Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1374686

ĐÒI HỎI CỦA LUẬT CHÚA

ĐÒI HỎI CỦA LUẬT CHÚA-  Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Các triết gia đã rút ra một kết luật thật chí lý cho rằng: Cuộc sống là một chọn lựa. Đúng như thế, ai trong chúng ta cũng ít nhiều có những lúc phải đứng ở hai ngả đắn do: bước đi thì ngại trở về thì thương. Hầu như ông trời không cho con người thỏa mãn cả đôi đàng bao giờ, mà cứ đặt chúng ta ở cái thế, được bên này thì mất bên kia, chọn điều này thì phải bỏ điều kia. Có những chon lựa thật nhỏ bé dễ dàng như: chọn xay bột thì khỏi bồng em, nhưng cũng có những chọn lựa khó hơn vì nó động chạm đến trái tim của mình như khi quyết định kết hôn, chọn cưới cô chị thì buộc lòng phải bỏ cô em, cưới anh A thì phải tạm biệt anh B. Nhưng vẫn còn những chọn lựa khó hơn nữa đó là chọn một đường để đi, một lối sống để theo, một lý tưởng để dấn thân, thì đòi người quyết định phải chấp nhận hoàn toàn những điều kiện và đòi buộc đi kèm theo quyết định của mình.

Một khi đã quyết định chọn lựa một niềm tin, một tôn giáo thì dĩ nhiên chúng ta cũng phải chấp nhận hoàn toàn những đòi buộc của niềm tin tôn giáo ấy. Tuy nhiên dù đã quyết định và đã chọn, nhưng người ta vẫn bị cám dỗ tìm kiếm một điều gì đó dễ dãi hơn, một sự thay đổi nào đó có phần thoải mái hơn. Ví dụ người ta biết hôn nhân Công giáo là đơn hôn và vĩnh viễn, thế nhưng người ta vẫn cứ tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự ràng buộc đó.

Ngày xưa những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng thế, họ tin Chúa theo Chúa, chấp nhận giới răn lề luật của Thiên Chúa, thế nhưng khi Đức Giêsu đến dạy cho họ một thái độ mới, một tâm tình thờ phượng mới, một tương quan mới cần phải có, thì họ chờ đợi một sự dễ dãi châm chước nào đó từ giáo lý của Chúa Giêsu. Chính vì thế hôm nay Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các môn đệ: Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và người Biệt phái thì anh em sẽ không được vào Nước trời. Chúa Giêsu cho thấy việc bước theo con đường của Ngài là một đòi hỏi quyết liệt và triệt để, phải là sự chấp nhận từ bên trong được thể hiện ra bên ngoài, chứ không phải là sự chấp nhận miễn cưỡng, giả hình.

Chúa Giêsu không hứa hẹn cho những kẻ bước theo Ngài một lối sống thoải mái hay một cuộc sống dễ dãi hình thức, Chúa Giêsu đến không phải để hủy bỏ nền tảng đạo đức cũng như lề luật của Cựu Ước, nhưng Ngài đến để làm cho luật của cựu Ước nên hoàn hảo hơn. Vì thế việc tuân hành giới răn lề luật của Tin Mừng không chỉ là chu toàn mặt chữ, không chỉ chu toàn luật dạy làm điều lành tránh điều diều xấu, nhưng phải là một ý thức phát xuất từ lòng yêu mến Chúa và yêu mến anh em và ý thức mình là con Thiên Chúa, là mộn đệ của Đức Kitô. Các ngươi nghe bảo chớ giết người: Ai giết người thì bị đưa ra tòa. Còn Thày, Thày bảo anh em: Ai giận ghét anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa rồi. Điều đó có nghĩa là Chúa Giêsu đòi người môn đệ phải chấp nhận một điều kiện cao hơn, là phải làm sao loại trừ được nguyên nhân đưa đến giết chóc bạo lực là sự giật ghét, vì thế Chúa Giêsu coi việc giận ghét anh em thì cũng là điều đáng trách rồi.

