Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 78

Tổng truy cập: 1364584

ĐOÀN KẾT

Đoàn kết

“Bấy giờ Chúa Giêsu sai các ông đi, cứ từng hai người một”.

Ngày xưa, khi có dịp tiếp xúc với các vị giáo sư ngoại quốc, có lần tôi đã hỏi họ nghĩ gì về các sinh viên Việt Nam? Và họ đã trả lời:

– Nếu xét về phương diện làm việc cá nhân, một sinh viên Việt Nam thường giỏi hơn một sinh viên những nước khác. Thế nhưng, nếu xét về phương diện làm việc tập thể,  một nhóm sinh viên Việt Nam lại thua xa một nhóm sinh viên những nước khác.

Lời nhận xét này đã làm cho tôi suy nghĩ. Sở dĩ như vậy là vì sinh viên Việt Nam thiếu tinh thần cộng tác và đoàn kết với nhau.

Từ đó, chúng ta nhận thấy sự chia rẽ và phân hóa dường như là một căn bệnh đã thấm sậu vào đầu óc của người dân Việt Nam.

Đó cũng là điều dễ hiểu, bởi vì sống dưới những chế độ nô lệ khắc nghiệt, “ một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày”, người ta luôn nghi ngờ, không còn tin tưởng vào nhau và nhiều khi sự giả dối đã trở nên như một vũ khí tự vệ của kẻ yếu trước người mạnh. Phải luồn lách, phải khôn lỏi thì mới được sống còn.

Căn bệnh chia rẽ và thiếu cộng tác này đã xuất hiện trên nhiều lãnh vực.

Trước hết, trên lãnh vực quốc gia. Chúng ta không có được những công trình kiến trúc qui mô đòi hỏi một thời gian xây dựng lâu dài. Chúng ta cũng không có những công trình văn hóa đồ sộ, đòi phải có nhiều người cộng tác để cùng nghiên cứu và biên soạn chẳng hạn như một quyển bách khoa tự điển…Chúng ta có đoàn kết, thì mới chỉ đoàn kết trong chiến tranh, còn một khi hòa bình trở về, chúng ta lại chia rẽ trong việc xây dựng đất nước: nào nam bắc, nào già trẻ, nào bè phái và phe nhóm…

Tiếp đến, trên lãnh vực xã hội. Chúng ta cũng thiếu tin tưởng và cộng tác với nhau. Một công ty, một xí nghiệp mới được thành lập thật tốt đẹp, nhưng rồi chỉ một thời gian sau liền sụp đổ không kèn không trống, chỉ vì người ta đã gian lận, đã chấm mút, đã biển thủ công quỹ..

Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta cũng ghi nhận được những mầm mống chia rẽ và phân hóa. Tôi xin lấy một thí dụ cụ thể là chính giáo xứ của chúng ta. Ôn lại lịch sử  từ khi thành lập cho đến nay, chúng ta phải chua xót mà nhận ra rằng đã có những biến cố không mấy tốt đẹp xảy ra: nào địa phận nọ và địa phận kia, nào vùng này vùng khác…

Sự chia rẽ và phân hóa cũng có mặt trong chính gia đình, một cộng đồng tình yêu vừa nhỏ bé lại vừa lý tưởng nhất, để rồi đã xảy ra những cãi vã, những đánh đập, như tục ngữ đã bảo:

– Chồng giận, vợ giận thì dùi nó quăng.

Từ những sự kiện ấy, chúng ta đi vào chủ đích của Chúa Giêsu khi Ngài sai phái các môn đệ cứ từng hai người một, là để các ông hiệp lực và cộng tác với nhau.

Vậy sự cộng tác sẽ đem lại những hậu quả nào?

Trước hết, đó là sự sáng suốt.

Thực vậy,  có một câu danh ngôn đã bảo:

– Hai cái đầu thì bao giờ cũng hơn một cái đầu.

Cái nhìn của người trong cuộc thường chủ quan và phiến diện, nhưng cái nhìn của người ngoài cuộc sẽ vô tư và khách quan hơn, như tục ngữ cũng đã bảo:

– Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.

Tiếp đến, đó là sức mạnh.

Thực vậy, tục ngữ Việt Nam đã bảo:

– Một cây làm chẳng nên non,

  Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

– Hợp quần gạy sức mạnh.

Tự sức riêng, có nhiều việc chúng ta không thể nào làm nổi vì thiếu phương tiện, thiếu khả năng…Nhưng nếu được nhiều người cộng tác, chắc chắn công việc sẽ tiến triển một cách mau chóng và đem lại những thành quả tốt đẹp, như một câu danh ngôn đã xác quyết:

– Chim có đàn cùng hót, tiếng hót mới hay.

Hơn thế nữa, thân phận của người tông đồ là thân phận của một con chiên giữa bày lang sói, nếu biết cộng tác với nhau, chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn và thử thách. Bẻ một chiếc đũa thì dễ, chứ bẻ cả một bó đũa thì rất khó.

Sau cùng, đó là sự an ủi khích lệ trong những lúc mệt mỏi và chán nản, đồng thời nhờ kinh nghiệm của người khác, chúng ta sẽ dễ dàng tiếp thu những cái hay cái đẹp.

Thực vậy, tục ngữ cũng cho hay:

– Học thày không tày học bạn.

Nhờ tinh thần ganh đua, chúng ta sẽ tiến mau và tiến mạnh, bởi vì:

– Thua trời một vạn, không bằng thua bạn một ly.

Hay như thánh Augustinô cũng đã nói:

– Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?

Ngoài ra, nhờ tình yêu thương trong sự cộng tác chân thành, chúng ta sẽ dễ  đem Chúa đến cho người khác, bởi vì lúc bấy giờ họ sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi mỗi chúng ta.

Và như vậy, chính sự đoàn kết và cộng tác  sẽ là phương tiện đem lại hậu quả tốt cho việc tông  đồ:

– Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.

Hơn bao giờ hết, tình thương và sự cộng tác là điều kiện cần thiết cho người tông đồ hôm nay, bởi vì:

– Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.

