Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 92
Tổng truy cập: 1373076
DỌN ĐỜI
Dọn đời - Trầm Thiên Thu
Mở đường, vạch lộ, mong chờ Đức Chúa
San lũng, bạt đồi, tiếp đón Thiên Sai
Đó là lời kêu gọi trong Is 40:3-4. Chấn chỉnh là việc phải làm cả đời chứ không thể theo kiểu “phong trào”, hô thì mạnh mà làm chẳng bao nhiêu. Chấn chỉnh để có thể sẵn sàng đón Chúa đến, chờ đợi với mức độ như Thánh Vịnh gia: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông” (Tv 130:6).
Cuộc sống đời thường có nhiều thứ phải dọn dẹp, sắp xép gọn gàng và làm vệ sinh. Có những việc phải làm hàng ngày, dọn dẹp liên tục, dù phạm vi chỉ là khoảng gia đình.
Thân thể chúng ta phải tắm hàng ngày, mặt mũi và tay chân phải rửa nhiều lần trong ngày. Xác đã vậy, hồn cũng thế, rất nhiều thứ bừa bộn, bẩn thỉu, đầy bụi tội lỗi, chắc chắn “dọn đời” là việc cần làm mọi lúc, cần được dọn dẹp và chấn chỉnh một cách nghiêm túc để duy trì tình trạng sạch sẽ, tươm tất. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân” (Tv 68:5a).
Dọn đời cũng là dạng xét mình mỗi tối trước khi đi ngủ, xét mình trước khi xưng tội, và cũng là dạng đặc biệt như thể “dọn mình chết” vậy. Thật đúng là như thế, bởi vì “hôm nay còn gặp nhau đây, ngày mai biết có thế này hay không”. Thời giờ và tương lai thuộc quyền của Thiên Chúa.
HẸN GIỜ
Có nhiều dạng hẹn giờ. Ngày nay người ta có các thiết bị giúp hẹn giờ báo thức, cụ thể là chiếc điện thoại di động, có lẽ không mấy người lại không có loại thiết bị này. Nhưng nguy hiểm nhất là hẹn giờ nổ cho bom, mìn. Tuy nhiên, đó là chúng ta hẹn giờ chứ giờ không hẹn chúng ta, và chẳng ai biết điều gì sẽ xảy ra.
Với ý tưởng đó, nhạc sĩ Jay Livingston và Ray Evans đã viết ca khúc “What will be will be – Que Sera Sera – Điều Gì Đến Sẽ Đến (*) cho bộ phim “The Man Who Knew Too Much” (Người Biết Quá Nhiều, năm 1956), thủ vai chính là Doris Day và James Stewart. Gọi là “biết quá nhiều” nhưng lại chẳng biết được gì. Thời gian là của Chúa, chúng ta được Ngài cho quản lý.
Có khởi đầu ắt có kết thúc, sau thời gian mong chờ là lúc mãn nguyện (hoặc thất vọng). Đó là lẽ thường. Nhưng về tâm linh, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã xác định: “Hãy an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Làm gì Chúa cũng báo trước, Chúa bảo chúng ta mong chờ nghĩa là Ngài đã “hẹn giờ”, nhưng không ai biết chính xác là lúc nào, thế nên mới cần “dọn đời” sẵn sàng.
Chuỗi ngày tháng mong chờ đó được Chúa đến gắn kết chúng ta qua sự sám hối và đền tội. Ngôi Hai đến để thực hiện Lòng Thương Xót. Chính Lòng Thương Xót đó được thể hiện trọn vẹn đối với những người biết ăn năn và chấn chỉnh theo lời mời gọi: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40:3-4). Sa mạc ở đây không phải là sa mạc Sahara hay bất kỳ một sa mạc nào, mà đó là Sa-Mạc-Tâm-Hồn, sa mạc này ở ngay giữa những sinh hoạt đời thường ồn ào náo nhiệt. Tâm hồn cần tĩnh lặng như sa mạc để có thể lắng nghe Tiếng Chúa.
Chỉ có thể gặp Thiên Chúa nơi tĩnh mịch. Khi đã “gặp” được Ngài, người ta sẽ không thể im lặng mà sẽ thông báo cho người khác biết: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40:9-10), đồng thời lòng họ tràn ngập hạnh phúc vì nhận thấy “lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:11). Đó là một thế giới đại đồng mà ai cũng hằng mơ ước.
Sự thật đó vừa minh nhiên vừa mặc nhiên vì Thiên Chúa “chúc bình an cho dân Ngài, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Ngài” (Tv 85:9). Thiên Chúa luôn trung tín trong mọi Lời Ngài đã tuyên bố, không bao giờ nuốt lời hoặc chậm trễ: “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2 Pr 3:9). Sự mong chờ Chúa đến sẽ được bù đắp: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao” (Tv 85:11-12).
Trong xã hội, mỗi khi đón tiếp một vị chức sắc, dù đời và đạo, chúng ta luôn chuẩn bị chu đáo: Làm vệ sinh, dọn dẹp cho gọn gàng, sơn phết cho đẹp mắt, trang trí lộng lẫy,… huống chi đối với Thiên Chúa, Vua của các vua và Chúa của các chúa. Chúng ta cũng phải dọn tâm hồn cho sạch sẽ và ngay thẳng để đón tiếp Ngài, nhưng Ngài không muốn chúng ta dọn đường cho Ngài theo kiểu phàm tục mà theo Ý Ngài: “Công lý đi tiền phong trước mặt Ngài, mở lối cho Ngài đặt bước chân” (Tv 85:14). Ngài đến để cứu những gì đã mất (Lc 19:9) và phục hồi nhân phẩm cho chúng ta.
Mỗi dịp Giáng Sinh, người ta lo làm hang đá, trang trí nhà thờ, trình diễn Thánh Ca vàhoạt cảnh Giáng Sinh,… Tất cả các hoạt động đó cũng cần thiết, nhưng vẫn chỉ là thứ phụ, cái cần thiết nhất là chuẩn bị “máng cỏ tâm hồn” của chính mỗi chúng ta để Vương Nhi Giêsu ngự xuống. Thiên Chúa hẹn giờ với chúng ta rồi, vậy chúng ta cũng phải hẹn giờ với Ngài.
ĐIỂM GIỜ
Giờ đã được hẹn thì giờ sẽ điểm. Chắc chắn như vậy. Chú ý “nhìn’ vào các dấu chỉ của thời đại, các sự việc hoặc sự kiện vẫn xảy ra hàng ngày, chúng ta đủ thấy rõ: GIỜ ĐÃ BẮT ĐẦU ĐIỂM. Do đó mà không thể nấn ná, chần chừ, hoặc lần lữa, mà phải CẤP TỐC THAY ĐỔI CÁCH SỐNG cho kịp, càng sớm càng tốt!
Theo cách thức trần gian, con người chỉ có thể tính tháng, tính ngày, thời gian dài hay ngắn tùy mức độ sự việc. Có khi vài ngày cũng là dài, và có khi vài năm vẫn là ngắn. Nhưng Thánh Phêrô cho biết cách tính của Thiên Chúa: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” (2 Pr 3:8). Ngày của Chúa sẽ vô cùng bất ngờ, có thể ngay sau khi chúng ta vừa chợt nghĩ đến, Ngài đến như kẻ trộm và như chủ về bất ngờ: “Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2 Pr 3:10). Chúa đến theo lời Ngài hứa, Ngài đến để ĐÒI CÔNG LÝ CHO CHÚNG TA. Thật là diễm phúc, vì nỗi mong chờ của chúng ta là “mong đợi Trời Mới và Đất Mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3:13). Tuy nhiên, chúng ta không thể giả bộ mong chờ, làm ra vẻ chờ đợi, nhưng phải sống như thánh Phêrô nói: “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em PHẢI CỐ GẮNG sao cho Người thấy anh chị em TINH TUYỀN, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3:14). Rất đáng quan ngại nên rất cần chú ý lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Liệu còn lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8). Một câu hỏi thật đáng quan ngại!