Cũng vậy, trong đời sống hôn nhân không phài chỉ là đòi buộc: Chớ ngoại tình, nhưng bất cứ ai nhìn xem người khác phái mà ước ao thèm muốn trong lòng thôi, thì đã là phạm tội rồi. Vì tội được bắt đầu từ suy nghĩ đến thèm muốn ước ao, sau đó mới đưa đến hành động. Như thế khi ngăn chặn được sự thèm muốn thì hành động sẽ không xảy ra. Cũng vậy, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải có một lương tâm ngay thẳng, một đời sống thật thà từ trong suy nghĩ đến hành động, bụng nghĩ sao nói vậy, gạt bỏ khỏi mình tất cả sự gian dối. Khi mọi người sống và cư xử với nhau bằng sự chân thành ngay thẳng, thì người ta sẽ không cần phải thề thốt, không phải lấy bất cứ ai hay bất cứ sự gì để bảo đảm cho lời nói của mình, mà lấy chính phẩm giá, địa vị làm môn đệ của Chúa làm bảo chứng cho lời nói và hành động của mình.

Người đời thường dùng những lời lẽ hoa mỹ, những lời xảo trá để đánh lừa người khác và để đạt được mục đích cho mình, nhưng Thánh Phaolô cho biết, khi Ngài giảng dạy về giáo lý của Đức Kitô, Ngài không hề dùng những lý lẽ khôn ngoan xảo trá của thế gian và thủ lãnh của nó, trái lại Ngài chỉ giảng dạy một lẽ khôn ngoan duy nhất là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan đó chính là màu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa, Ngài muốn tiền định cho con người được chung hưởng vinh quang với Người. Vì Ngài đã tiền định cho con người được vinh quang, nên Ngài đã làm mọi cách để đem con người về với Ngài, kể cả việc cho Con của Ngài là Đức Giêsu đến để dẫn chúng ta về, và Đức Giêsu đã bị thế gian từ chối và đóng đinh Ngài trên thập giá. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận lề luật, huấn lệnh của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ, được vào chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa.

Nhưng để được chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa đòi chúng ta phải có một quyết định chọn lựa dứt khoát hoặc là tin hoặc không tin, hoặc đón nhận hay từ chối Ngài. Sách Huấn Ca cũng đã căn dặn như thế: Nếu muốn thì các con hãy tuân giữ các điều răn mà trung tín làm đẹp lòng Người. Trước mặt con là lửa và nước, là cửa sinh cửa tử, con muốn bên nào thì hãy đưa tay ra mà lấy. Chọn lựa đúng thì hạnh phúc mãi mãi, còn chọn lựa sai thì phải bất hạnh muôn đời.

Thưa quý OBACE, là Kitô hữu chúng ta thuộc về Chúa Kitô, có Chúa Kitô, thế nhưng nhiều người vẫn không có được một quyết tâm dứt khoát theo Ngài, người ta lưỡng lự đứng bên này và thèm muốn bến kia. Nhiều người theo Chúa, nhưng lại vẫn mang nếp sống của dân ngoại, thực hành những thói quen tin kiêng cúng bái của dân ngoại. Tin Chúa, nhưng nhiều người không dám phó thác cuộc đời và những lo lắng tương lai cho Chúa, mà họ vẫn tin và tìm kiếm tương lai của mình nơi những thày bà bói toán, nhất là nhiều người đã bỏ qua giới răn lề luật của Thiên Chúa, không sống và thực hành giới răn yêu thương, nhưng sống thù hằn gian dối với nhau.

Trong đời sống hôn nhân gia đình, nhiều cặp vợ chồng đã cố tình hủy bỏ hoặc làm sứt mẻ sự thánh thiêng của giao ước hôn nhân, sống buông thả ngoại tình. Trước mặt Chúa và Giáo Hội trong ngày thành hôn, họ cam kết và thề hứa chu toàn kế ước hôn nhân, sinh sản và giáo dục con cái theo luật Chúa và giáo Hội, nhưng nhiều người hầu như đã không còn nhớ đến lời thề ấy, họ không dám đón nhận con cái Chúa ban, và còn tìm mọi cách để loại trừ chúng, nhiều người khác đã không quan tâm đủ đến việc giáo dục đức tin cho con cái, để con cái mình lớn lên trong sự thiếu hiểu biết về giáo lý, về Chúa Kitô và giới răn của Người.