 

12. Bình an – Lm. GB. Trần Văn Hào

Quà tặng của các môn đệ Đức Giêsu trong hành trình truyền giáo.

Bình an chính là ân ban của Thần Khí, là quà tặng ý nghĩa nhất mà Đức Giêsu đem đến cho các Tông Đồ trong ngày Phục sinh. Giáo hội hằng ngày vẫn dâng lên Chúa lời cầu nguyện xin ơn bình an mỗi khi cử hành Thánh lễ. Cả ba bài đọc Lời Chúa hôm nay cũng nói về sự bình an, là ân ban Thiên Chúa đem đến cho nhân loại trong thời kỳ thiên sai (bài đọc 1), là món quà mà Thánh Phaolô đã trải nghiệm cùng với Lòng Thương xót Chúa (bài đọc 2), và cũng là hành trang các Tông đồ đem theo trong hành trình truyền giáo (bài Tin mừng).

Ơn Bình an được ban tặng như thế nào?

Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Isaia tiên báo rằng, ơn ‘thái bình’ được tuôn đổ xuống thành đô Giêrusalem tựa dòng sông cả (Is 66,10-14). Vị ngôn sứ phóng tầm nhìn về kỷ nguyên mới, lúc Đức Chúa Giavê thực hiện ơn cứu độ một cách sung mãn. “Này Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, được nâng niu trên đầu gối”. Đây là thời thiên sai, lúc Đức Chúa biểu dương quyền lực và tình thương của Ngài. Trong cái nhìn thần học, ơn bình an này không chỉ khép kín trong ý niệm về một thế giới im tiếng súng, vắng tiếng đạn, nhưng bình an mà Thiên Chúa ban tặng chính là đỉnh cao của ân phúc khi Thiên Chúa ra tay cứu độ dân Ngài. Cũng tương tự như thế, Thánh Phaolô cầu chúc cho cộng đoàn Galát được hưởng sự bình an và lòng thương xót Chúa. Ngài mang kinh nghiệm của chính bản thân để mời gọi cộng đoàn đón nhận ơn bình an này, đó là phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thập giá. “Nhờ Thập giá của Đức Giêsu, thế gian đã bị đóng đinh vào Thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.Vì tôi mang trong mình dấu tích của Đức Giêsu”. Như vậy trong thời kỳ ân điển của Thần Khí, Đức Giêsu đấng bị đóng đinh đã sống lại, sẽ phủ lên thế giới này ngập tràn sự bình an, là quà tặng cao quý nhất mà Thiên Chúa đem đến nhờ Thánh Thần. Thánh Phaolô còn nói rõ hơn trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an (Rm 8,66).

Như thế, chúng ta phải hiểu ơn bình an mà phụng vụ hôm nay nói tới trong cái nhìn Kitô học. Đây là quà tặng gắn kết với mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh mà Thánh Phaolô nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Sau khi Đức Giêsu sống lại, Ngài hiện ra với các tông đồ, cho thấy các dấu tích cuộc tử nạn nơi thân thể Ngài. Sau đó, Chúa thổi hơi tuôn đổ Thần khí và ban bình an cho các ông (Ga, 20,22; Mt 28,16-20).

Cũng vậy, trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi thực tập truyền giáo. Ngài dặn các ông: “Khi vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy, bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em (Lc 10,5-6).

Như vậy, bình an trước hết là quà tặng đến từ Thiên Chúa và ơn bình an được ban xuống luôn kèm theo những điều kiện cần thiết.

Điều kiện để hưởng bình an.

Sống trong một thế giới mà chiến tranh lúc nào cũng như sắp sửa xảy ra, người ta cảm thấy lo sợ. Vì thế, sau đệ nhị thế chiến, các quốc gia trên khắp thế giới phải ngồi lại để bàn thảo những phương thế cổ xúy cho hòa bình. Tổ chức Liên Hợp Quốc được hình thành từ đó và 6 quốc gia được bầu chọn làm “Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc”. Trong phiên họp đầu tiên, ông Krouchev, tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô đã sừng sỏ chỉ tay vào vị đại diện Tòa Thánh tại bàn hội nghị và sẵng giọng nói: “Giáo Hoàng của các ông có trong tay bao nhiêu sư đoàn, mà dám cho người đại diện đến đây để bàn về hòa bình với chúng tôi”.

Người ta vẫn thường nghĩ rằng, bình an là một món hàng có thể sắm bằng sức mạnh quân sự, mua bằng đô-la hay dầu hỏa. Nhưng đối với Đức Giêsu thì không phải vậy. Hòa bình hay bình an đích thực chỉ có được khi chúng ta biết sống theo hướng đi của Thần khí. Đó là Thần Khí của Chân lý, của Sự thật, không có gian dối hay lừa lọc, không có bạo lực hay giết chóc, không oán thù hay ghét ghen. Vì vậy, để huấn luyện các môn đệ, Ngài sai các ông đi thực tập truyền giáo với quà tặng bình an. Quà tặng này đi kèm theo điều kiện là ‘không mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép…’, tức là sống tinh thần nghèo khó một cách triệt để. Chúng ta vẫn thường hát lên ‘Kinh hòa bình’, lời kinh của Thánh Phanxicô Assisi, sứ giả của bình an, và Ngài cũng là khuôn mẫu cho chúng ta về tinh thần nghèo khó phúc âm.

Kết luận

Khi Chúa Giêsu giáng sinh, các Thiên Thần ca hát vang trời: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Những người thiện tâm và hưởng nhận ơn bình an đầu tiên ấy chính là các mục đồng, những đứa trẻ chăn trâu ngoài đồng nghèo xơ nghèo xác, những con người thấp kém và bị quên lãng trong xã hội thời bấy giờ. Cũng vậy, Chúa sai các môn đệ đi truyền giáo để ban bình an, đồng thời Ngài đòi hỏi các ông phải sống thật thanh thoát trong tinh thần khó nghèo, cắt đứt mọi dính bén trần thế. Điều Chúa đòi hỏi cũng là thách đố đối với chúng ta hôm nay, khi đang sống giữa một thế giới duy vật, thượng tôn chủ nghĩa hưởng thụ và chạy theo của cải vật chất. Còn chúng ta, chúng ta chọn cuộc sống phú túc giàu sang hay chọn bình an mà Thiên Chúa ban tặng?