Ngày xưa, chính Chúa Cha đã sai sứ giả đi trước Chúa Con, sứ giả này sẽ dọn đường cho Chúa Con (x. Is 40:3). Sứ giả đó tên là Gioan và có “biệt danh” là Tẩy Giả – nghĩa là “người làm Phép Rửa”. Ông đã kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mc 1:3; x. Is 40:3). Đó là “tiếng kêu trong sa mạc” nhưng không phải ông nói cho đất cát và không khí nghe, mà ông kêu gọi chính chúng ta. Theo lời của chính ông Gioan Tẩy Giả thuật lại, ông đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa để CHỨNG TỎ LÒNG SÁM HỐI và để ĐƯỢC ƠN THA TỘI. Thời đó, mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông, họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan (Mc 1:5).
Có lẽ chẳng ai “bụi đời” bằng ông Gioan, bởi vì ông sống quá giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng (x. Mc 1:6). Theo lẽ thường, người giản dị là người sâu sắc, còn người coi trọng bề ngoài là người nông cạn (lấy bề ngoài che giấu cái trống rỗng bên trong). Hơn nữa, ông Gioan còn là người sống rất khiêm nhường. Ông xác định: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi KHÔNG ĐÁNG cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1:7). Đức khiêm nhường rất quan trọng, bởi vì ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG là NỀN TẢNG của “tòa nhà nhân đức”. Người sống khiêm nhường không hề quản ngại chi cả.
Trong khi tích cực “dọn dẹp” cuộc sống cho tươm tất, người ta không thể không sám hối và đền tội. Nhưng để có thể sám hối và đền tội, người ta phải sống khiêm nhường. Người khiêm nhường thì luôn giản dị, không cầu kỳ. Đúng là một chuỗi hệ lụy tuyệt vời: Người sống giản dị sẽ biết sống khiêm nhường, người khiêm nhường sẽ biết sám hối, người sám hối sẽ chịu đền tội, và hệ lụy tất yếu tiếp theo là ĐƯỢC CỨU ĐỘ. Ai chân thành “dọn đời” như vậy thì Vương Nhi Giêsu rất vui mừng ngự vào “máng cỏ” lòng họ.
Là người diễm phúc được đi tiền phong và được coi trọng, nhưng Thánh Gioan khiêm nhường minh định: “Tôi làm phép rửa cho anh chị em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh chị em trong Thánh Thần” (Mc 1:8). Thật vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, đặc biệt là về đời sống tâm linh, thế nhưng Chúa Thánh Thần thường xuyên bị chúng ta lãng quên! Nhân dịp tốt là Mùa Vọng này, chúng ta cùng nhau cố gắng canh tân và chấn chỉnh, bởi vì Thiên Chúa đã ĐIỂM GIỜ thật rồi. Cầu xin Ngài thương cứu chúng ta!
Lạy Thiên Chúa tình thương, Ngài thực sự muốn tấm lòng nhân ái chứ đâu cần bất cứ loại lễ tế nào, bởi vì Ngài nhập thế không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi tội nhân (x. Mt 9:13). Vâng, lạy Chúa, mặc dù con khốn nạn và hoàn toàn bất xứng, nhưng con may mắn được nhận biết Ngài và chân thành tín thác nơi Ngài. Lạy Đấng Thiên Sai, xin Ngài đến canh tân và cứu độ nhân loại để mọi người được sống dồi dào (x. Ga 10:10). Con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
27. Dọn đường - Trầm Thiên Thu
Dọn dẹp là công có vẻ rất ư bình thường, đôi khi người ta vẫn gọi là “những việc không tên”, thế nhưng công-việc-nhỏ-mọn đó lại không hề đơn giản, khó thực hiện lắm. Việc NHỎ thì KHÓ, việc LỚN thì ỚN. Và chỉ muốn “an nhàn”!
Dọn nhà cửa đã khó rồi, dọn đường càng khó hơn. Khi sắp có “ông lớn” nào đến “kinh lý” một nơi nào đó, người ta chuẩn bị đủ thứ tươm tất, giăng cờ xí rợp trời, biểu ngữ “kêu” lắm, chi phí tốn kém lắm. Xe hơi bóng lộn đậu tại chỗ “ưu tiên”. Sau đó, “ông lớn” đi quan sát khu vựcc chính, phát biểu “đôi lời”, rồi tiệc tùng “hoành tráng” (đời hoặc đạo cũng thế thôi). Chỉ tội đám dân đen! Còn có “lối nhỏ” nào dành cho Thiên Chúa ngự đến nữa không? Nói cho cùng, quan trọng nhất vẫn là Con Đường Tâm Linh, Con Đường Chân Lý và Công Lý.
Để dọn đường cho Chúa đến, Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; mọi núi đồi, phải bạt cho thấp; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4-6). Thánh Luca ghi lại rất chi tiết. Vâng, đó chính là con-đường-tâm-hồn của chúng ta. Con đường này dơ bẩn nhất mà cũng khó dọn nhất! Con đường ngắn nhất mà dài nhất là Con Đường Yêu Thương, vì nói dễ mà làm khó. Chỉ có từ miệng tới tay mà mãi không tới đích!
Ngày xưa, Thiên Chúa dạy: “Hãy an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Cha mẹ thấy con cái sai thì sửa dạy, thậm chí là phạt, nhưng đau lòng lắm, nghiêm khắc ngoài mặt nhưng quay đi mà khóc, hoặc nuốt nước mắt vào trong. Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Ngài phạt “gấp hai lần tội phạm” là để chúng ta tỉnh ngộ. Sau đó Ngài lại vỗ về, ủi an. Đó là lòng thương xót sâu thẳm khôn dò của Ngài.
Để chúng ta có thời gian kịp ăn năn, Thiên Chúa đã sai người tiên phong Gioan Tẩy Giả để “mở đường máu” cho chúng ta. Trước đó, ngôn sứ Isaia đã cảnh báo: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5). Đường làng có một số cỏ dại nhưng ít quanh co, có những con đường làng vẫn thẳng tắp và phẳng phiu. Nhưng “đường lòng” của chúng ta có đủ thứ cỏ dại, khúc khuỷu và gồ ghề lắm: Kiêu ngạo, ích kỷ, gian dối, lọc lừa, tự ái,...
Bổn phận của chúng ta là dọn sạch và làm đẹp “đường lòng” của chính mình, nhưng chúng ta cũng có trách nhiệm “thông báo” cho người khác biết để họ cũng dọn “đường lòng” của họ: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy TRÈO lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật MẠNH. Cất tiếng lên, ĐỪNG SỢ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: ‘Kìa Thiên Chúa các ngươi!’. Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:9-11). Thiên Chúa xử tội bất cứ ai, không thiên tư tây vị, nhưng Ngài cũng yêu thương mọi người. Để có thể mạnh mẽ lên tiếng bênh vực công lý nhưng bất bạo động, người ta phải thực sự can đảm.
Trên hành trình tâm linh cũng vậy, khi đi theo Con Đường Chân Lý và Công Lý, phải can đảm mới “không sợ” mà dám “ăn nói”, thành thật và thẳng thắn. Rất nhiều lần Kinh Thánh đã động viên: “Đừng sợ!” (Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 43:1; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Is 41:13; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18).