Trong đời sống thường ngày, mang danh là con Chúa là người Công Giáo, nhiều người cũng gian dối xảo trá không khác gì con cái của thế gian của ma quỷ, tìm cách lừa lọc lẫn nhau, sống gian tham lỗi đức công bằng, khiến cho người ta không tin, mà còn dị ứng với chúng ta nữa. Hãy số gắng sống làm sao để cho mọi người thấy việc chúng ta chọn Đức Giêsu và giới răn của Ngài đem đến cho chúng ta hạnh phúc ngay ở đời này, và là động lực thúc đẩy chúng ta sống chân thành ngay thẳng, dễ thương dể mến trước mặt anh em.

Chắc chắn chọn Chúa và giới răn của Ngài, không phải chúng ta tìm kiếm một sự dễ dãi, nhưng là một chọn lựa đem đến cho chúng ta một phẩm giá, địa vị cao quý, đó là chúng ta được làm con Thiên Chúa. Chọn lựa này luôn là một thách thức cho chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria, biết chọn để làm theo ý Chúa, và chọn sống xứng đáng là người được Chúa yêu thương và tiền định cho hưởng Nước Trời. Amen.

 

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN-A

LUẬT CỦA TỰ DO VÀ TÌNH YÊU- Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Ngày nay, rất nhiều người hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói luật của tự do và tình yêu. Con người trưởng thành luôn khát vọng được tự do, được tự mình làm nên đời mình và rất giận khi có ai can thiệp vào đời sống riêng tư của mình.

Chính Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do của con người, sau khi ban tặng cho họ tự do như một ân huệ quý giá. Ngài đã không ngăn cản Ađam Evà hái trái cấm, và chấp nhận phải làm rất nhiều việc để sửa chữa tội lỗi đó chỉ vì muốn tôn trọng tự do của họ. Bài đọc I hôm nay cho ta hiểu con người hoàn toàn tự do lựa chọn điều tốt hay xấu để tạo nên “sinh tử” cho mình khi nói: “việc trung thành tuân giữ các giới răn là tuỳ ở con người”.

Vậy thì luật lệ của Chúa, của dân tộc Israel mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng có ngăn cản hay xúc phạm đến tự do của con người hay không? Chúng ta tuân giữ các luật lệ với tinh thần nào để phát triển trọn vẹn tự do của mình? đó là vấn đề chúng ta suy niệm tuần này.

*1. Tự do là gì?

*a/ Tự do là khả năng của ý chí để nhờ đó con người quyết định về chính mình, tự hành động mà không bị bên trong thúc bách hay bên ngoài ép buộc. Nói cách khác, đó là khả năng của một hữu thể có lý trí, có thể làm hay không làm, làm cách này hay cách khác.Những hữu thể đó là con người, là thiên thần và Thiên Chúa. Còn các loài vật khác không có tinh thần thì không có tự do vì bị thúc đẩy do bản năng hay do đối tượng bên ngoài. Tự do của con người là thứ tự do tương đối vì được Thiên Chúa ban tặng, khác với tự do tuyệt đối của Thiên Chúa. Tự do con người cũng còn bị giới hạn bởi vật chất, không gian và thời gian.

Hơn nữa, điều kiện kiên quyết để thực hiện tự do là có thể lựa chọn và biết lựa chọn theo ý muốn của mình. Thí dụ giữa bao nhiêu người bạn gái, người con trai có thể chọn một người để làm vợ và khi chọn như thế, người đó hiểu mình tại sao chọn cô này mà không lấy cô khác.