 

13. Vô nghĩa – Lm Vũ Đình Tường

Vô nghĩa diễn tả tình trạng nghe mà không hiểu hay nghe vào tai này chạy tuốt qua tai kia, để lại trong ta cõi trống. Câu nói khơi lên trong ta một chút gì dù là vui buồn, sướng khổ hay lo lắng đều là những câu nói có nghĩa bởi vì chúng khơi lại trong ta ít nhiều tình cảm sâu thẳm trong lòng. Ngôn ngữ con người tự nó không có sức mạnh khơi dậy tình cảm trong ta. Nó chỉ có tác dụng khi ta nghe chúng với tâm tình lắng nghe, muốn nghe. Trong trường hợp đó ngôn ngữ có sức mạnh khơi dậy, khích động lòng người. Trái với ngôn ngữ con người Lời Chúa tự Lời Ngài có sức mạnh bởi Lời Chúa luôn kèm theo sức mạnh của Thánh Thần nên tự Lời Chúa có sức mạnh. Hơn nữa lời Chúa có sức tạo dựng. Lời Ngài phán ra tạo nên đất trời. Vì thế đất trời đều lệ thuộc vào Lời Ngài để tồn tại. Chúng tồn tại vì do Lời Chúa ban sức sống, cầm giữ và ban cho chúng ơn tái tạo được hiểu là biến hoá trong vũ trụ đất trời.

Lời Ngài có khả năng thay đổi tuỳ theo vật Ngài sáng tạo. Lời Ngài khoả đầy vũ trụ và di chuyển cùng tốc độ nở bành trướng của vũ trụ hay Lời Ngày thu nhỏ, kiên nhẫn đợi chờ cho con tim đóng kín mở ra đón Ngài vào tim. Chúng ta bị lệ thuộc vào thời gian và không gian nhưng Lời Ngài hoàn toàn không bị điều kiện thời gian, không gian kìm chế.

Khi con tim đóng kín không đón nhận Lời Ngài không phải vì Lời không có sức mạnh tiến vào nhưng là Lời tôn trọng quyết định, cảm xúc trong ta, không cưỡng bách, thúc ép ta miễn cưỡng đón nhận Lời Ngài. Khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Đức Kitô đã hướng dẫn các môn đệ là khi vào nhà nào, thành nào nếu người ta đón tiếp thì hãy cư ngụ tại đó, nếu không thì hãy âm thầm ra đi và bình an của Lời Ngài cũng sẽ ra đi Lc 10,6.

Điều này cho thấy Lời Ngài có sức mạnh đến người không cản được, đi người không thể cầm giữ. Lời Ngài tự do, tự tại đến đi tuỳ theo mức độ cởi mở, đón nhận của con tim người nhận. Con tim rộng mở đón nhận ơn bình an; con tim đóng chặt, khép kín mất bình an nội tâm.

Trong trường hợp con tim khép kín thì tâm tình của người mang Lời Chúa đóng một phần quan trọng trong việc hoán cải con tim khô cằn, sỏi đá. Tâm tình đó là tâm tình của người môn đệ đặt hết tin tưởng vào Lời Chúa. Chính xác tín này thể hiện qua lời nói, việc làm của họ làm cho con tim khô cằn, sỏi đá được thảnh thơi và từ từ mở ra đón nhận Lời Ngài. Người môn đệ chân thành là người môn đệ ít nhiều có cảm nghiệm về sức mạnh Lời Ngài mang lại trong tâm hồn họ, đóng dấu ấn tín yêu thương trong lòng khiến họ rao giảng mà không nghi ngại, gặp trở ngại không sờn lòng, thất bại không nản chí, đau khổ không chùn bước, thành công không kiêu căng. Chính thái độ khiêm tốn, kiên nhẫn và nhẫn nhục giúp con tim khô cằn tìm thấy nguồn nước. Con tim đóng kín hé mở đón Lời Ngài. Một tâm hồn hay tấm lòng thay đổi nhờ vào Lời Ngài được thánh Phao lô diễn tả trong bài đọc thứ hai là con người mới, tạo vật mới. Tạo vật mới này có được là do Lời Ngài biến đổi, thánh hoá và ban cho sự sống mới. Tạo vật mới được nuôi dưỡng bằng Thần Khí và ơn an bình thiên quốc.

 

14. Bình an đích thực

Luca là thánh sử duy nhất kể lại cho ta về sứ mạng của 72 môn đệ. Những môn đệ này được sai đi từng hai người một, vì lời chứng của hai người là lời chứng thật. Chắc khi đi rao giảng các môn đệ cũng sẽ gặp nhiều trắc trở, nhưng sự vất vả không chuẩn miễn cho các ông khỏi những khó khăn và nguy hiểm. Các ông như chiên lành tay không trước mặt sói rừng. Dẫu vậy những người được Chúa sai đi và làm công việc do Chúa chỉ định, phải tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Không mang theo tiền, lương thực hay đồ dùng cá nhân kềng càng, họ phải tiến thẳng đến mục đích chứ đừng dừng lại dọc đường mà chuyện vãn bàn tính mất thời giờ với những người qua đường. Nói khác đi, họ chỉ có một điều quan tâm là rao giảng Lời Chúa cho mọi người, một thành, một làng, một nhà mà họ được sai đến và làm việc tại đó.

Công việc trước hết phải làm khi vừa bước chân tới là chúc bình an cho người ta, vì bình an vốn là dấu chỉ và bằng chứng của ơn cứu độ, của việc Chúa đến nếu xứng đáng họ sẽ được lãnh nhận. Sự bình an nói đây là sự bình an của ơn cứu độ, kết quả sự can thiệp đặc biệt của Chúa, nên cũng gọi là sự bình an của Nước Thiên Chúa. Bởi thế, đây chính là điều phụng vụ muốn dùng tới khi chọn đọc bài phúc âm này, vừa nói đến Đức Kitô đã đem đến sự bình an, một thứ bình mà thế giới không thể ban được, vừa nói lên sứ mạng của Hội Thánh là tiếp tục đem đến cho nhân loại sự bình an của Chúa.