Dám nói thẳng nói thật thì sẽ bị người ta ghét, thậm chí có thể bị hại. Ông Gioan Tẩy Giả bị cắt thủ cấp chỉ vì “tội” thẳng thắn và thành thật. Chúa Giêsu bị giết chết thê thảm cũng chỉ vì “tội” dạy người ta sống thành thật và thẳng thắn, bị nhà nước La Mã cho là “xúi giục và xách động dân chúng nổi loạn”. Nhưng Ngài vẫn thẳng thắn xác nhận với Tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37).
Khi can đảm sống chân thật và thẳng thắn bảo vệ chân lý và công lý, có thể chúng ta bị người khác xa lánh, và chúng ta cảm thấy buồn, nhưng tâm hồn sẽ an bình, tức là được hưởng “niềm vui ơn cứu độ” của Thiên Chúa. Dĩ nhiên niềm vui này không giống như niềm vui trần tục.
Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:9-10). Thiên Chúa chỉ yêu quý những ai chân thật, có “đường lòng” không quanh co, và Ngài cũng chỉ đi trên Con Đường Công Lý để bảo vệ Chân Lý tới cùng: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85:11-14).
Ai cũng muốn sống trong Hòa Bình, muốn vậy thì phải thực hiện Công Lý. Hòa Bình và Công Lý luôn nối kết chặt chẽ với nhau. Thật là thương đám dân đen, họ khổ vô cùng, bị chèn ép đủ kiểu, đủ dạng, ngóc đầu không nổi, đôi khi họ cảm thấy thất vọng lắm, vì thế họ luôn sống trong “mùa vọng” triền miên. Khoảng mong chờ của người đau khổ luôn dài lê thê. Họ như đất hạn chờ mưa, họ khao khát Mưa Giêsu gội mát cuộc đời họ trong Biển Cứu Độ, và được sống trong Vương Quốc Bình An.
Cảm giác lâu hay mau là do ý tưởng phàm nhân, chứ Thiên Chúa không như vậy. Thánh Phêrô nhắc nhở: “Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2 Pr 3:8-9). Ôi, lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi diệu kỳ! Chúng ta nghe nói về ngày tận thế quá nhiều lần, chúng ta cảm thấy lâu, thậm chí có thể cho là “chuyện đùa dai” hoặc “chuyện hù dọa”, nhưng thực ra đó là sự kiên trì của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mùa Vọng “nhắc nhở” chúng ta về Ngày Ấy, chắc chắn nhất và “gần” nhất là chính Ngày Chết của mỗi chúng ta. Vâng, phải dọn “đường lòng” hằng ngày, kẻo mà… không kịp!
Vì thế, đừng quên điều này: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2 Pr 3:10). Tại sao? Thánh Phêrô giải thích: “Muôn vật phải tiêu tan như thế thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng” (2 Pr 3:11-12). Cuối cùng, theo lời Thiên Chúa hứa, “chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”, và trong khi mong đợi ngày đó, chúng ta phải cố gắng sao cho Ngài thấy chúng ta “tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3:14).
Lời Chúa hôm nay là đoạn khởi đầu Tin Mừng theo Thánh sử Mác-cô (Mc 1:1-8), đề cập lời nói tới “chiến sĩ mở đường” Gioan Tẩy Giả trong sách ngôn sứ Isaia: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Và đúng theo lời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Ngày đó, mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Kinh Thánh cho biết phong cách rất “bụi” của ngôn sứ Gioan: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông Gioan sống “bụi đời” nhưng nghiêm túc trong cách sống với Thiên Chúa và tha nhân. Điều này nhắc nhở chúng ta đừng xét người theo dáng vẻ bề ngoài, vì “chiếc áo KHÔNG làm nên giáo sĩ và tu sĩ”. Tương tự, “bằng cấp KHÔNG là thẻ căn cước của người giỏi”.
Ông Gioan có bề ngoài bình thường nhưng lại là người vô thường, ông như “siêu nhân” nhưng lại khiêm nhường. Ông xác định: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới là Number One, là số Dzách. Chúng ta đều là số Zero!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết khiêm nhường với mọi người, biết bảo vệ Chân Lý và Công Lý, biết mau mắn dọn “đường lòng” để Đức Giêsu Kitô ngự đến. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
28. Chuẩn bị đón Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,1-8) kể lại công việc của ông Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu chưa xuất hiện. Nhưng thực ra, từ đầu cho đến cuối bài, mọi chi tiết đều có liên quan đến Người và đều chỉ mang một ý hướng chính yếu là cung cấp những chỉ dẫn về vị thế và nhiệm vụ của Người.
1. Mở đầu là lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (c.1). Hạn từ “khởi đầu” (arkhè) có thể được hiểu theo nghĩa thời gian hoặc theo nghĩa nguyên nhân. Hiểu theo nghĩa thời gian, nó chỉ điểm khởi đầu của một chuỗi các biến cố và thực tại. Hiều theo nghĩa nguyên nhân, nó chỉ tính chất nguồn khởi của thực tại được đề cập. Trong c.1 này, arkhè vừa mang nghĩa thời gian vừa mang nghĩa nguyên nhân. Điều được đề cập sẽ vừa là khởi điểm vừa là nguồn khởi của Tin Mừng mà Hội Thánh loan báo.
Nhưng điều được đề cập ở đây là gì? Nói cách khác, hạn từ arkhe ở c.1 quy chiếu về thực tại nào? Cái gì là arkhè của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố? Ở đây, hạn từ này có thể quy chiếu về phần dẫn nhập của sách Mc, tức là phần kể về giai đoạn chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu (1,2-13); hoặc quy chiếu về toàn bộ cuốn sách. Có lẽ nên ưu tiên hiểu theo cách thứ hai: công trình của Đức Giêsu (mà đỉnh điểm là cái chết và sự phục sinh) chính là khởi đầu, nguồn mạch và nền tảng của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố.
Tin Mừng được diễn đạt trong hình thức trọn vẹn: Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Ở trung tâm của sứ điệp, như vậy, không phải là một giới luật hay một lời hứa hẹn, mà là một sự kiện thực tế, rằng con người lịch sử – cụ thể Giêsu chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Lời loan báo này liên quan đến căn tính của Đức Giêsu và cho chúng ta biết Ngài là ai, vừa xét trong vị thế của Ngài đối với nhân loại (“Đấng Kitô”), vừa xét trong tương quan của Ngài với Thiên Chúa (“Con Thiên Chúa”). Đối với nhân loại, Ngài là Đấng Mêsia. Hạn từ này cho thấy một cách rõ ràng công trình cứu độ của Đức Giêsu không bị giới hạn vào cảnh vực cá nhân, mà tác động trực tiếp đến cảnh vực xã hội – cộng đồng, vì Vua Mêsia là vua và là Đấng cứu độ không chỉ của một cá nhân. Đối với Thiên Chúa, Đức Giêsu ở trong tương quan rất đặc biệt: tương quan con thảo. Tất cả những kẻ đến trước đều chỉ là các đầy tớ (x.12,2-5), còn Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài (x.1,1; 9,7). Mối tương quan này là thực tại riêng biệt của Đức Giêsu, làm cho Người khác hẳn tất cả mọi con người khác trong nhân loại. Mối tương quan này cũng là nền tảng của vị thế và nhiệm vụ của Người đối với thế gian.
Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh không phải là chuẩn bị cho một lễ hội vào dịp cuối năm, mà chính yếu và thực chất là chuẩn bị để đón Đấng ấy: Người là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa. Chúng ta phải đọc lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh ở câu đề tựa Mc 1,1 trong khung cảnh Mùa Vọng với ý thức đó.
