta gọi là thư giản giải trí. Có mấy ai đang toàn tâm toàn lực để xây dựng thế giới an bình và thịnh vượng? Có lẽ có, những một vài cánh én chưa đủ mang lại mùa xuân nên thế giới vẫn đầy bất an và sầu khổ!

Hôm nay Chúa Giêsu đề nghị một phương án xây dựng an bình và thịnh vượng. Phương án này khởi đi từ chính bản thân từng người. Từng người phải biết sống trong sự hoà hợp với Thiên Chúa. "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy" để biết sống theo gương Thầy luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Từng người phải biết nói không với sự xấu. Từng người phải biết nghe theo tiếng nói sự thật. Sống theo sự thật sẽ giúp cho con người có một tâm hồn an bình. Nói không với sự xấu sẽ giúp cho con người sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Và sống trong sự kết hợp với Thiên Chúa, con người sẽ sống hoà hợp với nhau, vì tất cả đều là anh em cùng một cha trên trời.

Thực vậy, nhiều người dám làm những chuyện đồi bại, hãm hãi lẫn nhau, sống gian dối lừa đảo, vì họ không còn tin có sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ không tin có Thiên Chúa nên họ không tin có sự thưởng phạt đời sau. Họ không tin có Thiên Chúa nên không còn nghe được tiếng nói của sự thật, tiếng nói của lương tâm ngay lành. Điều đó đã dẫn tới một đời sống tham lam, lừa đảo. Một đời sống tha hoá đến vô nhân đạo. Họ sẵn sàng chà đạp đồng loại để tìm vinh quang cho bản thân. Họ sẵn sàng lợi dụng đồng loại để kiếm tiến bằng những chuyện phi nhân, thất đức. Thế nhưng, cuộc đời họ cũng không có an bình và hạnh phúc. Họ đi tìm an bình và hạnh phúc trong những của cải thế gian, nhưng thế gian và ma qủy không bao giờ làm cho họ thoả mãn. Họ sẽ không có một đời sống an bình nếu không đi theo chân lý và sự thật.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đường, là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính. Xin dẵn dắt chúng ta sống theo sự thật và đi đến sự sống trường sinh. Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ luôn gìn giữ hồn xác chúng ta khỏi mọi sự dữ và luôn nhắc nhở chúng ta sống theo chân lý và sự thật. Amen.

 

48.Cuộc sống mới – Lm. Nguyễn Hữu Thy

Chu kỳ phụng vụ Mùa Phục Sinh sắp chấm dứt. Hàng năm nó đã mang lại cho tất cả chúng ta những suy niệm khẩn thiết về đức tin vào Ðức Giêsu và về tình yêu của Người, một tình yêu đã biểu lộ tính chất nhân bản qua cái chết của Người, nhưng đồng thời cũng bộc lộ uy quyền của Thiên Chúa qua cuộc Phục Sinh khải hoàn của Người! Từ những suy niệm đó, cuộc sống của chúng ta một khi đã được gắn liền với Ðức Giêsu, thì luôn phải đạt tới cứu cánh của nó.

Thứ nhất: “Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy.... Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời các con nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Ðấng đã sai Thầy!” Ðó là điều đầu tiên trong chương trình hành động của một cuộc sống được gắn liền với Ðức Giêsu!

Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là thâm tín rằng Thiên Chúa đã ban bố huấn thị của Người qua Ðức Giêsu; điều đó muốn nói rằng chúng ta không xếp đặt vũ trụ và cuộc sống theo sở thích, theo kế hoạch, theo mơ ước hay theo sự sợ hãi của mình; bởi vì Thiên Chúa đã thiết đặt một chuẩn độ rõ ràng trong Ðức Giêsu!

Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là nhất thiết phải thực sự nhận biết huấn thị đó của Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều đó không ý nói là nhất thiết phải đi rao truyền mọi lời của Người khắp nơi, nhưng là phải nhận thức được mục đích nền tảng của lời Người nói và của hành động Người làm qua việc lắng nghe Tin Mừng, tức: Tin nhận và yêu mến Thiên Chúa! Tiếp đến, chấp nhận và yêu thương người đồng loại; và không chỉ chấp nhận điều đó trên lý thuyết thuần túy mà thôi, nhưng phải hiện thực chúng một cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, đối với Thiên Chúa và tha nhân, và trung thành thực hiện cho đến cùng!

Thứ hai: “Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi lời Thầy đã nói với các con!” Ðó là điều thứ hai trong chương trình của Thiên Chúa: Biết đón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu!