Ngoài ra Đức Giêsu cũng khuyên các ông hãy đón nhận cách đơn sơ, giản di nơi ở cũng như lương thực mà người ta cung cấp nơi mình, không phải lo đến việc trả các phí tổn bằng tiền, mà chỉ lo trả bằng công tác của mình thôi. Ngoài ra cũng phải tránh những vấn đề làm cho người ta khó chịu như về lương thực hoặc tiện nghi. Nhưng phải biết bắt chước Chúa sẵn sàng chữa lành những bệnh nhân tật nguyền cho người ta một cách miễn phí. Vì đây cũng là dấu chỉ của thời thiên sai như Isaia đã loan báo.Và sau cùng nếu bị người ta sua đuổi thì cũng phải loan báo Nước Trời đã đến gần, và nói thẳng cho họ biết rằng họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự từ chối đó. Cũng nến để tất cả những gì thuộc về họ, cho dù là bụi đết dính chân cũng để lại để cảnh cáo họ.

Chỉ sau một thời gian ngắn, công việc rao giảng của các môn đệ hiển nhiên được thành công một cách đáng kể, và các ông đã hân hoan trở về bên Chúa Giêsu. Họ vui mừng hãnh diện vì làm tốt công việc được trao phó: rao giảng tin mừng, chữa bệnh tật. Tuy nhiên điều vượt quá sự mong mỏi của các ông là đã sua đuổi được ma qủy. Vì thế, các ông rất lấy làm hạnh phúc về việc đó cách rõ rệt nhưng cũng khá ngây ngô.

Chúa Giêsu muốn làm cho họ phải chưng hửng, Ngài chỉ muốn so sánh “chiến thắng” của họ với ánh chớp lóe lên từ trời xuống đất. Ngài cũng nói thêm về quyền năng mà Ngài đã ban cho họ trên Satan và các thứ thù địch sẽ được biểu lộ qua việc dẫn trên rắn rết mà chẳng hề hấn gì. Tuy nhiên Đức Giêsu muốn đưa họ đến một quan điểm đúng đắn là hạnh phúc đích thực không phải ở chỗ thắng ma qủy hay ở chỗ làm lụng vất vả rồi thành công, mà hệ tại ở chỗ chắc chắn mình được cứu rỗi: “hãy vui mừng vì tên các người đã được ghi trên trời”. Quả thực đây mới chính là điều đem lại cho chúng ta sự bình an thực sự và vững bền không ai lấy mất được.

Sự bình an chân thật, sự bình an trong tâm hồn là của riêng những con người sống trong tình yêu của Chúa, sống trong tương giao mật thiết với Chúa và hoàn toàn vâng phục Ngài. Tội lỗi đã làm con người mất đi sự bình an đó, vì nó làm cho con người trở nên thù nghịch cùng Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới trả cho chúng ta sự bình an đã mất, vì chỉ mình Ngài có quyền tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Vì thế muốn lấy lại được sự bình an phải đến với Đức Kitô, tuyệt đối tin tưởng vào Đức Kitô, tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Ngài. Ngoài ra không có con đường cứu độ nào khác.

Nhờ Bí Tích Thánh Thể được cử hành, một bí tích mà Đức Giêsu đã thiết lập làm giao ước muôn đời cho hội thánh, chúng ta được phúc hiện tại hóa mầu nhiệm thập giá, tham dự vào hy tế đền tội với tất cả tham dự phong phú của nó. Chúng ta hãy tham dự vào cách ý thức tích cực và tron vẹn để chúng ta được bình an trong Đức Kitô, và chúng ta không quên cảm ta lòng thương xót bao la của Ngài.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra chỉ khi nào con ở trong và ở bên Đức Giêsu con mới tìm được sự bình an đích, và cũng cho con luôn nhận ra sứ mạng của mỗi người Kitô hữu là đem bình an Tin Mừng đến cho người khác. Amen.

 

15. Chúa sai tôi đi – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm 12 tông đồ mà còn cả nhóm 72 môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ngài cũng sai “từng nhóm hai người” như ngầm ngụ ý: việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.

Nhưng trên hết, trình thuật hôm nay nhắm đến 3 công việc mà người truyền giáo phải biết, đó là:

Cầu nguyện: cầu nguyện cho Hội Thánh có nhiều thợ lành nghề theo như lòng Chúa mong muốn.

Sống thanh thoát với của cải: vì cái mà người truyền giáo cần có là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)

“Chữa lành các bệnh tật”; Đây là việc làm chính của người truyền giáo. Người truyền giáo phải là người làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất nơi tha nhân.

Nhưng xem ra lối sống của người tín hữu hôm nay chỉ nhắm đến việc giữ đạo, sống đạo mà ít quan tâm đến việc truyền giáo. Có mấy ai đã cầu nguyện cho việc truyền giáo? Có mấy ai đã biểu lộ việc truyền giáo bằng việc sống thanh thoát với của cải trần gian và xoa dị nỗi đau cho anh em?

Thành thực mà nói cũng có, nhưng rất ít. Có khi chỉ là một cánh én đơn độc nên vẫn chưa mang lại mùa xuân truyền giáo cho Giáo hội. Ngay cả các sứ giả hôm nay cũng được sai đi nhưng cũng chỉ là để đến với tín hữu, đến với những cộng đoàn có đạo để củng cố niềm tin cho họ, và dường như Giáo hội Việt Nam vẫn chưa có một linh mục được sai đi chỉ để loan báo tin mừng cho dân ngoại. Chính vì thế, rất nhiều linh mục đến với những vùng hẻo lánh, các ngài lại chú trọng việc xây cất cho bằng chị bằng em, nhưng lại thiếu thời giờ để đến với lương dân.