Tuy nhiên, sự lựa chọn của con người luôn mang một tính cách liều lĩnh vì con người không thể hiểu rõ đối tượng mình chọn lựa và không bao giờ có thể thấy rõ được tương lai: vì nếu biết chắc chắn người con gái kia sẽ phản bội mình hoặc sau này bị tai nạn què chân, cụt tay, thì người con trai đã chọn người khác.

*b/ Khi tự do lựa chọn con người. Thiên Chúa cũng đánh liều như vậy. Ngài sáng tạo nên con người, chia sẻ tự do của mình cho con người nên ngài chấp nhận cả việc con người phản bội tình yêu của mình. Ngài đã không thu lại ân sủng tự do, Ngài cũng chẳng giơ tay ngăn cản Ađam và mọi người chúng ta phạm tội. Ngài để cho con người làm chủ vận mệnh của mình. Ngài chỉ nhắc nhở con người phải khôn ngoan khi lựa chọn bằng lương tâm ngay chính của họ. Bài sách Huấn ca nói cho chúng ta hay rằng: “Trước mặt con người là sự sống và sự chết, sự lành và sự dữ họ thích thứ nào thì được thứ ấy. Thiên Chúa luôn luôn nhìn thấy mọi loài và thấu suốt mọi hành động của con người ” (Hc 15, 16-21).

Con người càng lắng nghe tiếng Chúa và hành động theo ý Ngài diễn tả qua các luật lệ đúng đắn, qua tiếng lương tâm trung thực thì càng thấy mình được tự do. Đó là thứ tự do đặc biệt của người tín hữu vì các giới luật và lương tâm chỉ có mục đích là làm cho con người sống gắn bó với Thiên Chúa, là Đấng tự do tuyệt đối, Nhưng khi con người chiều theo dục vọng bất chính của mình hay của người khác là con người đã đánh mất tự do cao quý của người con cái Chúa. Con người tưởng mình hoàn toàn tự do để ăn chơi, hưởng thụ hay hành động theo ý của mình , nhưng sự thực lúc đó con người lại đang làm nô lệ cho tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi và ma quỷ hơn cả, rồi từ đó làm nô lệ cho tội lỗi, chết chóc, vong thân.

Tuy nhiên, chính khi tuân giữ luật lệ của Chúa, con người lại cảm thấy mình mất tự do nếu không biết dùng lý trí để hiểu tại sao mình phải lựa chọn hành động này mà không lựa chọn hành động khác. Lúc đó người ta chỉ giữ luật vì sợ bị phạt hơn là hiểu rõ tinh thần của luật. Giống như một vài người chạy xe ngừng lại khi đèn đỏ vì sợ người cảnh sát giao thông thổi phạt, chứ không phải tôn trọng luật lệ giao thông để bảo vệ sinh mạng của mình và của người khác. Đó là kiểu giữ luật của nhiều kinh sư và biệt phái trong đạo Dothái, Họ tuân giữ tỉ mỉ 673 điều khoản trong Cựu Ước nhưng lại không hiểu tinh thần luật Chúa nằm ở lòng yêu thương chân thành đối với Chúa và tha nhân. Nên Đức Giêsu nói hôm nay: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào nước Trời”.

*2. Tinh thần tự do của những con cái Chúa

*a/ Đức Giêsu đến để đem lại cho con người sự tự do hoàn toàn của những người con Thiên Chúa. Ngài là một “người tự do vượt bậc” đối với tội lỗi đối với cái chết, đối với ma quỷ và đối với lề luật. Tự do đối với tội lỗi là vì Ngài đã yêu thương trọn vẹn, chân thành và quảng đại, trong khi tội lỗi là sự từ khước yêu thương. Đối với cái chết vì Ngài sẵn sàng đón nhận nó để rồi sống lại hiển vinh thay vì né tránh, trốn chạy nó. Ngài đã tiêu diệt tên địch thù cuối cùng là tử thần (x. 1Cr 15,26) để hứa ban sự sống vĩnh hằng cho những ai tin vào ngài. Tự do đối với ma quỷ. Vì Ngài đã chữa trị bao nhiêu người bị quỷ ám, giải phóng họ khỏi những điều áp bức, bệnh tật mà ma quỷ gây nên cho con người.Tự do đối với lề luật vì Ngài đã đi sâu vào tinh thần yêu thương của mọi lề luật để dạy chúng ta tuân giữ. Luật tôn trọng sự sống chẳng hạn: không phải chỉ giết người mới phạm luật, nhưng những thái độ hờ hững lạnh nhạt, những lời nói đay nghiến, chỉ trích cũng đều đáng lên án vì gây tác hại đến sự sống của người khác.