Ðón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu có nghĩa là phải nhất thiết sống theo tinh thần các giáo huấn của Người. Nói cách khác, Thánh Thần ngự đến không chỉ để trợ giúp chúng ta chiếm giữ được tinh thần các giáo huấn của Ðức Giêsu như chuẩn độ đúng đắn, nhưng còn là sức mạnh đỡ nâng chúng ta thực thi các giáo huấn đó trong cuộc sống cụ thể. Vậy, chúng ta hãy để cho sức mạnh đó được tự do hoạt động trong cuộc sống của mình, và điều đó không có nghĩa gì hơn là chúng ta phải luyện tập cho mình tinh thần yêu thương, sự hy sinh xã kỷ của Ðức Giêsu; luyện tập biết chấp nhận kẻ khác, chứ không phải tìm mọi cách tự khẳng định chính mình; luyện tập biết cho đi, chứ không phải tìm cách chiếm đoạt mọi sự cho chính mình; luyện tập biết can đảm và trung thành với tinh thần xã kỷ đó, cả khi bị hiểu lầm, bị thiệt thòi về danh dự hay nguy hiểm đến tính mạng.

Thứ ba: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy. Thầy ban cho các con sự bình an, không theo kiểu thế gian ban. Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!" Ðó là điều thứ ba của chương trình, là: Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong tâm hồn!

Nhưng có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là hội được đủ điều kiện để có thể sống thực sự đúng với nhân vị của mình mà Thiên Chúa đã ban cho. Ðó không phải là sự bình an mà thế gian có thể cho được; đó không phải là một sự hoan lạc ích kỷ, khiến cho chúng ta không còn nhìn thấy được những cơ cực thiếu thốn của đồng loại; đó không phải là một sự giải hòa có thể mặc cả được, tức tìm một sự quân bình khả dĩ cho sự bất hòa. Sự bình an của Ðức Giêsu là sự an ninh chắc chắn, được phát xuất từ sự ý thức sâu xa: "Phải làm lành lánh dữ", kể cả khi chúng ta phải hy sinh tính mạng, vì thâm tín được rằng, Thiên Chúa sẽ đền bù lại cho chúng ta gấp trăm sự mất mát!

Có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là có điều kiện để từ sự anh ninh đó, kiến tạo sự bình an thực sự. Bởi vì chỉ có sự ý thức chắc chắn được rằng người ta phải sống công chính trước mặt Thiên Chúa, thì mới có can đảm để chấp nhận tất cả; thì người ta mới thông cảm hiểu biết nhau và mới loại bỏ mọi căng thẳng và va chạm, phát xuất bởi những tư duy ích kỷ và thiển cận, chỉ muốn bảo vệ quan điểm và ước vọng của mình trước đồng loại, cũng như chỉ muốn bảo đảm sự sống còn của mình!

Những lời Chúa phán cùng chúng ta hôm nay là sự hướng dẫn cho một cuộc sống theo gương Ðức Giêsu. Ðó là một chương trình sống tuyệt hảo, dẫn chúng ta đạt tới sự sống chân thật và hạnh phúc vĩnh cửu! Ðó là:

Giữ lời Ðức Giêsu.

Tiếp nhận Thánh Thần Ðức Giêsu.

Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong mình.

Thật là cả một sự khác biệt to lớn với những chương trình thuần túy nhân loại, mà trong đó chúng ta chỉ nhắm tới những lợi lộc ích kỷ tư riêng của mình!

Chương trình của Thiên Chúa, là: Trong Ðức Giêsu, chúng ta có thể đạt tới một cuộc sống hạnh phúc chân thật. Chương trình đó có thể đổi mới vũ trụ. Chắc hẳn tất cả chúng ta đều nhất trí với chương trình đó?

 

49.Ân huệ Chúa không quan niệm được.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Đoạn Phúc Âm của thánh Gioan đặt chúng ta vào vị trí vượt khỏi tất cả những quan niệm loài người về Thiên Chúa. Lý trí con người chỉ có thể quan niệm về Thiên Chúa theo hai cách. Hoặc Thiên Chúa là vị thần vô định biểu lộ thần uy trong những sức mạnh vật chất như bão táp, mặt trời, v.v… và con người bày đặt ra nhiều cách thờ phụng. Hoặc quan niệm Thiên Chúa là Thưỡng đế vượt trên mọi hiểu biết mà loài người có được, là Đấng Tối Cao của những nhà hiền triết, quá cao siêu, quá huyền bí, con người vĩnh viễn không thể lý hội được. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là AI. Chúa nói với chúng ta những điều trí không loài người không bao giờ có thể nghĩ tới. Thiên Chúa là sự Tuyệt đối, nhưng Người là Cha, Người can thiệp nhiều nhất như một sự hiện diện thân thiết và hay thương. Kẻ nào yêu mến Đức Giêsu Kitô, Đấng mạc khải vềtch, nếu kẻ ấy giữ lời, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tuân giữ những điều Chúa dạy, kẻ ấy trở nên ngai toà Chúa ngự. Thiên Chúa đến với kẻ ấy, đối với kẻ ấy Thiên Chúa từ nay không chỉ là một quyền năng vô biên sáng tạo, Thiên Chúa phát động tình yêu tương giao giữa Người và kẻ ấy. Thiên Chúa đến với con người, nghĩa là Thiên Chúa thức tỉnh lương tri con người về hai điều. Thiên Chúa nói: “Con người kia, ngươi có một bản ngã, Ta là Thiên Chúa, có bản ngã riêng biệt, một Thiên Chúa có Ba Ngôi vị: Cha, Con và Thánh Thần. Giữa ngươi là một con người và Ta là Thiên Chúa, có một sự trao đổi sống động về hiểu biết và ân huệ, tức là có sự trao đổi tình yêu”. Điều ấy phải được Đức Giêsu Kitô mạc khải, chẳng có trí khôn nào của nhân loại ý niệm được.