Có lẽ, chính vì thế từ người giáo dân đến linh mục đều chú trọng việc sống đạo nhưng không có sáng kiến mục vụ để thu hút người ngoại đạo, kể chi đến việc mang tin mừng đến cho anh em lương dân. Giáo hội đã quá chú trọng đào tạo nhân sự từ linh mục, tu sĩ, tông đồ giáo dân nhưng đều được tung vào vườn nho để quản lý vườn nho mà không được mang đến cánh đồng truyền giáo bát ngát. Giáo hội cũng tốn kém rất nhiều tiền bạc vào việc đào tạo nhân sự nhưng lại không bao giờ tặng anh em lương dân một tấm hình đạo, một quyển phúc âm… như là một hình thức giới thiệu đạo Chúa cho anh em. Dường như các chủ chăn chỉ loay hoay gìn giữ các con chiên và cũng chẳng mấy khi đi tìm kiếm con chiên lạc trở về, và có lẽ khó mà có thời giờ đến với muôn dân không thuộc đàn chiên của mình.

Hôm vừa rồi, có một cán bộ tôn giáo nói với tôi: “Nếu giáo hội Công giáo không quan tâm đủ đến người dân tộc thiểu số ở trong xứ đạo, coi chừng họ theo Tin Lành hết”. Được biết người tín hữu tin lành họ rất quan tâm đến anh em lương dân của họ. Họ luôn tìm cách tiếp cận và giới thiệu tin mừng cho anh em lương dân. Họ coi đây là việc làm hàng đầu của người tín hữu. Họ không quan trọng việc đi lễ hay các bí tích, nhưng điều quan yếu của họ là làm sao tin mừng đến được với muôn dân.

Giáo hội vẫn nói sứ mạng hàng đầu của Giáo hội là truyền giáo, nhưng xem ra hành vi truyền giáo vẫn chưa cụ thể, vẫn chung chung… Chúa Giêsu không gọi chung chung, Ngài cũng không sai đi chung chung, nhưng Ngài gọi từng người một và sai đi. Ngài sai đi không phải đến một làng, một vùng mà đến các vùng lân cận để rao giảng. Xem ra Giáo hội là truyền giáo nhưng lại thiếu những con người có thể đi đến với những làng lân cận mà rao giảng Nước Thiên Chúa như 72 môn đệ. Không có cuộc ra đi. Không có mùa gặt hái. Không có mùa bội thu. Giáo hội vẫn là thiểu số giữa muôn dân, muôn sắc tộc.

Hôm nay không phải là ngày Khánh Nhật Truyền Giáo nhưng lời Chúa vẫn vang vọng bên tai chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lời Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta về sứ vụ truyền giáo của Giáo hội, của chúng ta là thành viên của Giáo Hội. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gặt lúa của Người. Chúa Giêsu vẫn tha thiết kêu mời chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội có thêm thợ lành nghề. Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta hãy ra khỏi chính mình để đến với những kẻ bất hạnh lầm than, để xoa dịu nỗi đau cho nhân thế.

Ước gì đời ky-tô hữu chúng ta luôn là một đời truyền giáo bằng gương lành bác ái, bằng lời nói về Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn thao thức về cánh đồng truyền giáo đang chính vàng, nếu không nhanh tay thì chim trời sẽ ăn hết. Thế nên, mỗi người chúng ta cần thể hiện tinh thần truyền giáo của mình cách cụ thể quá lời nói và việc làm của mình. Amen.

 

16. Chứng nhân Nước Trời

(Suy niệm của Lm. Trọng Thưởng, CRM)

Một mục sư Tin lành mới đến nhậm chức tại giáo xứ. Sau buổi lễ sáng Chúa Nhật, mục sư đứng cuối nhà thờ để chào đón giáo dân. Nhiều người lần lượt xếp hàng đứng bắt tay. Đa số đều rộng lượng bày tỏ những lời khen khuyến khích, chỉ trừ có một người nói rằng: “Bài giảng của mục sư nghe thật nhàm chán và buồn ngủ!” Một lúc sau người ấy lại xếp hàng bắt tay và nói: “Tôi nghĩ rằng mục sư đã không để giờ chuẩn bị bài giảng.” Sau đó người kia lại xuất hiện trước mặt mục sư và nói: “Lần này mục sư thật sự làm hỏng chuyện rồi. Ông thật sự chẳng có gì để nói cả.” Vị mục sư không chịu nổi nữa, liền đến một cụ sáu hỏi về con người kỳ cục kia. Cụ sáu nói rằng: “Đừng để tâm đến ông ta. Ông ấy chậm chạp, không có suy nghĩ. Ông ta chỉ lặp lại những điều người khác mớm cho thôi.”

Khi đi rao giảng, làm sao cho người nghe nhận được sứ điệp là điều quan trọng. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Kitô chọn 72 môn đệ và sai họ đi rao giảng rằng: “Nước Trời đã gần đến.” Chúa không muốn các môn đệ chỉ như những con vẹt, lặp lại những gì Ngài chỉ dạy, nhưng muốn các ngài phải sống sứ điệp mình rao giảng, trở nên một người rao giảng Tin Mừng thật sự. Người rao giảng Nước Trời phải là người siêu thoát với mọi ràng buộc của trần gian. Nếu người môn đệ của Chúa rêu rao trên miệng nhiều điều tốt đẹp về nước trời, nhưng trên mình mặc quần áo xa hoa lộng lẫy, đeo lủng củng các thứ dây vàng, nhẫn vàng, với mọi thứ của cải sang trọng khác, ai có thể tin vào Nước Trời do lối sống như thế? Hoặc một người cũng môi miệng đó rêu rao chiêu bài bác ái, xây dựng, nhưng mặt khác lại đi chửi bới thoá mạ người khác. Làm sao có thể tin vào loại người như thế? Làm sao có thể tin rằng người đó không trở mặt chửi bới những người thân quen chung quanh?