Do đó, ngài mới quả quyết rằng: “Ai giận anh em mình thì cũng đáng bị đưa ra toà rồi”. Luật pháp “cấm ngoại tình” nhưng tinh thần của lề luật ấy là muốn bảo vệ sự thanh khiết toàn vẹn của con người. Vì vậy Ngài mới dạy: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. Rất nhiều khi chúng ta an tâm khi giữ đúng điều răn thứ 6 và thứ 9: không làm điều dâm dục, không muốn vợ chồng người. Nhưng chúng ta lại vẫn thích thú với sách báo, phim ảnh, câu chuyện tục tĩu, dâm ô. Chúng ta có lẽ đã quên tinh thần của các điều răn ấy.

*b/ Giữ luật với tinh thần tự do và tình yêu. Do đó, để phát huy tự do của mình một cách trọn vẹn, chúng ta cần phải gắn bó mật thiết với Đức Giêsu, hay nói đúng hơn và cụ thể hơn là ta hãy chọn Đức Giêsu và hành động theo lời dạy của Ngài. Đó là lẽ “khôn ngoan nhiệm mầu” của Thiên Chúa được thánh Phaolô nói đến trong bài đọc thứ hai ngày hôm nay.

Quả thật, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã chọn Ngài, đã thành một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. Điều còn thiếu là chúng ta chưa hoàn toàn hành động theo lời dạy của Ngài: tất cả giới luật và dạy dỗ của Ngài chỉ quy về một điều duy nhất là: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”. Chính tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua nô lệ vào luật pháp để đạt tới tinh thần tự do của những con cái Thiên Chúa. Vì thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13, 8) và thánh Augutinô nhắc nhở: “Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn.”

*c/ “Mầu nhiệm của tự do”. Ngày nay con người thường hiểu lầm về tự do, không phân biệt tự do tương đối với tự do tuyệt đối, nên đã lạm dụng tự do của mình. Con người đã muốn tách rời tự do ra khỏi tương quan cốt yếu và cơ bản của nó với sự thật và chuẩn mực luân lý. Do đó, đã gây nên bao tai họa khủng khiếp cho cá nhân và xã hội. Thí dụ: cụ thể là việc tự do muốn uống bao nhiêu rượu thì uống, dẫn đến tai nạn khi lái xe trong cơn say, cho đến những cuộc bạo động, chém giết, đập phá, cướp bóc nhân danh tự do đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới.

Khi đi từ mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Pl 2, 7-8), chúng ta hiểu rằng: vâng phục và tự do không mâu thuẫn với nhau đời sống của Đức Giêsu minh chứng rằng mầu nhiệm về tự do của con người là con đường vâng phục ý muốn của Chúa Cha bằng tình yêu của người con hiếu thảo: càng yêu thì càng muốn vâng phục, và càng vâng phục thì con người càng được tự do trong quyền năng của Thiên Chúa (x. Ga 10, 30;14, 11).

*Kết luận:

Chúa Giêsu phục sinh là biểu tượng của sự tự do viên mãn, mà con người mơ ước vì Ngài cho chúng ta hiểu rằng, mình không còn bị giới hạn bởi vật chất, không gian, thời gian và được sống như con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên để đạt được điều đó chúng ta cần phải trải qua khổ nạn và thập giá của sự vâng phục Chúa Cha như Đức Giêsu. Sự vâng phục đầy tình yêu như Ngài sẽ làm cho các luật lệ trở thành nhẹ nhàng và đem lại ơn cứu độ.

 

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- A

LỀ LUẬT MANG DÁNG ĐỨNG TÌNH YÊU– Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Sau khi dân Ít-ra-en được Mô-sê dẫn ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi cuộc đời lầm than nô lệ, thì Thiên Chúa muốn họ hướng về tương lai trong một niềm hy vọng ngút ngàn để xây dựng cuộc đời mới trong tự do, tươi sáng.

Và để làm nền tảng cho cuộc sống mới của Đoàn Dân Được Tuyển Chọn, Chúa đã trao ban cho họ một “bảng hiến pháp” tuyệt vời, đó là MƯỜI ĐIỀU RĂN, mà Ngài đã long trọng khắc ghi vào bia đá, giao cho Mô-sê từ trên đỉnh núi Si-Nai trong khung cảnh uy hùng khói bốc, lửa dậy.

– Kể từ đây, họ sẽ được tự do thờ phượng một Thiên Chúa đích thực mà không còn phải nô lệ cho những thần tượng giả tạo hay những thứ mê tín dị đoan của người Ai Cập và dân ngoại. (Điều răn I)

– Kể từ đây, họ sẽ chọn Thiên Chúa là Cha đang đồng hành và hiện diện giữa họ, để họ có thể gặp gỡ và thân thưa cách thân tình, phụ tử, chứ không còn là một thần tượng xa vời, kết buộc con người bằng những lời thề thốt giả tạo. (Điều răn II).

– Kể từ nay, họ có một ngày nghĩ lễ Sabat tuyệt vời trong tuần để dành riêng thờ Chúa và sống đậm đà tình huynh đệ cộng đoàn, chứ không phải nơm nớp lo sợ cúi đầu để thờ phượng lung tung những thần tượng trống rỗng và bị trói buộc mỗi phút mỗi giây trước những quyền lực phù phiếm và trần tục. (Điều răn III)

Do Thái không còn có thể xảy ra việc giết người, ngoại tình, trộm cướp, làm chứng gian, cáo tội đồng loại….(Các điều răn V, VI, VII, VIII)

– Kể từ nay trong cộng đồng và trong xã hội Do Thái không ai còn nghĩ đến chuyện ham muốn nhà cửa hay mê vợ của kẻ khác, hoặc muốn chiếm hữu tớ trai tớ gái hoặc bò lừa và bất cứ vật gì của người đồng loại….(Điều răn IX, X)

Đây quả thật là giấc mơ cho tương tai hoàn toàn được giải phóng và tự do, giải phóng khỏi sự sợ hãi của những tộc ác và tự do khỏi những cơn cám dỗ, khỏi những khuynh hướng làm ác.

Nhưng rồi, qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, cho tới thời Chúa Giêsu, Bản Luật Mười Điều Răn đó, đã được người Do Thái chú giải, bày đặt, thêm thắt thành hàng ngàn khoản luật nhỏ, đến độ biến thành một “mớ bòng bong lề luật” truyền khẩu chi li, rườm rà, gần như che khuất hết vẽ đẹp rạng ngời và trong sáng thánh thiện của Mười Điều Răn. Thay vì Giới Luật của Chúa nhằm để giải thoát và cho con người được tự do trong tình yêu, lề luật đã trở thành những thứ giây chằng chịt trói buộc, biến mối tương quan giữa người và Thiên Chúa trở nên xa cách và người với người trở nên lạnh lùng.

Vì luật họ để mặc những anh chị em bịphung cùi chết dần chết mòn trong hoang mạc với cuộc sống hoàn toàn bị cách ly, gạt bỏ.

Vì luật, họ chẳng thèm giao tiếp với những anh chị em thu thuế, những người Samari, những bà con lương dân thấp cổ bé miệng.

Vì luật họ khinh thường và loại trừ những hạng người như cô gái làng chơi Maria Mađalêna, hay chàng Gia-kê trưởng ty thuế vụ, hoặc người mù từ lúc mới sinh lê lết bên bờ cuộc sống…

Họ đã biến tôn giáo mặc khải trở thành tôn giáo của luật lệ, và biến lề luật trở thành những chữ viết vô hồn trong sách vở của họ hay trên những tua áo họ mang trên mình mà hoàn toàn không còn chút sức sống của tình yêu, của con tim để dành cho Thiên Chúa là Cha và cho mọi người là anh em.

Chính Đức Kitô đã phê phán nặng nề thái độ nầy của đám biệt phái, luật sĩ đương thời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa” (Mt 15,3)

Đức Kitô đã đến để đem lại sức sống và vẽ đẹp tuyệt vời cho lề luật. Hôm nay, Ngài chính thức tuyên bố với những tay biệt phái bảo thủ, từng theo dõi mọi lời rao giảng và mọi hành vi của Ngài, những điều mà họ hoàn toàn dị ứng với nếp nghĩ và ứng xử tôn giáo của họ.

“Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”

Và điều cốt yếu mà Đức Kitô muốn thiết lập để kiện toàn Lề Luật đó chính là Tình Yêu. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và Tình Yêu đối với con người. Mọi luật lệ đều phải quy chiếu vào nội dung cơ bản nầy. Đức Kitô muốn những ai là môn sinh của Ngài phải chu toàn Lề Luật trong tinh thần đó:

“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

Sự công chính mới mà Ngài muốn các môn sinh của Ngài thực hiện không được dừng lại trên việc tuân thủ cách hình thức và đúng mực theo quy định của Lề Luật; nhưng tiên vàn đó là thái độ tinh thần và con tim làm nền tảng và định hướng cho mọi ứng xử.

Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. …

Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. …

Qua những lời tuyên bố cụ thể đó, Chúa Giêsu muốn nội tâm hóa lề luật, để con người không chỉ dừng lại trước việc thực thi và tuân thủ máy móc; nhưng là phải có một trái tim, một tinh thần, một tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8) và thánh Augustinô cũng nhắc nhở: “Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn” (Ama et fac quod vis).

Chúng ta đang sống trong một xã hội mà “luật lệ thì đầy dẫy”, nhưng người ta chỉ muốn xài “luật rừng”.

Luật cấm giết người ai mà không biết. Nhưng mỗi ngày có biết bao nhiêu vụ giết người man rợ đã xảy ra. Vào đúng ngày Lễ Tình Nhân hôm qua (14/2/2014), tại Đà Nẵng đã xảy ra một vụ án mạng kinh khủng. Một chàng thanh niên đã đâm chết người yêu rồi nhảy lầu tự tử.

Luật thương mại, sản xuất có đầy đấy chứ. Nhưng ngoài thị trường hàng giả, hàng nhái đầy dẫy. Luật giao thông có đấy, nhưng hàng ngày biết bao tai nạn thương tâm vì người ta bất cần luật…

Luật cấm mê tín dị đoan có đấy chứ. Nhưng từ cán bộ trung ương đến hàng hàng lớp lớp dân chúng thay nhau mà cướp ấn của Đền Trần trong ngày hội khai ấn vừa qua tại Ninh Bình để mong được cầu tài và phúc lộc vật chất, cho dù phải dẫm đạp lên nhau, sống chết mặc kệ.

Phải chăng vì con người hôm nay đã đánh mất cái tâm, cái tinh thần tương thân tương ái, cái trái tim để yêu thương và tương kính lẫn nhau.

Như vậy, chúng ta, những người được chính Đức Kitô dạy bảo: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”, chúng ta phải là chứng nhân cho một thế giới mới, một thế giới được giải thoát khỏi những u mê lầm lạc của mê tín dị đoan và nô lệ cho những thần tượng giả mạo; một thế giới đầy tình huynh đệ yêu thương trong mái nhà của con cái cùng một Cha chung duy nhất.

Và con đường để thực thi đời sống chứng tá đó không gì khác là cùng nhau tuân giữ và thực hành Lề Luật của Thiên Chúa trong tinh thần yêu thương mà Đức Kitô đã dạy. Nói cách khác, luật của người Kitô hữu là luật mang dáng đứng tình yêu.

home Mục lục Lưu trữ