2. Sau câu đề tựa (c.1) là ba đoạn văn nhằm làm sáng tỏ dung mạo của Đức Giêsu trong giai đoạn lịch sử đầu tiên của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ gồm đoạn thứ nhất (cc.2-8), nói về hoạt động của ông Gioan Tẩy Giả.
Trước tiên là một lời ngôn sứ được trích dẫn: “Trong sách ngôn sứ Isaia có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (cc.2-3). Với lời trích dẫn này, tác giả Mc muốn làm nổi bật mối liên hệ với sứ điệp của Cựu Ước. Có một sự tương ứng trực tiếp giữa tiếng hô trong oang địa (Is 40,3) với sự xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả trong hoang địa (Mc 1,4). Sự xuất hiện và các công việc của ông Gioan đã được ngôn sứ Isaia loan báo trước, và nơi ông Gioan, chương trình của Thiên Chúa bắt đầu đi vào giai đoạn thực hiện.
Thực ra, dưới danh nghĩa ngôn sứ Isaia, tác giả Mc gộp vào hai bản văn khác nhau: bản thứ nhất (c.2) trích từ Xh 23,20 và Ml 3,1; bản thứ hai (c.3) trích từ Is 40,3. Nhưng trong Mc 1,2 Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với Đấng đang đến, tức là với Đức Giêsu, chứ không phải với dân Israel. Biến cố Đức Giêsu đến là một biến cố có ý nghĩa đặc biệt; tính chất đặc biệt ngoại thường này được thể hiện trong sự kiện nó được chuẩn bị như là biến cố chính Thiên Chúa đến (Ml 3,1), bởi một sứ giả. Đó là điều hoàn toàn khác biệt, vì không bao giờ có ngôn sứ nào được chuẩn bị như thế. Con đường phải được chuẩn bị ở đây là con đường của Đức Chúa.
Rõ ràng tác giả Mc muốn khẳng định ngay từ khởi đầu rằng nơi Đức Giêsu, chính Đức Chúa đến với dân Người. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở rằng sự chuẩn bị của chúng ta trong Mùa Vọng này chính là sự chuẩn bị để đón Đức Chúa. Đấng đang đến là Đức Chúa, chứ không phải là một lễ hội, cho dù là lễ hội của Đạo Chúa.
3. Đúng theo lời Kinh Thánh được trích dẫn ở cc.2-3, “Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa” (c.4a). Ông có nhiệm vụ kép: kêu gọi dân chuẩn bị (cc.4-5) và rao giảng về Đấng đang đến (cc.7-8). Những mô tả về cách trang phục và ăn uống của ông Gioan (c.6) giúp cho người ta hiểu rõ hơn về ông và nhiệm vụ của ông.
Trước hết, ông Gioan “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (cc.4b-5). Chuẩn bị đón Đức Chúa, có bốn điều phải làm: sám hối, thú tội, chịu phép rửa và được ơn tha tội. Hai yếu tố đầu nhấn mạnh sự thanh tẩy khỏi tội lỗi; hai yếu tố sau nhấn mạnh sự giao hòa với Thiên Chúa. (Đó cũng phải là hai yếu tố quan trọng trong việc chúng ta chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng này và trong suốt cuộc đời). Ông Gioan thành công rực rỡ trong nhiệm vụ: “Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông” (c.5). Thực ra, hoạt động của ông Gioan có phần “lập dị”. Thứ nhất, ông không đến với người ta như các ngôn sứ đã làm và như chính Chúa Giêsu cũng sẽ làm. Ông ở yên trong hoang địa và mọi người kéo đến gặp ông ở đó. Thứ hai, ông Gioan làm phép rửa trong nước sông Giorđan. Bình thường, nước sông không thể được sử dụng để cử hành việc thanh tẩy theo nghi thức. Vì thế, hàng lãnh đạo tôn giáo giữ khoảng cách với công việc của ông Gioan, và dân chúng đến với ông là đang làm một hành động đặc biệt, vượt khỏi khung cảnh của những thực hành tôn giáo bình thường.
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” (c.6). Cách trang phục này chứng tỏ ông Gioan chỉ sống cho một mình Thiên Chúa thôi. Thức ăn của ông hoàn toàn lấy từ hoang địa, và như thế, cắt đứt liên hệ với những sản phẩm của đất Palestina. Về thắt lưng, Gioan và Êlia là các nhân vật duy nhất trong Kinh Thánh mang thắt lưng bằng dây da, và đó là một nét khu biệt của ông Êlia. Ông Gioan được đồng hóa với ông Êlia và vì thế, mang một tầm quan trọng đặc biệt trong việc loan báo về căn tính của Đức Giêsu, Đấng đang đến. Ông Êlia là ngôn sứ chỉ hoàn toàn phục vụ Thiên Chúa, hướng trọn con người và sinh mệnh của mình về Thiên Chúa, và mọi điều ông làm chỉ là để dẫn dắt dân về với Thiên Chúa. Sự hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa đã là yếu tố đặc trưng làm nên dung mạo của Êlia và làm cho ông trở thành mẫu mực của các ngôn sứ. Thế mà ông Gioan lại được đồng hóa với ông! Điều đó có nghĩa là Đấng mà ông Gioan chuẩn bị dân chúng đón Người, phải là Đấng có một căn tính thật sự đặc biệt. Giống như Êlia, ông Gioan chỉ phục vụ một mình Thiên Chúa. Hành động của ông, vì thế, ngầm cho thấy phẩm giá cao cả của Đức Giêsu và chứng tỏ rằng nơi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đang đến với dân Người.
Ông Gioan còn có sứ mạng rao giảng minh nhiên về Đấng đang đến. “Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (cc.7-8). Rõ ràng là xét cả về quyền năng, cả về vị thế, cả về hành động, Đấng đang đến đều hơn hẳn ông Gioan, cho dù ông được Thiên Chúa sai đến và ông được đồng hóa với ngôn sứ Êlia.
Như vậy, bằng việc kêu gọi dân chuẩn bị, bằng cách trang phục và ăn uống của mình, và bằng lời rao giảng minh nhiên của mình, ông Gioan đã cho ta thấy Đấng đang đến là ai. Đó là chính Đức Chúa.
Trong Mùa Vọng, chúng ta chuẩn bị để đón chính Đức Chúa đến viếng thăm dân Người. Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa; nơi Ngài, chính Thiên Chúa đang đến và đón nhận tất cả nhân loại vào trong sự sống thần linh của Người.
29. Con chuẩn bị đón Chúa đến – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Theo lời Chúa hôm nay, chúng ta đang sống giữa hai thời đại của Chúa: thời đại Con Thiên Chúa giáng sinh và thời đại Con Thiên Chúa giáng lâm.
Thời đại Giáng sinh được tiên tri Isaia loan báo là thời đại an ủi và khuyên bảo ngọt ngào.
Con Thiên Chúa đến an ủi và khuyên bảo dân Người vì họ đang phải sống phục dịch cho thành dã man. Thành dã man này là thành Babylon, dân đang phải sống kiếp lưu đầy, là đế quốc La mã đang đặt ách nô lệ trên Giêrusalem, là vương quốc satan đang thống trị nhân loại. Dân đang phải phục dịch bọn chúng giữa chốn sa mạc, giữa cánh đồng hoang, giữa núi đồi lổm chổm, dưới thung lũng hố sâu.