Vì thế Chúa đã truyền cho các môn đệ khi đi rao giảng phải sống tinh thần khó nghèo, siêu thoát khỏi mọi ràng buộc, tham vọng trần gian, để có thể hướng lòng mình cũng như người nghe về Nước Trời. Kết quả của cuộc sống ly thoát mọi ràng buộc là sự bình an đích thực, mà người môn đệ nắm chắc trong tâm hồn và thông ban bình an cho những người chung quanh.

Sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa đã trao ban cho 72 môn đệ và còn tiếp tục trao ban cho mỗi người Kitô hữu. Chúng ta hãy rao giảng bằng lời nói khi có thể, nhưng trên hết đời sống mỗi người phải là lời giảng hùng hồn nhất. Hãy siêu thoát khỏi những tham vọng của cải, quyền lực, lợi lộc cá nhân, bè phái” đó là những ràng buộc của trần gian khiến người Kitô hữu không thể là chứng nhân đích thực cho Nước Trời. Hãy một lòng xây dựng cho nước trời bằng tấm lòng ngay chính, không bè phái, không chia rẽ, không đối lập” hãy sẵn sàng hy sinh quên mình, dẹp bỏ ích kỷ cá nhân để đóng góp cho cộng đoàn, giáo xứ, cho Giáo Hội.

 

17. Bình an chân thật – Lm. Minh Vận, CRM

Helen Keller, một cô gái vừa mù, vừa câm, lại vừa điếc. Giác quan duy nhất còn lại để cô có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài là dùng tay mà sờ. Thế mà cô đã cố gắng đi học, kiên trì trong gian khổ… Nhờ sự nhẫn nại chuyên cần, cô đã đạt được một thành quả rất khả quan, đó là cô đã đoạt được văn bằng tiến sĩ. Một hôm, cô được người ta hỏi rằng, nếu chỉ được mộng ước một điều thôi, thì cô sẽ mộng ước điều gì? Trong khi chờ đợi cô trả lời, ai cũng nghĩ rằng: Cô sẽ ước ao được sáng mắt để chiêm ngắm vẻ kỳ diệu của cảnh thiên nhiên; được khỏi điếc để có thể thưởng thức những thanh âm của muôn loài và những khúc ca du dương trầm bổng của các ca sĩ trứ danh? Thực là bất ngờ, cô đã trả lời ngược hẳn lại ý nghĩ của mọi người. Cô nói: “Tôi ước ao cho thế giới được hưởng hòa bình”.

  1. BÌNH AN LÀ KHÁT VỌNG CỦA MỌI NGƯỜI

Câu trả lời của cô Helen chứng tỏ cô có một tâm hồn cao cả, đã được thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô và chia sẻ lòng khát khao của Người, như chính Người đã phán với các Môn Đệ trong giáo huấn Lời Chúa hôm nay, khi sai các ông đi truyền bá Tin Mừng cho muôn dân: “Khi vào nhà nào thì các con hãy cầu chúc: “Bình an cho nhà này!”.

Mỗi người chúng ta khi lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con cái Chúa, đều được Chúa ủy thác sứ mạng truyền bá Tin Mừng Cứu Độ cho muôn người; hay nói cách khác, tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ được Chúa sai đi đem sự bình an, lòng nhân từ thương mến, niềm an vui hạnh phúc của Chúa đến cho mọi người.

Trong một thế giới đầy hận thù, chém giết và tràn ngập những thương luân bại lý ngày nay, sứ mạng Chúa ủy thác cho chúng ta, càng trở nên khẩn thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Nhưng có thể chu toàn sứ mạng đem sự bình an của Chúa đến cho mọi người thế nào được, khi tâm hồn chúng ta chưa có sự bình an, chưa được hưởng tràn đầy ơn an bình hạnh phúc chân thật của Chúa, để có thể chia sẻ, thông ban, trao tặng cho tha nhân?

  1. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC BÌNH AN THẬT

Sau khi Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, mỗi lần hiện ra với các Môn Đệ, Chúa đều cầu chúc: “Bình an cho các con!” Điều đó chứng tỏ lòng Chúa khát khao cho chúng ta được hưởng bình an hạnh phúc chân thật của Chúa. Nhưng sự bình an Chúa muốn ban tặng chúng ta, không phải chỉ là sự bình an tạm bợ của trần gian. Vì bình an chân thật của Chúa bắt nguồn từ nội tâm con người, không phải chỉ là sự bình an có cái nhãn hiệu bên ngoài: Không súng đạn chiến tranh, không võ khí nguyên tử và những hòa ước trên giấy tờ.

Chính Chúa đã nhiều lần quả quyết: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy không ban thứ bình an như thế gian ban tặng; lòng các con đừng bối rối sợ sệt”.

Sự bình an chân thật của Chúa muốn ban tặng chúng ta là gì? Đó chính là sự bình an tâm hồn. Sự bình an này chính các Thần Trời đã ca lên trong đêm Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Mọi người trên trần gian, ai ai cũng khát khao hòa bình, các chính phủ, các nhà lãnh đạo các quốc gia, các chính khách đều cổ võ và vận động cho các cuộc hòa giải được thành sự, kêu gọi chấm dứt chiến tranh để tái lập hòa bình cho các dân tộc… Nhưng tại sao hòa bình vốn còn là viễn tượng mơ hồ. Chính là vì lòng con người còn đầy tham vọng, đầy tranh dành, đầy hận thù, đầy nghi kỵ lẫn nhau… Ai cũng chỉ muốn vượt trên người khác, hạ bệ đối phương, chiến thắng kẻ thù…

Nhưng hòa bình chân thật của Chúa chỉ được ban tặng cho những ai thành tâm thiện chí, giầu lòng yêu thương, đầy tình tương thân tương ái, luôn biết an ủi người sầu khổ, biết thông cảm chia sẻ niềm an vui hạnh phúc với tha nhân, khích lệ người nản chí ngã lòng, chỉ muốn làm ơn và sống hào hiệp với mọi người.