Để chấp nhận một mạc khải trọng đại như vậy, một điều dạy dỗ từ ngoại giới có đủ không? Chúng ta thấy ngay rằng không đủ. Đức Giêsu nói với các tông đồ: Ta nói với các ngươi lúc còn lưu lại giữa các ngươi, nhưng Thánh Thần sẽ dạy các ngươi mọi sự… Các tông đồ chung sống với Đức Giêsu nhiều năm tháng. Các ông thừa thì giờ để thấm đượm giáo huấn khi nghe Người giảng dạy và quan sát cách cư xử của Người. Các ông có được một sự hiểu biết do tri thức, ở tầm các ông, nhưng sự hiểu biết do hành vi tin thì chưa có. Thật ra, điều sau đây có thể đối với chúng ta là không ngờ được: trong bữa Tiệc Ly các tông đồ chưa có được niềm tin đích thật vào Đức Giêsu. Muốn cho các ông có được hành vi tin ấy, thì phải có biến cố Phục Sinh, phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Chúng ta tự chất vấn:

1) Sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa là gì? Nếu ngày nay chúng ta không dễ theo cám dỗ thờ thần tượng, có thể dễ ngà vào một thứ chủ nghĩa tri thức thúc giục chúng ta đại khái xếp Thiên Chúa vào một ý thức hệ thuộc trật tự triết lý, chính trị, xã hội, v.v… hoặc đơn giản thuộc trật tự thực tiễn giữa những tiện nghi phàm tục của chúng ta. Chúng ta có tìm biết Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô mạc khải cho chúng ta, một Thượng đế thân thiết ở giữa cuộc đời chúng ta không?

2) Chúng ta có chú ý đến Chúa Thánh Thần không? Năng đọc năng nghe Phúc Âm không đủ giúp chúng ta biết Đức Giêsu Kitô. Chúng ta phải chú ý trong thâm tâm, một cách ngay thẳng, để nhận lấy giáo huấn của Ngôi Ba Thiên Chúa. Một phương thế tốt để làm công việc đó là khi gặp một đoạn Phúc Âm cho chúng ta thấy một chân lý, chúng ta hãy cố gắng ứng dụng tức khắc. Hành động này cũng phải kể là sự thành thật ngay thẳng trong tình yêu.

 

50.Bình an của Chúa

(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 23-29) nằm trong bối cảnh của nỗi bất an, lo sợ. Đây là thời gian diễn ra bữa tiệc biệt ly của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người. Chúa Giêsu chuẩn bị bước vào cuộc tử nạn. Chúa cũng đã nhìn thấy sự hoang mang, dao động hiện trên khuôn mặt của những người theo Chúa. Giữa lúc sợ hãi và u sầu bao trùm tâm tư mọi người hiện diện, thì lời an ủi của Chúa lại là lời chúc bình an: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi".

"Bình an của Thầy" ư? Bình an của Thầy là bình an như thế nào? Sao lại "không như thế gian ban tặng"? Đã gọi là bình an sao còn phân biệt "của Thầy", "của thế gian"? Thốt lên lời trao ban bình an giữa lúc bất an nhất, xáo trộn nhất, hình như lời Chúa Giêsu trở thành lời không thích hợp trong lúc ấy?

Trước khi tiếp tục suy nghĩ, chúng ta cần khẳng định dứt khoát rằng, Lời Chúa là Lời chân lý. Vì thế, bình an mà Người trao ban là chính bình an của Đấng Cứu Độ ban tặng người trần thế.

Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến bình an, chúng ta hay nghĩ, đó là cuộc sống thoải mái, không đụng chạm rắc rối hay đối đầu với đau khổ. Bình an mà Chúa muốn nói không như thế. Đúng hơn, đó là bình an mà thế gian phải tìm tòi. Thực tế, bình an của thế gian thường là thứ bình an do tránh né đương đầu với khó khăn, do chạy trốn những bất ổn mua lấy sự yên thân hơn là tạo được một tâm hồn bình an. Bình an đó không bền vững, nhưng chóng vánh. Chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta. Bình an mà Chúa ban cho chúng ta là bình an chiến thắng của nội tâm con người. Nó là kết quả của bao nhiêu cam go, dằn vặt, chấp nhận, và chịu đựng mới có thể có được. Một khi đã có được tâm hồn bình an, không có bất cứ một hoàn cảnh nào của cuộc sống trần thế có thể cướp mất được. Bình an của tâm hồn hoàn toàn độc lập với mọi hoàn cảnh bên ngoài. Giữa lúc môn đệ rơi vào bi quan nhất, giữa lúc các ông sắp phải đối diện với những mất mát tận cùng, Chúa ban ơn bình an của tâm hồn để các ông đủ can đảm mà chiến thắng. Ơn bình an này cần thiết biết bao nhiêu cho đoàn môn đệ của Chúa. "Bình an của Thầy" là như thế. Bình an ấy không thể nào thế gian có thể có được để mà ban tặng.

Chính cái chết thập giá của Chúa nói lên tất cả ý nghĩa nội tâm của một tâm hồn bình an. Cái chết ấy bày ra trước mắt ta một nghịch lý thật lớn: Bởi nhìn bên ngoài, Chúa bị hành hạ, bị đánh đập, bị lột trần, bị đóng đinh, bị sỉ nhục cách tàn bạo và cái chết đang treo trước mắt..., làm sao một con người như thế lại có bình an? Còn những kẻ hả hê, những kẻ chủ mưu của tội ác giết người, những kẻ xem ra chiến thắng vì đã hoàn tất cuộc loại trừ dành cho Giêsu, chắc chắn phải là những kẻ cảm thấy bình an hơn ai hết? Bởi loại trừ được Giêsu, là loại trừ thành công một con người đã làm cho họ mất ăn, mất ngủ bao nhiêu năm tháng. Loại trừ Giêsu là loại trừ thành công một con người đã lấy mất ảnh hưởng của họ nơi dân chúng vì phép lạ, vì giáo lý, vì lời giảng dạy, vì lối sống... của Người.

Nhưng đó là cái nhìn bên ngoài. Suy niệm thật thấu đáo về cái chết của Chúa Giêsu, ta thấy hoàn toàn ngược lại. Chính kẻ tấn công Chúa mới không một chút bình an. Họ liên tục sợ dân chúng gây áp lực, gây khó dễ, vì họ giết một người mà toàn dân mến mộ. Họ phải nhiều lần nặn đầu óc để tìm kế sách gài bẫy, sát hại Chúa Giêsu. Đến khi họ trút tất cả nỗi căm thù lên bàn tay vấy máu của mình để hoàn tất cuộc sát hại rồi, họ vẫn cứ hoang mang vì đã giết chết một người vô tội. Họ càng hoang mang vì đã giết chết Đấng đã từng xưng mình là Con Thiên Chúa. Nhiều người trong họ đã phải buộc miệng thốt lên: "Người này thật là Con Thiên Chúa".

Còn Chúa Giêsu, dù bị giết chết ô nhục, vẫn là người chan chứa bình an trong tâm hồn. Bình an của Chúa là bình an của Đấng đã hoàn thành thánh ý Chúa Cha. Chúa đã chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự dữ và trao ban ơn cứu độ cho trần gian. Chúa biết rõ, Chúa chết vì ai, chết cho ai, ích lợi do cái chết của Người mang lại cho trần thế lớn như thế nào. Chúa biết rõ, cái chết của Chúa không vô nghĩa. Cái chết ấy sẽ là cái chết làm vang lên tiếng yêu thương trên khắp trần thế qua mọi thế hệ. Tâm hồn Chúa bình an cho đến độ, trên thập giá đớn đau, giữa đám đông hầm hầm sát khí, Chúa vẫn cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Chúa thanh thản trối phú thánh Gioan cho Đức Mẹ, bình tĩnh trao linh hồn trong tay Chúa Cha và nhẹ nhàn nói lời hoàn tất rồi trút hơi thở trong bình an sâu lắng. Bình an trong nội tâm của Chúa Giêsu là bình an của sự tự nguyện hiến dâng mạng sống mình: "Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta" (Ga 10, 18).

Chính Chúa là nguồn bình an. Vì thế, Người cũng là Đấng ban phát bình an. Chúa biết các môn đệ yếu đuối, mỏng dòn. Chúa biết các môn đệ sẽ vấp ngã vì Chúa. Chúa biết các ông cần bình an của Chúa. Trong giờ phút thử thách nhất của các môn đệ, Chúa ban bình an của Chúa cho các ông, giúp các ông vững vàng mạnh mẽ mà vượt qua. Lãnh lấy bình an của Chúa, các môn đệ dần dà củng cố đời sống của mình. Nhất là sau khi Chúa về trời, các ông đã can đảm thật sự, trưởng thành thật sự. Các ông bất chấp mọi bắt bớ, mọi thù hận và giết chóc. Các ông lao mình về phía trước, để nên giống Chúa Giêsu, các ông trở thành nguồn bình an và trao ban bình an tâm hồn cho con người trên khắp thế giới.

Chúng ta cũng hãy tiếp nối bước chân các tông đồ, lãnh nhận bình an của Chúa, để tâm hồn mãi mãi thuộc về Chúa. Khi đã có một tâm hồn bình an, chúng ta cũng sẽ trở thành nguồn bình an cho muôn người như Chúa và như các tông đồ.