Thiên Chúa đã an ủi dân, khuyên họ đừng sợ: “Thiên Chúa các ngươi đến đây rồi”. Người sẽ giải thoát khỏi nô lệ Babylon. Họ được trở về quê cha đất tổ của Abraham, của Isaac. “Chúa chăn dắt họ như mục tử, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Chiên con, Người ấp ủ vào lòng, chiên mẹ, Người tận tình săn sóc” (Is. 40, 1-5. 9-11).
Gioan cũng xuất hiện bên bờ sông Gióc-đan kêu gọi dân chịu phép rửa sám hối và chỉ cho họ biết “có Đấng quyền thế cao trọng hơn tôi, đang đến sau tôi, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần” (Mc. 1, 7-8). “Người sẵn sàng ban ơn cứu độ cho kẻ kính sợ Người. Người cho thành tín mọc lên từ đất thấp. Và cho công lý mưa từ trời cao. Chúa sẽ tặng ban nguồn ân huệ dồi dào, đất đai này trổ sinh nhiều hoa trái” (Tv. 84, 10.13.14).
Thời đại Giáng lâm cũng được Isaia và thánh tông đồ Phêrô loan báo. Đó là thời đại vinh quang của Chúa hiện đến. “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” (Is. 40, 10). “Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành sẽ bốc cháy tiêu tan, mặt đất và công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy nhường chỗ cho trời mới đất mới, đúng như lời Chúa hứa” (2P. 3, 4.10.13). “Người sẽ muôn đời ngự trị, cho dân Người được hưởng thái bình, thịnh vượng. Ân nghĩa tín thành nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên” (Tv. 85, 9.11). “Thiên Chúa ban diễm lệ vinh quang hạnh phúc cho tất cả những ai bước đi trọn lành” (Tv. 84, 12).
Chúng ta đang sống giữa hai thời đại huy hoàng đó. Nhờ vậy, chúng ta được hưởng nguồn ân huệ Giáng sinh, để biết chuẩn bị đón chờ Chúa Giáng lâm. Thánh Phêrô đã ngọt ngào khuyên nhủ chúng ta: “Có điều này, xin anh em đừng quên: Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm tựa như một ngày”. Thời gian trước mặt Chúa đều là hiện tại, quá khứ hay tương lai ngàn năm đều ở trước mặt Chúa. Cho nên, một ngày hay ngàn năm cũng như nhau. Thiên Chúa hằng hữu đời đời, không có thời gian ngày tháng thay đổi, không có thơ ấu lớn lên, trưởng thành, già cỗi tiêu tan. Người hoàn hảo trọn vẹn vô cùng. Lâu hay chóng, nhỏ hay lớn, xấu hay tốt, lành hay dữ là tự ta. Vì thế “Người tỏ lòng kiên nhẫn thương chờ đợi hết thảy ăn năn trở lại. Người không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Người sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm không phải để đánh bẫy, nhưng để anh em luôn luôn phải ăn ở thế nào, phải sống thánh thiện biết bao, phải tôn kính Thiên Chúa chừng nào! Khi ngày Thiên Chúa đến, anh em sẽ được hưởng trời mới đất mới” (2Pr. 3, 8-14).
Phúc cho chúng ta luôn biết chuẩn bị đón Chúa đến trong ngày quang lâm. Ai ra công ra sức dọn đường Chúa đến, biết làm cho sa mạc khô cằn thành xa lộ quang minh chính đại; trong chân lý của Chúa, biết san phẳng đồi núi thành cánh đồng sinh nhiều hoa trái thánh thiện, biết làm cho những thung lũng tối tăm đầy ánh sáng huy hoàng của Tin Mừng.
Như vậy, có dọn mình một ngàn năm, vẫn thấy mình bất xứng, vẫn chưa đủ để ra trước Thiên Nhan vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, một ngàn năm thấy chóng như một ngày. Nhưng ta đang sống trong cảnh tù đầy trần gian, nóng lòng mong mỏi khao khát Chúa đến, như sa mạc mong trời mưa xuống, như tù nhân mong ngày tự do, vì thế chúng ta cảm thấy một ngày lâu như ngàn năm: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”.
Lạy Chúa, xin tỏ lòng Ngài nhân ái. Ơn cứu độ Ngài, xin ban tặng cho chúng con.
----------------------------------------
CHÚ Ý: Chúa đến bất ngờ có hai lý do:
1. Để biết lòng trung thành ta đối với Chúa: đầy tớ bất trung nghĩ chủ còn lâu, sẽ ăn chơi, đánh đập, hành hạ tớ trai tớ gái.
2. Để cho ta luôn luôn biết tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị bằng lo làm nhiệm vụ, lo đón Chúa.
30. Sứ điệp Gioan Tiền Hô
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Sứ điệp của Gioan có giá trị nào đối với Kitô hữu chúng ta?
Tác giả Mác-cô mở đầu sách Tin Mừng bằng việc giới thiệu Gioan, vị sứ giả tiền hô của đấng Messia: “Khởi đầu Tin Mừng... Ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con…” Công việc tiền hô của vị sứ giả đã được xác định rõ, ông phải hô hào mọi người: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi!” Thế nhưng tôi vẫn thường tự hỏi: Gioan Tiền Hô có thật sự hiểu rõ Đấng mà ông đang nỗ lực kêu mời mọi người chào đón hay không? Điều này xem ra không được rõ cho lắm; có vẻ như ông vừa hiểu lại vừa không, chính vì vậy mà lời ông kêu gọi chỉ là chung chung, rất dễ gây ngộ nhận về Con Người sẽ đến và sứ điệp Tin Mừng của Ngài.
Điều Gioan tỏ ra biết về đấng Messia, người mà ông có nhiệm vụ tiền hô dọn đường, hoàn toàn bó gọn trong nội dung Cựu Ước, vốn đã rất phổ thông đối với người Do Thái đương thời. Messia - vị Thiên Sai - Đấng Được Sức Dầu phải là một vị đầy quyền uy thống trị, “Có Đấng quyền thế hơn tôi… Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Đối với một đấng như thế, Gioan kêu gọi dân chúng phải đón tiếp trong sợ hãi và kính phục. Các tác giả Mát-thêu và Lu-ca ghi rõ lời ông đe loi, “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?... Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3:7.10). Như vậy lời kêu gọi sám hối của Gioan quả có sức mạnh, nhưng hoàn toàn trong nội dung Cựu Ước, “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi!” (Is 40:3) Ngay cả khi tuyên bố, “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” Gioan vẫn hiểu đó là phép rửa trong sức mạnh của Đức Chúa, vì theo hiểu biết chung của người Do Thái, Thần Khí đơn giản chỉ là biểu hiện sức mạnh của Gia-vê.
Gioan còn phải tìm hiểu nhiều về dung mạo đích thực của đấng Messia mà ông được gởi tới dọn đường. Điều này đã được Phúc Âm minh chứng, nhiều lần trong suốt cuộc sống ông không ngừng nỗ lực tìm hiểu. Ngày cả tới lúc bị giam cầm trong ngục thất, ông vẫn còn loay hoay trong nghi vấn này và muốn tìm lời giải đáp cho chính mình cũng như cho các môn đệ của ông: “Ngài có thật là đấng phải đến, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đáp lại Đức Giêsu đã phác lên một dung mạo khác hẳn với hình ảnh ông vốn có về đấng Messia: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7:20.22). Đó là dung mạo của một đấng Thiên Sai đầy từ tâm và cứu vớt, ngược hẳn với Messia uy nghiêm xét xử mà ông từng rao giảng dọn đường. Đức Giêsu hiểu việc thay đối quan niệm như thế là không dễ chút nào, kể cả đối với vị tiền hô đáng kính nể của mình, Người nói thêm: “Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi!”