Là con cái Chúa, Chúa muốn chúng ta cảm nghiệm được sự bình an chân thật của Chúa, tức là tâm hồn không bị nô lệ tội lỗi và những tham vọng trần thế, để có thể tận hưởng niềm an vui hạnh phúc của con cái Chúa, sống trong ơn nghĩa với Người. Không những thế, Chúa còn ủy thác cho chúng ta sứ mạng đem sự bình an, tình yêu thương hạnh phúc của Chúa đến cho mọi người. Đó là một vinh hạnh, một phúc lành Chúa dành cho mỗi người chúng ta, như lời Chúa đã chúc phúc: “Phúc cho những ai biết xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa” (Mt 5:9).

III. ÁP DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG

Trong khi cử hành Thánh Lễ hằng ngày, Giáo Hội muốn các vị Chủ Tế chúc lành cho những người tham dự bằng lời cầu chúc: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em!”; đồng thời, Chủ Tế cũng kêu gọi mọi người chia sẻ bình an của Chúa cho nhau bằng lời: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau!”

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta cùng có một khát vọng như Thánh Phanxicô Khó Khăn trong “Kinh Hòa Bình” mà chúng ta sẽ cùng với ca đoàn dâng lên, sau khi được đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn sự Bình An ngự vào tâm hồn chúng ta.

Để chiếm hữu được sự bình an chân thật của Chúa, chúng ta cần có các điều kiện sau:

  1. Tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa với Chúa, không bị ràng buộc bởi bất cứ tội lỗi nào, nhất là tội trọng, vì tội làm cho lương tâm chúng ta luôn bị cắn rứt, mất quân bình, bởi bất tuân lệnh Chúa, phản bội Ngài, nên không còn được hưởng niềm an vui hạnh phúc trong tình Cha con thân mật với Ngài.
  2. Tâm hồn nhiêm nhu, hiền từ nhân ái, luôn biết tôn trọng tha nhân, không bao giờ dám tự cao tự đại vươn mình lên trên kẻ khác, nhưng luôn đặt mình dưới hết mọi người; vì kẻ kiêu căng luôn bôn chôn rạo rực, phen bì, ghen tuông, giận ghét bởi thấy người khác hơn mình.
  3. Tâm hồn luôn tin tưởng ở Thiên Chúa, tín thác mọi sự nơi Người, chỉ muốn điều Thiên Chúa muốn và làm điều Thiên Chúa muốn. Họ luôn bằng lòng với tất cả những gì do tình yêu thương mà Chúa là Đấng khôn ngoan luôn quan phòng định đoạt cho họ, cho gia đình hay cộng đồng cũng như quốc gia của họ.

Kết Luận

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ sự bình an chân thật, vì Mẹ luôn chân nhận thân phận thụ tạo hèn yếu của mình, luôn hoàn toàn sống lệ thuộc vào Thiên Chúa, trong niềm tin yêu phó thác; đồng thời, luôn tôn trọng và đặt mình dưới hết mọi người, xin Mẹ dạy chúng con biết sống theo bí quyết bình an của Mẹ, để chúng con cũng được Chúa hài lòng và ban cho chúng con được tận hưởng sự bình an chân thật Chúa dành cho những con cái ngoan thảo của Chúa.

 

18. Truyền giáo

Có một linh mục người Mỹ thuộc dòng Tên, giảng dạy tại một trường đại học Công giáo nổi tiếng tại Phi Luật Tân. Ngày kia, tình cờ vị linh mục này đi vào một khu xóm lao động nghèo nàn và gặp một tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ. Sau một hồi trao đổi, linh mục người Mỹ đã hỏi tu sĩ người Bỉ như sau: Anh ở đây làm gì vậy. Tu sĩ người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu xóm lao động này. Nghe thế vị giáo sư người Mỹ có lẽ như tiếc rẻ cho sự hy sinh lãng phí ấy, nên mới nói về mình như sau: Tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình, tôi đi đây đi đó, tôi đào ạo những con người hữu ích cho xã hội.

Qua cuộc đối thoại này, có lẽ chúng ta thấy được những khía cạnh khác nhau của việc truyền giáo trong Hội Thánh. Vị linh mục người Mỹ trên đây là điển hình cho một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo của Hội Thánh trên khắp thế giới, từ thành thị đến nông thôn, từ học đường đến công sở. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động rao gảing thì cũng có những nhà truyền giáo âm thầm, sống như những chứng nhân. Tựu trung, hoạt động hay sống âm thầm, cả hai hình thức đều có chung một sứ mạng, đó là làm chứng cho Đức Kitô và nước của Ngài. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một đòi hỏi giống nhau, đó là làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát.

Đây là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã đề ra cho các môn đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin Mừng. Ngài nói với các ông: Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, áo xống, giày dép và đừng chào hỏi ai dọc đường. Một cuộc sống siêu thoát, không lệ thuộc vào của cải trân gian, đó là biểu hiện tiên quyết cho chứng nhân Nước Trời.

Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương của mình để đến những miền đất xa lạ, nhưng chủ yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi con người ích kỷ của mình để đến với tha nhân trong tinh thần hoà giải, yêu thương và phục vụ. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh Chúa truyền: Vào nhà nào trước tiên các con hãy nói: bình an cho nhà này. Hiện diện giữa tha nhân, hiện diện với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông và tha thứ, đó chính là sự ra đi đích thực của nhà truyền giáo. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.

Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu, tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó có nghĩa là những giá trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống giữa chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để những người chung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ như những người Do Thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải kêu lên: Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào.

Bằng lời nói và nhất là bằng cuộc sống dạt dào yêu thương, chúng ta hãy trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.

 

19. Truyền giáo – Lm Giuse Nguyễn An Khang

Chúa nhật trước, Luca cho biết một dân làng Samaria không đón tiếp, Đức Giêsu đã đi sang làng khác. Đức Giêsu đã chỉ định bảy mươi hai môn đệ, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, để mở đường. Thực ra, con số bảy mươi hai đây chỉ là biểu tượng, không phải con số số học. Con số bảy mươi hai là lớn, nhưng thấm vào đâu so với cánh đồng lúa chín mênh mông. Lúa chín vàng không gặt sẽ rụng, khoai quá ngày không cuốc cũng hỏng. Thiếu các thừa sai, con người cũng hư mất.

Để có các Thừa sai, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giải pháp, đầu tiên là sự cầu nguyện. Đối với Người, rõ ràng công việc Tông đồ, không phải là công việc của con người như tuyên truyền hay quảng cáo, nhưng là một công việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa là chủ, Phaolô trồng, Apôlô tưới. Thiên Chúa làm cho phát triển, vì thế phải cầu nguyện. Cầu nguyện là công việc đầu tiên và cốt lõi của việc Tông đồ.

Công việc Tông đồ được Đức Giêsu gọi với danh hiệu mùa gặt. Mùa gặt, theo truyền thống Kinh thánh được dùng là hình ảnh để nói về thời kỳ sau hết, về sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời thế mạc (Ge 4,13 & Mt 13,19 & Kh 14,15-16). Trong Đức Giêsu, thời kỳ sau hết này đã bắt đầu. Đức Giêsu nhìn thấy sự dồi dào của mùa gặt thiêng thánh ấy. Trong mùa gặt ấy, các tín hữu, những môn đệ được sai đi: “Thầy sai anh em đi”, đó là một mệnh lệnh.

Đức Giêsu không che dấu sự khó khăn trong công việc này. Đức Giêsu đã lấy hình ảnh chiên con và bầy sói, để nói lên những khó khăn đó. Vâng, trong công việc truyền giáo, người tín hữu như một con chiên con bị bầy sói tấn công. Vì thế, chúng ta đừng ngạc nhiên khi có nhiều người mất đức tin, do những thất bại to lớn trong việc truyền bá đức tin. Chúng ta cũng đừng gán cho dân ngoại, những lương dân là bầy sói. Thực ra, mọi dân ngoại, mọi người vô tín đều được Chúa yêu thương. Họ là những con chiên bơ vơ, chưa được đưa về đàn. Chúng ta có bổn phận phải đưa họ về, để chỉ có một đàn chiên và một Chủ chiên.

Điều đáng lưu ý, hành trang người truyền giáo phải có, không phải túi tiền, bao bị, giày dép… nhưng là cách sống, trước tiên là nghèo khó. Không nên ỷ lại vào các phương tiện của con người. Đức Giêsu đã không sử dụng các vũ khí quyền lực của sự giàu sang, của vẻ lộng lẫy huy hoàng… Đức Giêsu không ra vẻ trịnh trọng, Người vốn giàu sang đã trở nên nghèo khó. Yêu sách đầu tiên Chúa đòi giáo hội phải theo gương Người, là nghèo khó.

Người truyền giáo cũng không nên mất thời gian vì những cử chỉ lễ phép quá mức và dài dòng, vì những lề thói thế tục. Cũng cần chào hỏi, nhưng đừng để ảnh hưởng đến việc truyền giáo. Việc truyền giáo là việc làm cấp bách. Trong Luca, điều gây ấn tượng mạnh là sứ giả của Tin Mừng chạy khắp nơi. Đức Maria vội vã đi thăm bà Isave, các mục đồng chạy đến máng cỏ, Philiphê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người Ethiôpe (Cv 8,30)….

Đức Giêsu cũng dạy người truyền giáo: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”. Vâng, sứ mệnh của người truyền giáo là thông ban sự bình an, sự bình an đó chính là Đức Kitô. Tin Mừng cũng chính là điều đó. Người ta chỉ có thể cho người khác cái mình có. Người truyền giáo cũng chỉ thông ban sự bình an của Đức Kitô cho người khác, khi người ấy có. Cũng chỉ ai đáng hưởng, sự bình an của Đức Kitô mới đậu trên người ấy, bằng không sự bình an đó sẽ quay về với nhà truyền giáo.

Về vấn đề ăn uống, nhà truyền giáo không phải bận tâm, hãy ăn những thức ăn người ta dọn cho. Không cần đặt câu hỏi: Thức ăn đó sạch hay dơ? Như thế, Đức Giêsu có ý dạy ta phải có một tâm hồn cởi mở, phóng khoáng đối với tục lệ tập quán của những người khác, chấp nhận các tục lệ văn hoá của các dân tộc mà chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác là hội nhập văn hoá.

Tuy nhiên, sứ mạng của các môn đệ là rao giảng Nước Thiên Chúa, nói với họ về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại của Thiên Chúa là gì? Chính là Đức Giêsu. Với Đức Giêsu, Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa ở đó ngay từ bây giờ. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa hoàn thành thế gian. Thế gian sẽ không trường tồn mãi. Lịch sử của nhân loại sẽ có lúc kết thúc. Nhưng sự chấm dứt này, không phải là hư vô. Cùng đích của vũ trụ là chính Thiên Chúa. Thế gian là một cuộc chiến đấu, Chính nghĩa Thiên Chúa sẽ thắng. Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Thánh ý của Thiên Chúa sẽ là điều tốt lành trọn vẹn của con người: Sự chữa trị các bệnh tật là một dấu chỉ của thánh ý ấy. Như Lời Chúa nói: “Anh em hãy chữa lành những người đau yếu trong thành, vì Triều đại Thiên Chúa đã đến”. Triều đại đó luôn được các môn đệ, các tín hữu công bố, dù người ta tin hay không, một ngày kia Thiên Chúa sẽ hiển trị. Đó là ngày phán xét. Dĩ nhiên những người ngoan cố chối từ, trong ngày ấy, họ sẽ bị trừng phạt hơn thành Sôđôma.

Bảy mươi hai môn đệ ra đi, trở về hân hoan, vì những thành công của họ, ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục. Đức Giêsu bảo họ: Điều đáng mừng hơn, đó là tên họ đã được ghi trên trời.

 

20. Chúa sai tôi đi – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.

Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.

Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.

Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.

Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác

Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?

2- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?

3- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?

4- Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?

home Mục lục Lưu trữ