 

51.Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh

Tin Mừng Ga 14: 23-29: Bình của Chúa ban không là kho báu để cất giữ, để hưởng dùng một mình, nhưng là phương thế để phục vụ và mang lại bình an cho người khác.

SUY NIỆM

Hàng tuần chúng ta vẫn xin lễ cầu bình an, bởi điều chúng ta hằng mong ước luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, trong gia đình, trong môi trường mình sống chính là sự bình an. Bình an chúng ta ước mong chắc chắn không mua sắm được bằng tiền bạc, bởi vì “tiền bạc có thể tạo lập món ăn ngon, nhưng không mua được sự ngon miệng; tiền bạc có thể tạo dựng được phòng ngủ sang trọng, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; tiền bạc có thể xây được căn nhà lộng lẫy, nhưng chưa chắc đã tạo được mái ấm hạnh phúc”.

Quả thật, trong cuộc sống, người ta đối diện với bao bất an do đồng tiền gây ra, bởi đồng tiền là nguyên nhân tạo ra sự sự ghen ghét, sa đọa, tham lam cội nguồn của bất an. Bao nhiêu là câu chuyện nói về sự bất an trong các gia đình khi có nhiều tiền lắm bạc. Chẳng hạn cặp vợ chồng Lara và Roger Griffiths: Vợ chồng nhà Griffiths chung sống rất hòa thuận cho đến khi họ trúng giải thưởng sổ xố trị giá 2,76 triệu USD vào năm 2005. Năm năm sau khi trúng giải, căn nhà triệu đô mua được từ tiền sổ xố bỗng dưng bốc cháy, thiêu trụi toàn bộ tài sản. Cuộc hôn nhân 14 năm giữa hai người cũng chấm dứt, sau khi Lara buộc tội Roger ngoại tình với người phụ nữ khác. Cứ ngỡ tiền sẽ mua được sự bằng yên cho cuộc sống, cô Ibi Roncaioli: Chủ nhân giải thưởng loto trị giá 5 triệu USD vào năm 1991 bị đầu độc bởi chính người chồng của mình bằng thuốc giảm đau khi anh phát hiện Ibi bí mật trợ cấp 2 triệu USD cho đứa con với người đàn ông khác. Vâng, tiền bạc luôn là một thách đố lớn lao cho sự an toàn của cuộc sống, cô Vivian Nicholson từng được coi là người phụ nữ may mắn nhất nhì nước Anh khi thắng 152 nghìn Bảng Anh nhờ cá độ bóng đá vào năm 1961, nhưng vài năm sau đó, cô đã rơi vào cảnh không xu dính túi vì đổ quá nhiều tiền vào sắm quần áo. Ngoài ra, hôn nhân của Vivian cũng không mấy suôn sẻ. Cô kết hôn đến 5 lần nhưng vẫn không thực sự hạnh phúc. Năm 2011, Vivan qua đời bởi nghiện chất cồn và áp lực tâm lý. Đức Phanxicô đã nói: Khi một người sống bám víu vào tiền của, niềm kiêu hãnh hay quyền lực, người ấy không thể có hạnh phúc và bình an thật”.

Vậy ở đâu có sự bình an? Xin thưa, bình an đích thận chỉ đến từ tình yêu dành cho Chúa. Quả thật người ta chỉ có thể kín múc sự bình an từ nơi Chúa Giêsu, bởi ở nơi Người không có tham sân si, nơi Người chỉ có một tình yêu thanh khiết, Người ở giữa mọi người như ngừoi mục tử nhân lành ở giữa đàn chiên, Người không sống cho mình, nhưng cho đàn chiên. Vì thế, ở nơi Người chúng ta tìm thấy một tâm hồn thanh thản bình an, nơi Người không có sự hỗn loạn bôn chen, không bị phiền nhiễu bởi danh lợi thú. Ma quỉ đã phải bỏ cuộc trước sự thuần khiết tâm hồn của Chúa Giêsu khi nó cố gắng lôi kéo Người đi vào cuộc chơi mà nó đề nghị, một cuộc chơi mà trong đó giá trị vật chất luôn được đề cao, và luôn thúc đẩy người chơi khao khát quyền lực và sự giàu sang. Ma quỉ hiểu rằng, những ai bước vào cuộc chơi mà nó đề xướng thì sẽ chẳng bao giờ có được sự bình an, bởi tâm của họ chẳng bao giờ có được sự điềm tĩnh và thanh thản, và như thế những người tham dự cuộc chơi do Satan đề xướng, đều trở thành đầy tớ cho nó, bởi nó là chủ nhân của sự hận thù, ghanh ghét, chia rẽ và bất an.

Caryn, một sinh viên ở Virgina, chia sẻ con đường cô tìm được bình an như sau: "Tôi nghĩ mình là một Kitô hữu bởi vì tôi đi đến nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật, nhưng tôi không biết Chúa là ai. Năm cuối trung học của tôi cũng trôi qua giống như ba năm trước đây. Tôi giành hầu hết thời gian của mình vào chuyện nhậu nhẹt, thăng tiến hay cố tìm cách để làm cho ai đó yêu mình. Tâm tôi chết dần chết mòn và tôi không thể kiểm soát được cuộc sống của mình nữa. Khi tôi nhận ra tôi muốn kết liễu cuộc đời của mình nhiều thể nào thì cũng là lúc tôi biết rằng tôi phải tìm cho mình một niềm hy vọng nào đó sau khi ra trường. Thế rồi, tôi đến xin Chúa bước vào đời sống của tôi. Ngài đã cho tôi thấy tình yêu thương, sự yên ninh, sự tha thứ, sự nâng đỡ, niềm an ủi, sự chấp nhận và mục đích sống. Chúa là sức mạnh của tôi, và tôi đã tìm thấy được sự bình an. Hôm nay, nếu không có Người, thì có lẽ tôi sẽ không thể có mặt ở đây.”

Do đó. để tìm thấy sự bình an trong cuộc sống không có cách thế nào khác ngoài việc đến cùng Giêsu và học nơi Người, như Người đã mời gọi: hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29). Sự hiền lành và khiêm nhường của Giêsu là phương thế tuyệt hảo để kiến tạo một cuộc sống bao dung, loại trừ tính ích kỷ, cao ngạo, kiêu căng và tự phụ, là những nguyên cớ gây ra bao nhiêu là bất hòa, tranh chấp, hận thù. Được bình an trong cuộc sống là mong ước của muôn người, chính Chúa Giêsu khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: ”Khi vào bất kỳ nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu tại đó có một người con của hòa bình, thì bình an của các con sẽ xuống trên người ấy, nếu không an bình ấy sẽ trở lại trên các con” (Lc 10,5-6). Và trang Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu hiện đến với các Tông đồ sau khi Người sống lại, Người đến không mang theo vàng bạc châu báu, nhưng mang bình an, và Người để lại bình an đó lại cho các Tông đồ như là hành trang lên đường đi loan báo Tin Mừng, vì Chúa biết chỉ có sự bình an của Chúa các Tông đồ mới có thể chu toàn sứ vụ được giao. Vâng, Chúa để lại bình an của Người cho các Tông đồ như là sản nghiệp để các ông trang trải cho hành trình loan báo Tin Mừng.

Bình của Chúa ban không là kho báu để cất giữ, để hưởng dùng một mình, nhưng là phương thế để phục vụ và mang lại bình an cho người khác. Vâng, bình an của Chúa để lại cho các Tông đồ được đúc nén bởi một tình yêu khôn tả, một tình yêu đã thúc đẩy Người bước lên đỉnh đồi Calvê và hiến dâng cuộc sống qua cái chết trên Thập giá để trở thành hiến lễ tình yêu, nhờ đó mà nhân loại được cứu sống. Tình yêu hiến dâng là phương thế các Tông đồ xử dụng để thi hành sứ vụ loan báo, để qua tình yêu này các Tông đồ làm chứng về một yêu trọng đại hơn: Đức Giêsu Kitô, và nhờ đó các Tông đồ đã hình thành được các cộng đoàn cứu độ được gọi là cộng đoàn đức tin và đức mến. Các Tông đồ đã thực hiện sứ mệnh cách chỉnh chu không ai có thể chê trách vào đâu được với hai bàn tay trắng không tiền bạc, không của cải, chỉ có gia sản duy nhất: sự bình an của Chúa Kitô.

Là người Kitô hữu, từng người chúng ta phải làm sao chiếm hữu được sự bình an mà Chúa Kitô ban tặng, làm sao chiếm hữu được điều đó nếu chúng ta không để Chúa Kitô ngự trị trong ta, bởi ngoài Chúa Kitô làm sao chúng ta có được bình an thật. Cách thế để chiếm hữu được Chúa chính là giữ lời Chúa, hay nói cách khác là thực thi điều Chúa dạy: yêu như Chúa yêu. Vâng, chỉ có yêu thương mới là con đường để Chúa bước tới với chúng ta, và chỉ có yêu như Chúa yêu mới có thể mang về cho chúng ta kho tàng của sự bình an đích thật, một sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Chính sự bình an này mang lại cho chúng ta nguồn hạnh phúc vô biên, nguồn hạnh púc có được xuất phát từ sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Đức thánh cha Benêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã chỉ cho chúng ta cách thế để đạt tới bình an đích thật: “Trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người là bạn của tôi. Vượt qua dáng vẻ bên ngoài, tôi thấy được nơi tha nhân sự chờ đợi một cử chỉ yêu thương, một cử chỉ quan tâm mà tôi cho họ, (số 18)

Lạy Chúa, thật là vô phúc cho chúng con nếu chúng con không có sự bình an mà Chúa đã tặng ban cho các môn đệ Chúa, bởi chúng con, qua bí tích rửa tội, được trở thành con cái của Chúa, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, cho nên chúng con xứng đáng được hưởng sự bình an đó. Điều đó cũng có nghĩa, chúng con phải làm sao xứng đáng với hồng ân đã lãnh nhận, tức là chúng con phải là những người tràn đầy ơn nghĩa của Chúa qua việc chúng con tuân giữ lời Chúa cách chỉnh chu, hay nói cách khác chúng con phải thể hiện tình yêu Chúa đúng với danh phận của chúng con, Amen.

 

52.Yêu mến và giữ Luật chỉ là một

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)

Có bao giờ chúng ta nghe hai bạn trẻ nam nữ, yêu nhau mà nói với nhau câu này chưa: “Nếu anh yêu em, anh hãy tuân giữ một số điều luật này nè... 1. đúng hẹn, 2. đi thẳng không ngó ai, 3. không lai rai vượt quá ranh giới, 4. không chơi thuốc lắc…”. Chắc là chưa, mặc dầu hai người vẫn làm như vậy khi thương nhau. Không nói nhưng vẫn làm.

Còn Chúa Giêsu thì nói và dạy rõ ràng: "Nếu ai yêu mến Thầy thì phải giữ lời của Thầy" (Ga 14,23). “Lời” tức là luật, là giới răn. Lời dạy nghe ra không êm tai mấy, bởi vì tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt, tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái ; trong khi đó giới răn, luật lệ lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do. Vậy mà Chúa Giêsu lại ghép việc tuân giữ giới răn vào chuyện yêu thương như một điều kiện không thể thiếu. "Nếu anh em yêu mến Thầy thì phải giữ các giới răn của Thầy." Điều này xem ra không ổn. Nhưng,

1. Yêu và giữ Luật là một. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ ta lại thấy lời dạy của Chúa Giêsu lại hợp tình hợp lý và không có gì là không ổn cả. Có thể nói: yêu mến và việc tuân giữ các lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các điều luật chỉ là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Ví dụ:

- Vâng phục cha mẹ (giữ “luật” cha mẹ đề ra) là cách diễn tả rất tự nhiên của lòng hiếu thảo và yêu mến mà con cái dành cho cha mẹ. Yêu mến là vâng lời.

- Chấp nhận mưa nắng dãi dầu để kiếm cơm cho con cho cái. Chấp nhận gian khổ để chu toàn trách nhiệm trong gia đình… là một tỏ bày tình yêu của những bậc làm cha mẹ dành cho kẻ hậu sinh. Có gì là gò bó, mất tự do đâu. Yêu con là hy sinh, là chịu khổ.

- Rồi hai cô cậu đã lấy nhau, quyết “giữ luật” không ngoại tình, không phản bội… chỉ là một đòi hỏi đương nhiên của tình yêu vợ chồng.

- Và trở về với ví dụ đầu, ta thấy, nếu chàng trai kia yêu nàng con gái nọ, thì họ giữ hàng tá quy luật vẫn chẳng thấy gì là nặng nhọc cả. Đúng hẹn ư ? Anh sẵn sàng. Để tránh kẹt xe, anh sẽ đi sớm.

Khi thương nhau thật sẽ rất đúng giờ. Đến giờ nàng phải về rồi, kẻo cổng đóng, mẹ mong, chàng thương nàng thật, thì “thả” nàng ra, dìu nàng về. “Em chỉ gặp được anh đến 9 giờ tối thôi nghe.” OK ngay. 9 giờ đúng, đụng ngõ nhà em.

Còn cái khoản luật ra đường không ngó ai, thì chàng nếu thương nàng thật sẽ trả lời thật hay: Không ngó đụng xe thì sao, nhưng em yên tâm, anh ngó ai anh cũng chỉ thấy mắt em trong người đó thôi. (có thể đôi mắt mang hình viên đạn nên sợ quá chẳng dám ngó ai) hoặc mượn lời ca của Hoàng thi Thơ trong bài Khi tình yêu đến mà nói rằng: ôi con mắt con mắt ta buồn cười, một người ta thấy thôi. Dù đông người, chỉ mình em anh thấy.

Rồi khi thực sự thương nhau, thì tôn trọng nhau và tôn trọng luật “ranh giới.” Tới đâu thì dừng lại. Đến đâu thì xì tốp. Chàng thì thường muốn vượt ranh. Nàng sợ chàng bỏ, nên gì cũng chiều. Nhưng coi chừng đó chỉ là đường một chiều: chiều lợi dụng chứ không phải đường hai chiều, chiều tình yêu. Yêu là có những luật của nó.

Ngày nay chính tại Mỹ có phong trào mang tên “True Love Waits,” Tình yêu chân thật thì biết chờ đợi. Số là một mục sư Baptist bị shock (sửng sờ) khi 2 em gái 16 tuổi cảm thấy xấu hổ vì mình đã đôi tám rồi mà vẫn còn trắng trinh. Thay vì hãnh diện thì lại mắc cỡ ! Mục sư này lập nên phong trào cổ võ việc giữ gìn kiêng cữ cho tới ngày thành hôn. Phong trào lớn mạnh ngoài mong đợi, nhưng mục sư không ngạc nhiên, bởi mục sư nói: rất nhiều bạn trẻ muốn như thế. Và khi họ muốn như thế và làm như vậy là họ đang ở trong thành phần đa số chứ không phải thiểu số đâu. Hãy hãnh diện vì mình trong sạch: proud to be pure.

Người Việt-Nam chúng ta có tâm trạng thuận lợi hơn để giữ điều đó. Cái đáng giá ngàn vàng đó đáng giá thật chứ không phải xưa rồi Diễm ơi đâu ! Các bạn gái đã có lần nào nghe lập luận này chưa, nó cũng rất thường xảy ra: Cô dễ dãi với tôi thì chắc gì cô không dễ dàng với người khác. Cô chiều tôi chắc gì cô không nhường người khác…

Tình yêu chân thật là có luật lệ của nó. Vì thế yêu nhau và giữ luật lệ của tình yêu không có gì là mâu thuẫn, chỉ là một thôi. Yêu bên trong, diễn tả ra bên ngoài bằng những luật lệ của nó. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.

Có nhiều chàng con trai yêu nàng con gái nào đó thì sẵn sàng giữ luật “cấm hút thuốc” cách rất triệt để dễ dàng. “Trước đây tôi hút thuốc dữ lắm, nhưng khi quen bà ấy, bà ấy không muốn, tôi bỏ ngay !” Yêu là tuân giữ lề luật. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.

2. Yêu giúp dễ giữ Luật. Đề tài của bài giảng hôm nay là tình yêu và lề luật không hề mâu thuẫn, nhưng chỉ là là một dòng chảy của con suối tình yêu. Và chính tình yêu chân chính này giúp sức tăng lực cho mình giữ luật.

Cuốn phim có tựa đề: "Đời Vẫn Đẹp" do Roberto đạo diễn và thủ diễn đã xứng dáng được giải Oscar năm 2000. Cuốn phim diễn lại câu chuyện của một người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ đã bị Đức Quốc Xã đưa vào trại tập trung. Nhờ tài khôi hài và tình yêu thương, ông đã giữ vững tinh thần cho mình và cho đứa con còn nhỏ cho tới khi quân đội Đồng Minh đến giải thoát.

Nhân vật chính là một bác sĩ chuyên gia tâm lý. Trong những năm lưu tù, ông khám phá được một chân lý quan trọng cho cuộc sống của con người. Chân lý đó là trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất của con người, con người vẫn có thể tồn lại, nếu họ có niềm tin và tình yêu.

Bác sĩ đã quan sát những phản ứng khác nhau nơi các bạn tù của ông: Có những người trước khi vào tù được mọi người trọng vọng ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình là những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc cỏn con: như một mẩu bánh, một ngụm nước. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó tuyệt vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày bị bỏ đói. Trái lại, cũng không thiếu những người ít được kẻ khác chú ý đến, lại âm thầm vượt qua, chịu đựng cho đến cùng và còn sống.

Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ cho biết chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy hoả ngục của các trại tập trung đó. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết rồi, nhưng tình yêu đối với vợ đã giúp người bác sĩ này vượt qua tất cả. Ông đã chia sẻ cảm nghiệm đó như sau:

Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, khỏi những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi. Cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng, hay ngưng thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Khi tôi cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi, thì chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho tôi chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn lại cho đến ngày được giải cứu khỏi trại tập trung.

Văn hào St Exupéry của Pháp, trong cuốn “Chuyến bay đêm” (vol de nuit) thuật lại một phi công bay trong bóng tối tại sa mạc, và máy bay rơi xuống bãi cát. Cát êm, không chết. Chỉ bị thương. Phi công bò đi tìm đường về làng xóm. Nhưng trong sa mạc nào biết hướng bò. Mệt lả, đói khát, anh muốn buông xuôi, chết cho rồi. Nhưng anh chợt nghĩ: Nếu ở nhà vợ con tôi, người thân tôi đang chờ đợi giây phút tôi trở về, thì tôi là thằng hèn nếu tôi không cố trỗi dậy và cất bước. Chính tình yêu thúc đẩy ta đi còn mạnh hơn là đồ ăn thức uống, viên tăng lực, loon “bò húc” bò cụng.

Thánh Phaolô diễn tả thật đẹp chính tình yêu chứ không gì khác làm cho chúng ta gắn bó với Đấng ta yêu mến: Rm 8:35-39

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

“Yêu thì giữ luật”“yêu giúp giữ luật” đó là 2 điểm ta rút ra qua bài Tin Mừng hôm nay vậy.

 

home Mục lục Lưu trữ