Nếu quả như thế thì một Kitô hữu như tôi khi tiến vào Mùa Vọng phải biết xác định rõ: Đấng mà tôi chuẩn bị đón rước trong thời gian này là ai? Giáo Hội giới thiệu cho tôi sứ điệp và diện mạo của Gioan Tiền hô, “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Thế nhưng tôi đâu phải là người Do Thái của Cựu Ước! Là Kitô hữu của Tin Mừng, tôi biết Đấng mà tôi được kêu gọi đón tiếp lại rất giầu từ tâm và hay thương xót; Người không đến để luận phạt, nhưng đến để cứu vớt và thứ tha. Vì thế việc sám hối và ‘dọn đường… sửa lối cho ngay thẳng…” của tôi sẽ không chỉ vì muốn xứng đáng đón tiếp một đấng cao cả quyền uy, lại càng không phải để ‘tránh cơn thịnh nộ’ vì ‘rìu đã đặt sát gốc’. Tôi nhìn nhận tội lỗi mình vì nhờ đó tôi càng ý thức mình ‘phận nghèo được nghe Tin Mừng’. Đúng hơn chính khi nhìn nhận mình tội lỗi, tôi lại càng tới gần hài nhi Giêsu nhân hậu và cứu độ hơn, đồng thời biến việc dọn đường trở thành niềm vui và hy vọng tràn trề. Phải chăng đó mới chính là điều Phụng vụ đang hướng chúng ta tới?
Tuy nhiên, đối với tôi cũng như đối với mọi người, vẫn luôn tồn tại nguy cơ ngộ nhận sứ điệp của Gioan, ngộ nhận ngay cả Tin Mừng Đức Kitô rao giảng, ngộ nhận cả huấn quyền cứu độ của Hội Thánh. Mùa Vọng là thời gian dành cho tôi, trong khi vẫn thành khẩn tiếp nhận sứ điệp sám hối, gia tăng nhận biết diện mạo nhân ái giầu xót thương của một Thiên Chúa đang đến để cứu vớt chứ không phải để luận phạt. Tôi không chỉ vọng về lễ Giáng Sinh, mà phải biến trọn đời sống Kitô hữu tôi thành một Mùa Vọng bất tận; vọng về tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, đấng yêu thương tôi. Công việc này thật khẩn trương và vô cùng quan trọng, cho Gioan cũng như cho chính tôi, vì “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi!”.
Lạy Đấng đang đến và con được mời gọi dọn đường đón tiếp. Xin cho con nhận biết dung nhan hiền dịu Chúa để, cho dầu con người con có bất toàn và tội lỗi đến đâu, với lòng chân thành sám hối, con càng vui mừng tiến ra đón Chúa với cánh tay và trái tim mở rộng; vì biết rằng Hài Nhi giáng sinh là đấng cứu độ chứ không phải là người luận phạt. Xin cho toàn nhân loại cùng con chia sẻ niềm vui Giáng Sinh, trong tâm tình ca khen cảm tạ tình yêu của Thiên Chúa giáng trần. Amen.
31. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng đều được định vị trong viễn cảnh của việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch Sử loài người.
Is 40: 1-5, 9-11
Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hãy an ủi dân Ngài trong cảnh cùng khốn và loan báo cuộc giải thoát gần kề.
2Pr 3: 8-14
Thánh Phê-rô nhắc nhở rằng không phải Thiên Chúa lỗi hẹn, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài trì hoãn để chúng ta có đủ thời giờ lập công tích đức trong khi chờ đợi trời mới và đất mới mà Chúa đã hứa cho chúng ta.
Mc 1: 1-8
Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)
Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã đọc bản văn của ngôn sứ I-sai-a thời hậu lưu đày, được gọi là I-sai-a đệ tam: dân Do thái đã được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày, trở về quê cha đất tổ và đang nổ lực tái thiết đất nước. Trong Chúa Nhật nầy, Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của vị ngôn sứ thời lưu đày. Bản văn này đưa chúng ta đi ngược về quá khứ: thời kỳ dân Do thái vẫn còn bị lưu đày ở Ba-by-lon vào những năm 550-539, cuộc giải thoát chưa xảy đến.
Vị ngôn sứ thời lưu đày nầy không ngừng đem đến những lời an ủi lớn lao cho đồng bào của mình. Thế nên, tác phẩm của ông được gọi “sách An Ủi” (Is 40-55). Chúng ta không biết gì về vị ngôn sứ thời lưu đày nầy. Ông thường hằng ẩn mình sau sứ điệp của mình, như bản văn hôm nay cho thấy. Ngay từ đầu, vị ngôn sứ ẩn mình trong “lời Thiên Chúa phán”; đoạn, trong “một tiếng kêu” mà không xác định; và sau cùng, trong “một sứ giả báo tin mừng”. Vị ngôn sứ nầy thường được gọi I-sai-a đệ nhị, vì ông thuộc vào hàng những môn đệ đầu tiên của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, và tác phẩm của ông đã được tập hợp chung với tác phẩm của thầy mình.
1. “Hãy an ủi dân Ta”:
“Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, đó là lệnh truyền mà Thiên Chúa gởi đến cho vị ngôn sứ của Ngài trong khi dân Do thái đang sống kiếp lưu đày vô vọng. “Dân Ta”, lời khẳng định nầy chắc chắn đã làm ấm lòng những người lưu đày, vì họ đã nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài đến số phận bi thương của họ. Không, họ luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia được Thiên Chúa nâng niu chiều chuộng. Cung giọng đầy trìu mến được cất lên ở cuối bài thơ trong hình ảnh người mục tử tận tình săn sóc đàn chiên của mình, nhất là những con chiên bé bỏng.
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Dân thành đã bị trừng phạt vì tội bất trung lâu dài của mình, đây là lần đầu tiên được Thiên Chúa loan báo là Ngài thứ tha tội vạ của dân và cho họ được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Sứ điệp tràn đầy hy vọng.
2. Thời kỳ Thiên Chúa tha thứ:
“Thời phục dịch của thành đã mãn”. Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy trong các đoạn văn Cựu Ước khác như G 7: 1: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?”. Hình ảnh này được dùng ở đây để diễn tả thời kỳ gian khổ cùng cực.
“Thành đã bị tay Chúa giáng phạt gấp hai so với tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu diễn ngữ “gấp hai” nếu chúng ta khảo sát hai thử thách lớn lao mà dân phải gánh chịu: một mặt, cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và mặt khác, cuộc tàn phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng diễn ngữ nầy đơn giản muốn nói đến muôn vàn khổ đau mà dân phải chịu.
Ghi nhận quan trọng nầy sẽ xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị và gợi lên nguồn cảm hứng cho các bài thơ về “Người Tôi Tớ đau khổ”. Dân Chúa chọn, người tôi tớ Thiên Chúa, đã kinh qua một sự thử thách thanh tẩy. Quả thật, ơn tha thứ của Thiên Chúa thì nhưng không. Tuy nhiên, qua những đau khổ dài lâu mà dân phải chịu, cũng như qua việc Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng việc cứu thoát dân, những người lưu đày sẽ bày tỏ cho muôn dân thấy “Thiên Chúa phán như thế nào, Ngài sẽ thực hiện đúng như vậy”.
Đó là ơn gọi của dân Ít-ra-en, với tư cách là người tôi tớ Đức Chúa: chuẩn bị những nẻo đường cứu độ cho muôn dân. Chúng ta thoáng thấy ươm mầm ý tưởng về giá trị của những đau khổ mà những người công chính, nhóm kiên trung còn sót lại, phải chịu để công chính hóa mọi người. Nhóm còn sót lại này, một ngày kia sẽ là “Người Tôi Tớ hoàn hảo”, chính là Đức Ki tô.
3. “Hãy mở một con đường cho Chúa”:
Để trở về quê cha đất tổ, đoàn người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ở bên cạnh dân Ngài và đích thân dẫn dắt dân Ngài. Sứ giả hô lớn: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Chúa chúng ta”.
Cuộc hành trình băng qua hoang địa dưới sự che chỡ và hướng dẫn của Thiên Chúa, viễn cảnh nầy gợi lên rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho những tù nhân Ba-by-lon, như xưa kia Ngài đã thực hiện cho cha ông họ: giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô dịch ở bên Ai-cập và dẫn đưa họ về miền Đất Hứa. Cuộc Tân Xuất Hành này sẽ bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua đó muôn dân sẽ hiểu rằng “chính miệng Thiên Chúa đã phán như vậy”, nghĩa là Thiên Chúa trung thành với những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện những dự định của Ngài. Dân Ít-ra-en sẽ là chứng nhân về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa: “Mọi người phàm sẽ cùng được thấy”.
4. “Loan tin mừng”:
“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao…”. Chính ở nơi bản văn nầy mà những Ki-tô hữu tiên khởi đã mượn thuật ngữ “Tin Mừng” để chỉ Mặc Khải Đức Giê-su Ki-tô mang đến. Vì thế, chúng ta ở tận nguồn của thần học về “Tin Mừng”.
Ấy vậy, “Tin Mừng” nầy phải được lớn tiếng công bố từ trên đỉnh non cao để khắp các thành xứ Giu-đa có thể nghe được là gì? Đó là Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm, dẫn đưa họ về quê hương đích thật của mình. Ngài không còn dung thứ những điều gian ác mà dân Ngài phải chịu.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn. Nhưng ông tô đậm chân dung vị lãnh đạo toàn thắng qua hình ảnh người mục tử ân cần trìu mến đối với đàn chiên của mình. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài trở về miền Đất Hứa trước hết là vị Thiên Chúa Tình Yêu.
Đó là hình thức đầu tiên của Tin Mừng, tiên báo một cuộc giải thoát khác, một sự tha thứ có tính quyết định hơn và phổ quát hơn, và cũng tiên báo một đám rước khải hoàn khác: đám rước của những người được tuyển chọn về thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
BÀI ĐỌC II (2Pr 3: 8-14)
Ngay đầu thư, thánh Phê-rô tự giới thiệu mình: “Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô…”. Bức thư chắc chắn chứa đựng những lời căn dặn sau cùng của thánh nhân (ngài gợi lên cái chết gần kề của mình). Tuy nhiên, xem ra đây là một di cảo, được một trong số các môn đệ của thánh nhân biên soạn lại và bổ sung để đương đầu với những hoàn cảnh mới.
Quả thật, những đề tài được đề cập đến trong đoạn trích hôm nay sẽ được hiểu tốt hơn, nếu như chúng được đặt vào trong bối cảnh muộn thời hơn. Thế hệ của các Tông Đồ và của những môn đệ truyền chân đã qua. Ấy vậy, Đức Ki-tô đã hứa là Ngài sẽ trở lại, nhưng thế hệ Ki-tô hữu hậu Tông Đồ chờ mãi vẫn không thấy ngày Chúa trở lại. Vì thế, họ ngạc nhiên, phản kháng và ngờ vực. Để trả lời cho vấn nạn nầy, một cộng tác viên của thánh Phê-rô đưa ra ba luận chứng:
1. Khái niệm thời gian:
Thời gian là của Chúa chứ không của chúng ta. Tác giả trích dẫn thích đáng ý của Tv 90:
“Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90: 4).
2. Thiên Chúa trì hoãn vì lòng xót thương:
Đức Ki-tô đến chậm vì để cho mọi người có thời gian ăn năn hối cải. Chúng ta cũng gặp lại suy tư nầy của thánh Phao-lô trong thư gởi các tín hữu Rô-ma: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ” (11: 25).
3. Thiên Chúa trung tín với những lời Ngài đã hứa:
Việc Ngài trở lại là điều chắc chắn. Nhưng lúc đó là ngày cùng tận của thế giới (vậy tại sao phải hối thúc chứ?). Tác giả bức thư gợi lên ngày ấy bằng những hình ảnh quen thuộc của truyền thống khải huyền.
Đoạn ông khéo léo kết luận: bởi vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự cho những ai được Ngài tuyển chọn, thế nên, “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải nên tinh tuyền, không gì đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa”.
TIN MỪNG (Mc 1: 1-8)
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Mác-cô được cấu trúc như sau:
1. Nhan đề (1: 1)
2. Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả (1: 2-8)
A. Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2-3)
B. Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 4-6)
C. Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
1. Nhan đề (1: 1).
Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng Gioan, cũng không cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu và sách Tin Mừng Lu-ca, nhưng với một nhan đề: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su, Đấng Ki tô, Con Thiên Chúa”. Với nhan đề nầy, ngay từ đầu, thánh Mác-cô loan báo sách được chia thành hai phần:
- Phần thứ nhất (1: 2-8: 30): Đức Giê-su dần dần vén mở sứ mạng của mình: Ngài là “Đấng Ki-tô”. “Đấng Ki-tô” được phiên âm từ từ Hy lạp “Christos”, xuất xứ từ nguyên ngữ Do thái “Đấng Mê-si-a”, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và đặc phái đến để thiết lập Vương Quốc của Ngài vào thời cánh chung. Như vậy, trong phần thứ nhất, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình cùng với thánh Phê-rô và các môn đệ đến chỗ nhận biết và tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” (8: 29). Nhưng vào thời Đức Giê-su, tước hiệu “Đấng Ki-tô” rất dể ngộ nhận. Dân Do thái sau một thời gian dài bị đế quốc nầy đến đế quốc khác thống trị và áp bức, nên mong chờ một vị vua trần thế được Thiên Chúa ban quyền năng để đánh đông dẹp tây, mở rộng vương quyền và đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho dân tộc mình.
- Phần hai (8: 31-16: 20): Đấng Ki-tô bày tỏ cho các môn đệ chân tính của Ngài là “Con Thiên Chúa”. Danh xưng nầy cũng là một trong những tước hiệu của Đấng Ki-tô. Các vua Phương Đông thời xưa cũng thường tự xưng mình là “thiên tử”. Nhưng Đức Giê-su dần dần bộc lộ cho thấy mối quan hệ đặc biệt mật thiết và độc nhất của Ngài với Thiên Chúa, mà Ngài gọi là Cha của mình. Chính Ngài công bố long trọng tước hiệu này trước vị thượng tế (14: 61-62). Các môn đệ phải qua một thời gian dài mới khám phá ra nơi bản thân Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đến sống giữa con người, và nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của mình, Ngài giải thoát loài người khỏi quyền lực Sự Dữ và Cái Chết. Trong phần thứ hai nầy, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình tới lời tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan Rô-ma, dưới chân thập giá: “Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa” (15: 39).
Như vậy, với nhan đề nầy cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô xác định rất rõ rằng sách không kể cho chúng ta “tiểu sử cuộc đời” của Đức Giê-su, nhưng là một “Tin Mừng” về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức Giê-su quê Na-da-rét, Ngài là “Đấng Ki-tô” và là “Con Thiên Chúa” qua cái mâu thuẫn của thập giá. Chính Đức Giê-su là “Chúa” đến viếng thăm dân Ngài, không phải trong quyền uy xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu trao tặng.
2. Sứ vụ của Gioan Tẩy giả (1: 2-8):
Câu 1 không chỉ là nhan đề của toàn bộ Tin Mừng Mác-cô nhưng cũng là nhan đề của của phần dẫn nhập (1: 1-15), phần dẫn nhập này được phân định bởi kiểu hành văn đóng khung rất quen thuộc của người Do thái, bắt đầu với chữ “Tin Mừng” ở câu 1 và kết thúc với chữ “Tin Mừng” ở câu 15. Thuật ngữ “Tin Mừng” xuất xứ từ sách I-sai-a (Is 40: 9; 52: 7; 61: 1..) được dùng ở đây để loan báo một biến cố vui mừng có một tầm mức quan trọng bậc nhất, đó là Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
Phần dẫn nhập nầy bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy giả, người đi trước dọn đường cho Đức Giê-su. Theo cách thức nầy, Tin Mừng Mác-cô trung thành với lược đồ rao giảng của các Tông Đồ như được gặp thấy trong sách Công Vụ (1: 21t; 10: 37; 13: 24). Trong bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế cũng mở đầu với diễn ngữ: “Khởi đầu”. Gioan Tẩy Giả loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, Ngài đến để đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ.
A. Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2):
Ngay từ những hàng đầu tiên, thánh Mác-cô nêu bật hai điểm khác biệt với các thánh ký khác. Trước tiên, các thánh ký nầy cũng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a: “Có một tiếng kêu trong hoang địa…” nhưng sau khi đã nêu lên sứ vụ của Gioan Tẩy giả (x. Mt 3: 3; Lc 3: 4; Ga 1: 23). Thứ đến, trước khi trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a, thánh Mác-cô trích dẫn một sấm ngôn khác: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”, sấm ngôn này được đúc kết bởi hai bản văn Cựu Ước khác nhau: Xh 23:20 và Ml 3:1.
Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Nầy Ta sai sứ thần đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường…”. Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời nầy nhưng với một ý nghĩa mới: “Nầy Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (3: 1). Trong sấm ngôn của Ma-la-khi, Thiên Chúa sai “sứ giả” của Ngài đến trước dọn đường để “Ngài đích thân đến với dân Ngài”. Thật ra, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca cũng trích dẫn sấm ngôn nầy, nhưng trong một bối cảnh khác và được đặt trên môi miệng của Đức Giê-su (Mt 11: 10; Lc 7: 27).
Vị sứ giả trong sấm ngôn nầy là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính của vị sứ giả nầy ở Ml 3: 23: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng”. Trong 2V 2: 11, ngôn sứ Ê-li-a không chết nhưng được rước về trời trong một cỗ xe đỏ như lửa với những con ngựa kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái mãi cho đến thời Chúa Giê-su, vị sứ giả Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến..
Sấm ngôn thứ hai được trích dẫn từ Is 40: 3 (bài đọc I): “Có một tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vị ngôn sứ loan báo cho những những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Các tác giả Tin Mừng cũng đã thấy ở nơi “tiếng hô nầy” tiên báo Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ mạng đến trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền nầy: thung lũng sẽ được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống, chúng ta gặp thấy cũng một lời dạy như Gioan Tẩy Giả: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất thấm đẩm thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà.
Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô gán toàn bộ lời trích dẫn nầy cho ngôn sứ I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề tài: “dọn đường để đón tiếp Thiên Chúa”. Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan Tẩy giả bằng lời trích dẫn nầy, thánh Mác-cô muốn cho thấy rằng việc Đức Giê-su đến đã được Cha Ngài chuẩn bị trước đó rồi và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Con Ngài, được dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy giả là ngôn sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để dọn đường cho Chúa và việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành với những lời Ngài đã hứa. Thời gian đã đến hồi viên mãn.
B. Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 3-6).
Chúng ta lưu ý rằng khi trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, thánh Mác-cô đã tự ý ngắt câu cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của Gioan Tẩy Giả. Thay vì “Có tiếng hô: Trong sa mạc…”, thánh ký đổi thành “Có tiếng người hô trong hoang địa…”. Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong hoang địa ngay từ thuở thanh xuân để chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en (Lc 1: 80), như Đức Giê-su sẽ rút vào trong sa mạc trước khi khởi đầu sứ mạng của mình.
Đây là sa mạc Giu-đa có dòng sông Gio-đan chảy băng qua và đổ vào Biển Chết. Phải chăng thánh Gioan thuộc vào cộng đoàn Kum-ran, có mặt ở trong miền nầy và sống trong sự chờ đợi Đấng Mê-si-a? Hay đơn giản ông có giao tiếp với cộng đoàn nầy? Phải nói rằng có rất nhiều điểm giống nhau giữa linh đạo của các nhà khổ hạnh Qum-ran và linh đạo của thánh nhân, nhưng cũng có rất nhiều điểm dị biệt.
Dù thế nào, sa mạc là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí vĩ đại thời Cựu Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như Mô-sê, Ê-li-a vân vân. Cũng như chính trong sa mạc mà dân Ít-ra-en đã trải qua những kinh nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc mình.
Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền thống nầy, nhưng ông thêm vào đây phép rửa. Không phải trong sa mạc mà nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự sống và biểu tượng ơn cứu độ.
Gioan Tẩy giả sống theo lối sống khổ hạnh: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Qua việc mô tả cách ăn mặc của Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông báo rằng Gioan Tẩy giả chính là ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện mà mọi người đang mong đợi. Ngoài ra, qua việc mô tả tỉ mĩ cách sống khổ hạnh của Gioan tẩy giả trong hoang địa cô tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản với Đức Giê-su: Ngài giao tiếp gần gũi với đủ hạng người ở ngoài xã hội, cùng ăn cùng uống, cùng chia sẻ cuộc sống vui, buồn, sướng khổ với họ. Quả thật, Tin Mừng Mác-cô cống hiến cho chúng ta hình ảnh rất là người của Đức Giê-su: Ngài ngủ say giữa cơn giông tố (4: 38), Ngài ngạc nhiên về việc các người đồng hương của Ngài thiếu niềm tin (6: 6), Ngài không có thì giờ ăn uống (6: 31), Ngài không biết khi nào ngày Thế Mạc sẽ đến (13: 32), nhất là Ngài chết như một kẻ tuyệt vọng (15: 34). Nhưng chính ở nơi tính chất rất là người nầy, thánh Mác-cô có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa.
C. Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là cao điểm của đoạn Tin Mừng hôm nay. Sứ điệp của ông làm xáo động lòng người. Uy tín của ông quá lớn đến độ dân chúng khắp nơi tuôn đến với ông. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa về sự cao vời khôn ví của Thiên Chúa. Ông công bố quyền năng vượt bậc của Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị cho việc Ngài đến khi sử dụng hình ảnh rất tương phản để diễn tả sự bất xứng của mình như tên nô lệ trước mặt chủ, cả đến việc cúi xuống cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng xứng đáng nữa: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cỏi dép cho Người”.
Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giê-su: ông chỉ rửa trong nước, còn Đức Giê-su thì rửa trong Thánh Thần. Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị Tiền Hô của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở hữu Thánh Thần (x. 1: 10).
Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải. Sách Công Vụ nói với chúng ta rằng ngay cả sau khi ông đã qua đời rất lâu sau đó, các cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7). Họ đề cao ông là “Đấng Mê-si-a” (Ga 1: 19-34). Như thế ngay từ trang đầu tiên Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy giả vào đúng vị thế của ông: sứ mạng của ông chỉ là loan báo và chuẩn bị cho việc Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su mới là Tin Mừng mà Gioan có sứ mạng loan báo cho hết mọi người.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam