Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1371734
ĐỒNG HÓA
Đồng hóa
Mahatma Gandhi không phải là một Kitô hữu, tuy nhiên, ông vẫn là một trong những người giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ này. Albert Einstein đã nói về ông “Các thế hệ sắp tới sẽ nhận thấy thật khó tin rằng một con người giống như ông, mà lại đã từng sống trên trái đất này”.
Gandhi là một người đối lập đáng tin cậy của chế độ đẳng cấp trái với đạo lý ở An độ. Ông ám chỉ điều đó như là “một vết nhơ trong linh hồn của An độ”. Ông đặc biệt ghê tởm cách đối xử ban phát đối với những kẻ tiện dân – những người không thuộc về đẳng cấp nào cả. Họ bị ngăn cản không được vào các đền thờ. Trong các thành phố và tỉnh lỵ, họ bị giam hãm trong những khu nhà lụp sụp, và chỉ được phép làm những công việc lao động hèn mọn nhất. Họ bị cấm sử dụng những nguồn suối trên toàn đất nước.
Trong cuộc hành trình đi khắp đó đây, Gandhi được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt. Khi ông đi vào một ngôi làng, vị tộc trưởng của ngôi làng đó sẽ mời ông ở lại đêm tại nhà ông ta, tại đó, chắc chắn ông được mời tắm rửa, ăn uống và có chỗ ngủ đêm tươm tất. Nhưng Gandhi lịch sự từ chối những thứ người ta dành riêng cho mình. Ông hỏi “Những kẻ tiện dân của các bạn đâu? Tôi sẽ ở lại với họ”. Và ông đã làm như vậy, mặc dù hành động của ông gây sốc cho những vị tộc trưởng của ngôi làng.
Gandhi ở giữa những kẻ tiện dân, trong các túp lều ở khu vực ngoại ô của ngôi làng. Và họ đã mở rộng vòng tay đón tiếp ông. Ông tiếp xúc với họ, ăn uống với họ, và chơi đùa với con cái của họ. Một lần kia, ông nói “Tôi không có ước mong được sinh lại lần nữa. Nhưng nếu điều đó xảy ra, thì tôi mong muốn lại được sinh ra giữa những kẻ tiện dân, để tôi có thể thành công trong việc giải thoát họ và bản thân tôi, khỏi tình trạng khốn khổ”.
Gandhi đã ra khỏi lối sống của mình, để hòa đồng với những kẻ tiện dân. Khi Đức Giêsu xếp hàng sau những người tội lỗi, trong khi chờ đợi được chịu phép rửa của thánh Gioan, đó là một hành động hòa đồng phi thường. Người đã hòa đồng với loại người mà Người đến để giải thoát, nghĩa là những kẻ tội lỗi. Không chỉ những kẻ tội lỗi, mà còn những người nghèo khổ, bị áp bức, mà vào thời đó, tạo thành đa số dân cư đang sống đầy rẫy ở Palestine. Thật vậy, Người nói với họ “Ta đứng về phía anh chị em”.
Điều mà Đức Giêsu làm trong ngày đó đã được coi như một mẫu thức cho sứ vụ công khai của Người. Người không tự giữ mình tách lìa khỏi những kẻ tội lỗi. Người không chờ đợi họ đến với mình. Người tìm kiếm họ, và trở nên bạn bè đối với họ.
Đức Giêsu không đứng sang một bên, hoặc tự đặt mình ở trên những kẻ tội lỗi mà Người đến để giải thoát. Người đã tự đứng giữa họ. Người đi cùng với họ đến nơi nào họ sống. Thậm chí Người còn bị tố cáo là một kẻ tội lỗi, và đã bị đối xử như một kẻ tội lỗi.
Động cơ thúc đẩy Người hành động chính là lòng thương xót. Người là một tôi tớ mà Thiên Chúa gửi đến để đem Tin Mừng cho kẻ nghèo khổ. Và Thiên Chúa rất hài lòng về Người, và về sứ vụ mà Người đang bận rộn tiến hành. Bằng cách thế của Người, Đức Giêsu chỉ ra cho chúng ta tình yêu của người đối với chúng ta.
Mặc dù hoàn toàn không phạm tội, nhưng Đức Giêsu đã mang trên thân mình Người tình trạng tội lỗi của chúng ta. Người không đứng cách biệt khỏi chúng ta, nhưng tự đặt mình bên cạnh chúng ta, với tư cách là một người anh cả. Người muốn dẫn đưa chúng ta ra khỏi tình trạng khốn khổ của tội lỗi và sự chết nơi chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở đời này và đời sau.
68. Thần Khí ngự xuống
Suy Niệm
Có ai ngờ được trong số những người xếp hàng chờ đến phiên mình được chịu phép rửa của Gioan lại có Đức Giêsu, Đấng thánh thiện và cao cả, Đấng mà Gioan tự nhận không đáng cởi giày cho Ngài?
Tại sao Đức Giêsu lại chịu phép rửa của Gioan? Ngài có phạm tội và cần xưng thú không? (Mc 1, 5) Ngài có cần sám hối để được ơn tha thứ không? Chúng ta tin Đức Giêsu là Đấng hoàn toàn vô tội, nên việc Ngài chịu phép rửa hẳn phải có một ý nghĩa.
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với người khác.
Đức Giêsu đứng chìm trong đám đông. Con Thiên Chúa làm người đã không ngại che khuất sự cao sang thánh thiện của bản thân để dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ. Đấng Cứu Độ lại sống như người cần được cứu độ. Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm của chúng ta để nâng chúng ta lên với Ngài. Chỉ tình yêu mới giúp ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan hôm ấy.
Ngôi Lời làm người chính là để liên đới với loài người. Ngài đã liên đới với người nghèo ở Bêlem, với những người lao động ở Nagiarét. Liên đới khi chịu phép rửa chỉ là khúc dạo đầu cho sứ vụ tông đồ sau này. Ngài đã bị mang tiếng là tay ăn nhậu, bồ bịch với quân thu thuế và tội lỗi (Lc 7,34). Cuối cùng Ngài đã chết như một tử tội giữa hai tên trộm cướp.
Thánh Phaolô đã viết một câu thật kinh khủng: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta."
Liên đới với những người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo chính là để đưa họ vào thế giới nồng nàn tình yêu, thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa.
Trong môi trường chúng ta đang sống, chỗ nào cũng có những người bị bỏ rơi vì thiếu may mắn, vì bị chà đạp hay bị ngã sa. Liên đới là đứng chung với họ, chia sẻ một số phận. Liên đới cũng là nói thay cho người khác tiếng nói của lẽ phải, sự thật và công bình. Cần nhiều khiêm tốn và can đảm để dám sống và chết vì liên đới như Đức Giêsu.
Sau phép rửa, Đức Giêsu được Thánh Thần ngự xuống. Ngài biết đã đến lúc mình được Cha sai đi vào đời, kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét.
Nhờ phép rửa trong Ba Ngôi, chúng ta đã trở nên con cái dấu yêu của Thiên Chúa, nhưng chúng ta có ý thức về ơn gọi lên đường không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Để sống liên đới với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, điều đó có khó không? Bạn có kinh nghiệm nào trong việc bênh vực một người cô thế?
Đức Giêsu đã khiêm tốn dìm mình trong sông Giođan trước khi đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có cần dìm mình trong dòng truyền thống dân tộc trước khi đi truyền giáo không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
69. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu nói của Gio-an Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra bài học gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giêsu? Nếu không sống tinh thần tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho ai?
2. Muốn con người thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai con người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1. Tinh thần tự hủy của người rao giảng Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu. Trong hai người, Gio-an Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gio-an Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”; “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là người đạo đức, là “có lửa”. Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ “thăng quan tiến chức” trong Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên “vì mình” hơn và bớt “vì Chúa” đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng - nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội - rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong đó, Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một con người: Gio-an Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giêsu tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giêsu mới có thể mời gọi ta nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Giữa con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời Đức Giêsu mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: “Trong lòng mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú”. Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5,17); “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí” (Rm 8,5). Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác thịt:
Bản chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng “phình to bản ngã”. Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình… Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: “Những kẻ sống theo xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi” (Rm 8,5); “Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã nên điên dại” (Rm 1,22); “Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa Trời” (Ep 4,18); “Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm chìm trong bóng tối tăm” (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín - nhiều khi rất mạnh mẽ - lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gio-an Tẩy giả - tượng trưng cho phàm ngã - để tự hạ, tự hủy để làm cho Đức Giêsu - tượng trưng cho thần ngã - nổi bật lên. Chỗ khác Gio-an nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giêsu: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Xin giúp con đạt được điều ấy.
70. Đức Giêsu chịu phép rửa – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo giáo sư G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng “ ở đầu và cuối đoạn). Bản văn 1,7-11 chúng ta đọc hôm nay liên kết lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa với việc Đức Giêsu chịu phép rửa, khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thật ra hai phần này biệt lập với nhau; chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan. Tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời loan báo của Gioan (1,7-8);
2) Phép rửa của Đức Giêsu (1,9-11):
a) Biến cố lịch sử: Đức Giêsu chịu phép rửa (9-10),
b) Thị kiến khải huyền: Cuộc thần hiển (10-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy-lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn (imperfect), để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi (7): Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do-thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- phép rửa (8): Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
- Hồi ấy (9): dịch sát là “trong những ngày ấy”.
- tựa chim bồ câu (10): Cả ba TMNL đều nói đến điểm này, với hôs (“giống như”) để so sánh (riêng Mt dùng hôsei để nhấn mạnh). Lc còn xác định rằng Thần Khí đã ngự xuống “dưới một hình dáng” (sômatikê eidei, “in bodily form”; x. Lc 3,22).
Tại sao con bồ câu lại trở thành biểu tượng của Thần Khí? Chúng ta không có câu trả lời rõ ràng. Rất có thể hành động bay lượn của Thần Khí trên mặt nước nguyên thủy trong St 1,2 đã gợi ra hình ảnh một cánh chim bay lượn (tương tự trong Đnl 32,11), nhưng bản văn ấy không nói là một con bồ câu (trừ một bản văn thuộc truyền thống kinh sư). St 8,8 thì nói rằng Nôê đã thả một con bồ câu, nhưng lại không hề khẳng định rằng con bồ câu này là hình ảnh của Thần Khí. Cha X. Léon-Dufour cho rằng con bồ câu có thể gợi ra tình yêu của Thiên Chúa (x. Dc 2,14; 5,2) hoặc cuộc tạo dựng mnới (x. St 1,2).
Trong truyền thống Do-thái, con bồ câu có một ý nghĩa biểu tượng, liên hệ đến Israel, đặc biệt với Israel đang lưu đày (Hs 7,11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6,8) và cũng được nền văn chương Ngụy thư hoặc kinh sư sử dụng. Từ đó cha A. Feuillet cho rằng con bồ câu đi xuống và ngự trên Đức Giêsu tượng trưng và tiên báo điều sẽ là hoa trái chính yếu của cuộc đổ tràn Thần Khí: đó là việc thành lập Israel mới, cộng đoàn hoàn hảo của thời đại ân phúc. Vậy, điều được diễn tả không phảu trự tiếp là Thần Khí, mà là hậu quả đối với Dân Thiên Chúa, khi Thần Khí hiện diện nơi Đức Giêsu. Cũng như vào ngày lễ Ngũ Tuần, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần Khí, mà là các ngôn ngữ mà các tông đồ dưới ơn Thần Khí soi sáng, sẽ nói ra, và sâu xa hơn, tượng trưng công việc phúc âm hóa thế giới, thì cũng vậy, con bồ câu trong Phép Rửa diễn tả ý tưởng này là Dân thiên sai phải chọn điểm khởi hành nơi bản thần Đức Giêsu-Mêsia, là Vua và Tôi tớ của YHWH.
Giả thuyết này cũng hấp dẫn, nhưng thật khó áp dụng vào bản văn Mc. Hẳn là bản văn St 8,8 vẫn có thể giúp ích: con bồ câu được thả ra mà không có chỗ đậu, phải trở lại tàu Nôê, phải chăng muốn nói rằng trong một thời gian dài, Thần Khí không có chỗ đậu là một người nào, cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện? Dù sao, ít ra chúng ta có thể nói rằng Thần Khí rất gần gũi với Đức Giêsu, trong tư cách là Đấng Mêsia đi rao giảng Nước Thiên Chúa, và điều này lại khiến chúng ta nhớ tới Is 42,1.
- ngự xuống trên Người (10): Mt, Lc va Ga đều nói rằng Thần Khí ngự xuống “trên” (epi; Mc: eis) Đức Giêsu. Các nhà chú giải thường nghĩ đến Is 11,1-2a: “Từ gốc tổ Giesê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kêryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến. Phép rửa của ông không phải là một nghi thức có sức tha tội (Bí tích Rửa tội), nhưng là phương thế giúp người ta bày tỏ lòng thống hối và quyết tâm thay đổi đời sống.
* Phép rửa của Đức Giêsu (9-11)
Phần này với phần trên biệt lập với nhau. Chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan: tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5. Dường như tác giả Mc quan tâm đặc biệt đến miền Galilê; do đó, ngài đã nêu bật rằng Đức Giêsu đến từ một miền khác với miền xuất phát của các đám đông đến với vị Tẩy Giả.
Bản văn này liên kết một biến cố lịch sử với một thị kiến khải huyền. Biến cố lịch sử là phép rửa Đức Giêsu nhận bởi tay Gioan. Thị kiến khải huyền cho biết Đức Giêsu là ai. Người đến từ làng Nadarét. Đối với Mc, điều quan trọng là làng ấy thuộc về miền Galilê. Nhưng Nadarét lại được coi như địa điểm từ đó Đức Giêsu đến “trong những ngày ấy” (= “hồi ấy”, PVCGK). Chi tiết mông lung về thời gian này, tuy quy về quá khứ, lại đưa lại cho việc Đức Giêsu xuất hiện một đặc tính long trọng.
Tại sao Đức Giêsu lại đến chịu phép rửa bởi tay Gioan, khi mà Người không có tội lỗi gì? Chính sứ mạng của Người đưa Người đến chỗ sẵn sàng liên đới với các tội nhân, tự đồng hóa với họ. Tác giả Mc, cũng như hai tác giả Lc và Mt, không muốn tường thuật cho chúng ta chuỗi các biến cố đã xảy ra hôm ấy. Tác giả chỉ muốn dạy chúng ta biết Đức Giêsu là ai bằng cách vận dụng ba hình ảnh mà các độc giả thời ngài hiểu rất rõ:
1) Hình ảnh “trời xé ra”. Hình ảnh này nhắc đến Is 63,15-19: trong đoạn văn này, vị ngôn sứ xin Thiên Chúa “xé trời mà ngự xuống”, nghĩa là chấm dứt tình trạng thinh lặng của Ngài và đừng ở xa cách Dân Ngài nữa. Ông xin Thiên Chúa lại mở lòng ra và lại tỏ ra là bạn hữu của nhân loại. Khi dùng hình ảnh này, Mc muốn nói với chúng ta rằng cuộc sống công khai của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc hòa giải giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và chúng ta.
2) Hình ảnh “con bồ câu” đưa chúng ta trở lại với những gì đã xảy ra vào thời gian Lụt hồng thủy (St 8). Vào lúc đó, trời bị đóng lại và có sự thù nghịch giữa Thiên Chúa và loài người. Con bồ câu với cành ô-liu cho biết là sự sống đã tái sinh trên mặt đất, nghĩa là Thiên Chúa đang thôi giận loài người, hòa bình đã được phục hồi.
3) Tại sao Thần Khí lại được so sánh với một con bồ câu? Trong thời Cựu Ước, YHWH ban quyền lực của Ngài cho các ngôn sứ, làm cho các ngài nên can đảm và có khả năng hoàn tất các nhiệm vụ Ngài ký thác (x. Is ch. 6; Gr 1,6-10). Vào ngày nhận phép rửa, Đức Giêsu cũng đã được tấn phong và nhận quyền lực đó để chu toàn sứ mạng. Tại Israel, từ lâu rồi, đã vắng bóng những con người của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng đã qua đời cách đây 300 năm. Trời đã đóng lại, y như thể Thiên Chúa không còn muốn nói với Dân Ngài nữa. Thần Khí Đức Chúa giống như một con bồ câu bay cùng khắp mà không tìm ra được một ai để có thể đậu lên. Khi cho Thần Khí của Ngài xuống trên Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy rằng Ngài đã tìm ra con người theo ý Ngài, và nay một lần nữa, Ngài lại ngỏ lời với một con người.
Ngoài ra, có hai chi tiết cần để ý vì có ý nghĩa thần học sâu sắc:
- Nơi Đức Giêsu chịu phép rửa là bờ sông Giođan. Chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước rằng Dân Israel được Giôsuê hướng dẫn, đã đi qua sông Giođan trước khi bước vào Đất Hứa. Ở đây Mc giới thiệu Đức Giêsu như Giôsuê mới dẫn dắt Dân mới của Thiên Chúa (trong tiếng Híp-ri, tên “Giêsu” cũng là tên “Giôsuê”).
- Thời điểm Đức Giêsu nhận Thần Khí (“khi Người vừa ra khỏi nước”, chứ không phải lúc Người còn đứng trong dòng sông, như nhiều bức họa diễn tả). Sau khi qua sông Giođan, Giôsuê được đầy thần khí của Thiên Chúa để ông có thể dẫn đưa Dân vào Đất Hứa. Với Đức Giêsu cũng thế: khi vừa ra khỏi nước, Người nhận Thần Khí cùng với quyền lực của Thiên Chúa để có thể hướng dẫn dân Thiên Chúa đi đến tự do. Con đường đó thế nào, tác giả Mc sẽ dần dần viết ra.
+ Kết luận
Rất có thể giai thoại này là một kỷ niệm về tình trạng căng thẳng giữa các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của Đức Giêsu: họ tranh cãi để xem vị Thầy nào cao trọng hơn. Các môn đệ Gioan cho rằng vị Tẩy Giả cao trọng hơn vì đã ban phép rửa cho Đức Giêsu; còn các môn đệ của Đức Giêsu thì khẳng định rằng chính Đức Giêsu mới là Con Thiên Chúa và có Thần Khí chan hòa. Dù sao, ở đây còn có một bài học khác nữa. Các Kitô hữu tiên khởi khó mà chấp nhận được rằng Đức Giêsu lại chịu phép rửa. Phép rửa của Gioan là đễ diễn tả quyết tâm thống hối, và do đó người Pharisêu, vì nghĩ rằng họ công chính, chẳng bao giờ nghĩ rằng họ cần phải nhận phép rửa. Thế mà Đức Giêsu lại nhận phép rửa, khi mà Người là Con Thiên Chúa, Người hoàn toàn trong sạch! Đức Giêsu đã chịu phép rửa ngay lúc bắt đầu cuộc sống công khai, thật ra là để đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi, đồng hóa với họ. Đấy là một chọn lựa của Người, của chính Thiên Chúa.
Sau lễ Giáng Sinh, phụng vụ nói đến khởi đầu cuộc sống công khai của Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là Người Tôi Trung cùa Chúa Cha; Người sẽ đưa lại một quan hệ được đổi mới giữa chúng ta với Thiên Chúa
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
2. Đức Giêsu đã sẵn sàng đứng vào hàng các tội nhân, tự đồng hóa với họ, trở nên một người như họ, trong khi Người hoàn toàn trong sạch. Chúng ta, là những người có tội, phải chăng chúng ta lại xa cách anh em y như thể sợ rằng không ai biết cho sự lành thánh của chúng ta! Chúng ta có biết đồng cảm với những người có cuộc sống không thành công chăng? Một Kitô hữu có được phép lên án người khác chăng? Thầy chí thánh chúng ta đi theo không bao giờ trách mắng những kẻ tội lỗi, Người đồng cảm với họ, Người bảo vệ họ và ngay từ đầu, Người đứng vào hàng ngũ của họ. Đấy là những điểm khiến các môn đệ Đức Giêsu phải suy nghĩ.
3. Chúng ta thuộc về đoàn dân mới của Thiên Chúa, đoàn dân đang tiến bước, có Đức Giêsu là Vị thủ lãnh đầy Thần Khí. Thầy chí thánh đang dẫn chúng ta đi về đâu? Chúng ta phải bước theo Người với cung cách nào? Tác giả Mc sẽ trả lời các câu hỏi này cho chúng ta dọc theo năm phụng vụ với Tin Mừng của ngài, và mời gọi chúng ta can đảm bước theo Đức Giêsu, là “con đường” đưa chúng ta về với Thiên Chúa.
4. Chúng ta cũng đã nhận phép rửa tội, chúng ta cũng có Thánh Thần, chúng ta cũng có chức năng vương đế. Chính vì thế, chúng ta phải biết cộng tác với Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn chúng ta, bằng cách chế ngự tính mê tật xấu của riêng mình, đồng thời giúp anh chị em chúng ta thắng vượt các trở ngại khiến họ không thong dong bước theo Đức Giêsu được.
5. Thánh giám mục Maximô thành Turinô (?-khoảng 420) đã giảng trong Lễ Hiển Linh như sau: “Hôm nay, Chúa Giêsu đã đến nhận phép rửa. Người đã muốn rửa mình trong dòng nước Giođan. Có lẽ có người sẽ nói: ‘Người là Đấng Thánh, tại sao Người lại muốn được ban phép rửa?’ Vậy xin nghe đây. Đức Kitô được ban phép rửa không phải để được nước thánh hóa, nhưng để chính Người thánh hóa nước và thanh tẩy bằng hành động cá nhân các dòng nứơc Người chạm tới. Vậy ở đây là việc thánh hiến nước hơn là thánh hiến Đức Kitô. Bởi vì, kể từ khi Đấng Cứu Thế được rửa, tất cả các dòng nước trở thành trong sạch nhằm phép rửa của chúng ta; nguồn được thanh tẩy là để cho ân sủng được ban cho các dân tộc sẽ đến sau đó. Vậy Đức Kitô là người đầu tiên bước đến phép rửa để cho các dân Kitô hữu không ngần ngại bước đi theo Người.
Và ở đây tôi hé thấy một mầu nhiệm. Cột lửa lại đã không đi trước qua Biển Đỏ để khuyến khích con cái Israel bước theo sau đó sao? Cột lửa ấy đã đi qua nước trước tiên để vạch ra con đường cho những người theo sau. Theo chứng từ của thánh tông đồ Phaolô, biến cố này đã là một biểu tượng của phép rửa tội (1 Cr 10,1t). Hầu chắc đây là một thứ phép rửa trong đó người ta được bao phủ bởi các đám mây và được nâng đỡ bởi các làn nước. Và tất cả những điều đó đã được hoàn tất bởi cũng một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng bây giờ đi trước các dân tộc Kitô hữu trong cái cột là thân thể Người, như Người đã đi trước con cái Isreal qua biển trong cột lửa. Cũng cái cột ấy, xưa kia đã ban ánh áng cho mắt những người bước đi, nay ban ánh sáng cho con tim các tín hữu. Khi xưa, cột ấy đã vạch ra trong các sóng nước một con đường vững chắc, bây giờ cột ấy đang củng cố các bước chân đức tin trong cuộc thanh tẩy này”.
71. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Maccô đã nói tới Chúa Giêsu. Nhưng ở đây ông cho Ngài nhập cuộc: “Cũng trong ngày ấy, Chúa Giêsu từ thành Nadaret miến Galilê đến” (c.9). Maccô không hề nói gì thêm nữa về nơi chốn Chúa Giêsu đã sinh trưởng (Lc 4,16). Nhưng như thế là để nói ngay tới một biến cố lớn (c. 9b). Maccô không nêu rõ lý do khiến Chúa Giêsu nhận phép rửa của Gioan. Điều đó giả thiết rằng, ít ra trong một thời gian, Chúa Giêsu đã là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Ga 3,26). Các Kitô hữu ban đầu biết rất rõ về phép rửa của Gioan. Họ tự hỏi: Phép rửa mà Chúa Giêsu nhận có gì đặc biệt?
Maccô trở lại rất chính xác vấn nạn này. Ông không nói tới việc Chúa Giêsu được dìm xuống nước sông Giođan. Nhưng lưu ý độc giả về điều đã xảy ra ngay sau đó (c.10). Dầu cho có vẻ như thế nhưng cảnh tượng này không phải là một thiên phóng sự giàu hình ảnh. Đây là một cảnh mang màu sắc trí thức, với những hình ảnh Thánh Kinh để minh họa điều mà các tín hữu tiên khởi đã khám phá ra được là độc đáo trong phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận.
Trong sách Isaia ta thấy có lời khẩn khoản nài xin Thiên Chúa lại đến giải thoát dân Ngài như được kể trong sách Xuất hành. Maccô đã cảm hứng theo đoạn văn sau đây: “Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) làm cho mục tử (=Môsê) của đoàn chiên Ngài lên từ biển cả? Đâu rồi Đấng đặt nơi người mục tử ấy Thần Khí của Ngài?” (Is 63,11). Như vậy không phải vô tình mà Maccô nói khi từ nước đi lên Chúa Giêsu đã lãnh nhận Thánh Thần. Đối với Maccô, Chúa Giêsu là Môsê mới. Phép rửa Ngài chịu, một lần nữa là cuộc giải thoát khỏi Hồng Hải. Vị Mục Tử của một dân mới của Thiên Chúa giờ đây được Chúa trao đổ Thánh Thần cho, Đấng sẽ khiến Ngài dẫn đưa đoàn chiên của mình vào Đất Hứa. Trong mạch văn này, câu “Chúa Giêsu thấy các tầng trời mở tung ra” đặc biệt có ý nghĩa. Theo truyền thống Do Thái, các tầng trời đã đóng lại khi các ngôn sứ sau cùng (Agai, Dacaria, Malaki: thế kỷ VI và V trước Chúa Kitô) không còn nữa. Sự giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người bị coi như chấm dứt. Trước khi Chúa Giêsu đến thì “Thần Khí đã tắt rồi”, Ngài không xuống để linh hứng những lời tiên tri mới nữa. Trong bầu khí “thiếu vắng” này, một lời cầu xin tha thiết được dâng lên Thiên Chúa: “A! Xin Ngài mở toang các tầng trời mà ngự xuống…” (Is 63,19b). Như vậy là với Chúa Giêsu mọi sự đều thay đổi. Mở toang các tầng trời có nghĩa là mở lại cuộc tương giao giữa Thiên Chúa và con người, chính Đấng Mêsia là người đón nhận biến cố này. Khi ấy Maccô có thể diễn tả “Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như một chim bồ câu”. Việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu khai mào kỷ nguyên mới của ơn Cứu độ. Với việc ban Thánh Thần, đấng “Mêsia” mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi (Cv 2,37-38). Người ta đã từng hiểu ý nghĩa của hình ảnh chim bồ câu. Một số người thấy ở đó ám chỉ trực tiếp về con chim hòa bình mà Noê thả ra trên nước đại hồng thủy (St 8,8-11). Có những người khác nghĩ rằng điều đó nhắc nhớ đến cuộc Sáng tạo khi Thần Khí Thiên Chúa bay là trên vực thẳm (St 1,2). Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu người ta so sánh các ngôn sứ với những con chim gáy. Như vậy là ở đây, Chúa Giêsu được giới thiệu như “vị ngôn sứ” của thời đại mới.
Phần kết của đoạn văn là một sứ điệp thần linh phải được diễn giải thật đúng (c. 11). Trời đó là Thiên Chúa người mà Do Thái tránh nêu danh. Thiên Chúa lên tiếng. Lời tuyên bố của Ngài thật quan trọng. Lời sấm của Thiên Chúa gồm hai đoạn văn giàu ý nghĩa trong Cựu Ước. Một đàng, “Con là Con Cha” gợi lại Thánh vịnh mô tả ngày nhà vua đăng quang, theo nghĩa “Mêsia”: “Người phán bảo tôi: Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7). Rõ ràng Chúa Giêsu được chỉ định như Đấng Mêsia thuộc dòng David. Phẩm tính “yêu dấu” gán cho Chúa Giêsu, nhắc lại điều Thiên Chúa đòi hỏi Abraham liên quan tới Isaac: “Hãy đưa con của ngươi, đứa con duy nhất mà ngươi yêu dấu…” (St 22,2).
Đàng khác, những lời nói với Chúa Giêsu, “Cha hài lòng về Con”, quy chiếu về một bài thơ nổi tiếng của người Tôi tớ Thiên Chúa trong ngôn sứ Isaia: “Này đây tôi tớ của Ta (Thiên Chúa nói) người Ta yêu quý. Ta đặt Thần Khí của Ta nơi Người. Người sẽ đem Lề Luật đến cho các dân” (Is 42,1-2). Ta thấy đây là một nghi thức tấn phong ngôn sứ. Cũng giống như người tôi tớ trên đây, Chúa Giêsu được sai đi thi hành sứ vụ Ngài. Phần tiếp theo của bài thơ thật là ý nghĩa: “Ta (Chúa nói tiếp), Ta gọi con trong công chính. Ta đã làm cho con nên Giao Ước của dân, nên ánh sáng cho mọi sắc tộc để con mở mắt người mù, giải thoát tù nhân, và đưa người trong tối tăm ra khỏi ngục thất” (Is 42,6-4).
Như vậy, chắc chắn đối với Maccô phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận không phải để tha tội, vì Chúa Giêsu không hề phạm tội. Đó là hiệu khởi hành, là lệnh sai đi thi hành sứ vụ mà Thiên Chúa ra cho đấng “Mêsia”, là “Con Thiên Chúa” (theo nghĩa tròn đầy sẽ được khám phá sau này trong niềm tin vào Chúa Phục Sinh).
Chúa Giêsu là Đặc Sứ của Thiên Chúa để thiết lập Vương Quốc Ngài. Bây giờ Ngài có thể lên đường thi hành sứ vụ đó.
72. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GIOAN LÀM PHÉP RỬA CHO CHÚA GIÊSU
A. Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả.
Máccô đã tóm lược rất nhiều các chi tiết liên quan đến vị Tiền hô mà truyền thống đã mang lại; đặc biệt ông đã bỏ hẳn lời Gioan Tẩy giả loan báo về Cuộc phán xét cánh chung sắp đến. Cảnh quan trọng đầu tiên của Tin Mừng của ông là cảnh Chúa Giêsu chịu rửa. Những gì ông giữ lại có liên quan đến vị Tẩy giả đặc biệt chỉ muốn "chuẩn bị" (c.3) cho quang cảnh mặc khải này Nơi Máccô, tất cả lời rao giảng của Gioan giản lược thành hai câu chúng ta đang khảo cứu: loan báo Đấng-đang-đến đầy quyền năng và cao cả hơn vị Tẩy giả; loan báo chính phép rửa của Người, phép lửa đối nghịch với phép rửa của vị Tiền hô.
"Gioan rao giảng rằng: Sẽ đến sau tôi Đấng quyền thế hơn tôi; tôi không đáng cúi xuống mà cởi quai dép Người. Phần tôi, tôi đã thanh tẩy anh em bằng nước; còn Người, Người sẽ thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần" (cc.6b-8).
Câu đầu cho ta cảm thấy Đấng Messia đã đến gần thật: "Người đến (sát) sau tôi", Người đi tiếp tôi liền. Hình ảnh tên nô lệ dưới chân chủ được tô điểm ở đây bằng một nét đặc biệt thuộc lối văn miêu tả của Máccô ("cúi xuống"), một nét tuy nhiên không thay đổi gì ý nghĩa.
Ngược lại, mệnh đề thứ hai, mệnh đề đưa ra lại (như người bằng cách rút vắn) sự tương phản cổ truyền giữa phép rửa bằng nước và phép rửa bằng Thần khí, thì rõ ràng thay đổi ý nghĩa bản văn. Nó loại bỏ chi tiết "lửa", y như văn mạch loại bỏ mọi ám chỉ về cuộc Phán xét cánh chung. Một việc loại bỏ triệt để như thế bắt buộc ta bây giờ phải hiểu sự tương phản giữa hai phép rửa chỉ trên cơ sở những gì mà thính giả của Gioan Tẩy Giả đã có thể hiểu trước, chứ không theo văn mạch nguyên khởi.
Thế mà những người này hẳn đã biết các sấm ngôn nói về Đấng Messi a mang Thần khí (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) cũng như những sấm ngôn hứa đổ tràn lan Thần khí như một sức mạnh từ trên xuống vào thời thiên sai để canh tân tôn giáo và luân lý của Dân Chúa (Is 32, l5t; 44,3t; 59.21; Ed 11,19; 31.25-29; 37; 39,29; Ge 3, 1tt v.v...). Tuy nhiên cho đến đây. Chưa có gì nói rằng việc tuôn tràn này sẽ là một ân huệ của chính Đấng Messia cả. Lời tuyên bố của vị liền hô thiết lập mối liên hệ này (mối liên hệ mà Tin Mừng thứ tư sẽ khai triển): chính Đấng Messia sắp đến sẽ đổ Thánh Thần tràn ngập.
Ngoài ra, trong các lời của vị Tẩy giả được tách ra khỏi văn mạch đầu tiên của chúng, hạn từ "rửa'' tự nhiên được hiểu theo cùng một nghĩa trong hai vế của lối đối ngẫu. Người ta đối chọi nghi thức với nghi thức: nghi thức xưa có tính cách chuẩn bị và mục đích thanh tẩy với nghi thức mới có tính cách chung quyết và mục đích thánh hóa. Thật ra, khi nói ở đây về phép rửa trong thần khí mà không xác định gì thêm, thánh sử nghĩ tới phép rửa Kitô giáo, nghi thức bí tích quen thuộc với độc giả mình. Thành ra cái ông cho vị Tiền hô hứa, chính là một hoạt động của Đấng Messia, hoạt động tuôn tràn Thần khí (trong phép rửa Kitô giáo), để thực hiện một cách rất cụ thể các lời tiên tt'i xưa về việc đổ Thần khí thánh thiện vào thời cánh chung.
Tóm lại, lời trao giảng của Gioan Tẩy giả, theo như Máccô trình bày, loan báo hai việc: *1) (như trong truyền thống chung): việc giá lâm gần kề của Đấng Messia, Đấng được mặc quyền năng Thiên Chúa và xứng đáng hơn Gioan Tẩy giả bội phần; *2) Việc tuôn đổ Thánh Thần vào thời cánh chung do Chúa Kitô (trong phép rửa Kitô giáo) (riêng của Máccô).
B. Phép rửa cho Chúa Giêsu.
Như chúng ta đã nói, trong trình thuật phép rửa, Máccô đi gần với truyền thống sơ khai nhất, về phương diện bản văn cũng như thần học.
"Và xảy ra là trong những ngày ấy, Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô. Vừa lên khỏi nước, Người thấy trời xé ra và Thần khí, như chim bồ câu, đáp xuống trên Người. Và một tiếng phán ra từ trời: "Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ" (cc 9-11).
1. Hành vi tự ý của Chúa Giêsu.
"Và xảy ra trong những ngày ấy": Đây là một ngữ điệu khác thường trong Mc. Kiểu nhập đề như đúc sẵn này, mà thánh sử đã chẳng sửa lại, cho thấy đây là khởi đầu của một đơn vị văn chương" mới có tính cách độc lập ngay từ sơ khai, cho thấy trình thuật này có một nguồn gốc khác với trình thuật trước là trình thuật minh nhiên đặc trưng nghi thức Gioan như một "phép rửa thống hối để được tha tội". Công thức ấy là công thức Cựu ước vẫn dùng để giới thiệu các biến cố xảy ra, theo các sấm ngôn tiên tri, do bởi thánh ý Thiên Chúa. "Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê": Máccô cố ý xác định như vậy vì đây là lần đầu tiêu ông nói về Chúa Giêsu; chúng ta đang còn ở ngay đầu Tin mừng.
"Và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô": Sự kiện được ghi chú một cách chính xác, nhưng với sự vắn gọn vô cùng; vì sẽ không có lơi chú giải nào khác về phép rửa của Chúa Giêsu ngoài trình thuật thần hiện. Câu văn có vẻ cố ý lấy lại các hạn từ của c.5 vai trò thanh tẩy của Gioan đạt đến đích điểm đích thực khi ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu.
2. Thần hiện.
"Và vừa (lên khỏi nước)": Mặc dầu năng gặp nơi Máccô chữ ráp nối này ở đây hẳn đã có từ trước (nó cũng có nơi Matthêu, dầu có hơi vụng về: “và này"). Người ta hiển nhiên muốn nối kết lập tức việc Chúa Giêsu nhận phép rửa với cuộc thần hiện vốn mang lại ý nghĩa cho việc này.
"Và Người thấy": Đây là một chi tiết có từ nguyên khởi. Chính Chúa Giêsu là chứng nhân mục kích việc thần khí đến, cũng như chính Người sẽ được tiếng nói Chúa Cha ngỏ cho. Cuộc thần hiện xảy ra cho Người vậy.
Chúa Giêsu thấy trời "xé ra", "xẻ ra" (Matthêu và Luca nói đơn sơ: “mở ra"). Sở dĩ Máccô chọn tiếng này có lẽ là vì ưa lối văn gợi hình, đầy màu sắc. Dầu sao có thể hạn từ muốn ám chỉ Is 63,19 (bản Hy bá) là bản văn ghi lại một lời cầu nguyện tha thiết người ta dâng lên Thiên Chúa, Cha Israel (nhân danh tình phụ tử của Ngài) để xin Ngài phá tan một sự im lặng quá lâu và từ trời xuống với dân Ngài để cứu họ. Trong phép rửa của Chúa Giêsu là khởi nguyên Tin Mừng cũng vậy, Thiên Chúa chấm dứt một sự im lặng dài lâu, xé thủng màn trời, khai mở thời đại ân sủng chung quyết bằng việc sai Thần khí Ngài đến và bằng cách biểu lộ sự hài lòng của Ngài đối với Con chí ái đang hiện diện giũa dân Ngài.
“Và một tiếng phát ra": Trình thuật mang một giọng điệu thuật sự: các câu vắn gọn nhanh nhẹn nối tiếp nhau, nằm kề nhau cách đơn giản, không văn chương cầu kỳ. Thành thử càng gây được cảm kích.
"Con là Con Ta...": Câu nói được viết lại dưới hình thức có lẽ là sơ khai nhất của nó, như ta đã phân tích trên đây. Sự thâm tình của mối tử hệ thần linh này, thánh sử Máccô sẽ hé mở cho ta thấy qua cung giọng của lời cầu nguyện Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa: "Abba, Cha ơi" (14,36), một công thức đầy tình hiếu thảo và có vẻ như lời âu yếm của trẻ thơ.
Quang cảnh này là quang cảnh đầu tiên của đời Chúa Giêsu theo Mc. Một cảnh mặc khải. Một cảnh tấn phong làm Thiên sai (như chúng ta vừa mới chứng minh trên kìa: thánh hiến và sai đi thực-hiện công trình cứu rỗi bằng quyền lực của Thánh Thần và trong mối thâm tình phụ tử đặc biệt với Thiên Chúa). Đồng thời đây cũng là sự hé mở đầu tiên về mầu nhiệm con người Chúa Giêsu. Tóm lại, đây là sự minh giải đầu tiên và long trọng cái tiêu đề của Tin mừng Máccô: “Khởi nguyên của Tin Mừng Chúa Giêsu, Messia, Con Thiên Chúa" (1,1)
KẾT LUẬN
Ý nghĩa phép rửa Chúa Giêsu chịu được biểu lộ trong cuộc thần hiện tiếp theo sau. Đó chính là cái đã thu hút tất cả sự lưu tâm của truyền thống Tin Mừng và của các soạn giả linh ứng; đó cũng là điều chúng ta phải suy niệm trước tiên.
Hành động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, hành động nối kết Người với vị ngôn sứ cuối cùng và vĩ đại nhất, đã trở thành lễ tấn phong Người làm thiên sai một cách long trọng: Được mặc lấy quyền lực Thánh Thần, được vững chắc trong niềm ý thức đầy dủ về mối thâm tình, đặc biệt là về sự thông hiệp độc nhất giữa Người với Thiên Chúa Cha Người. Chúa Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng thi hành ngay bây giờ công cuộc cứu rỗi, theo đường lối thiên ý đã được vạch ra trong Thánh Kinh. Nhưng bên kia công cuộc thiên sai, quang cảnh dẫn vào mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, mầu nhiệm con người của Chúa Giêsu Mêssia - Con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa nền tảng mà ngay từ đầu người ta mặc cho biến cố, ý nghĩa đã được lồng vào trong một màng lưới đầy những hoài niệm Thánh Kinh, trong một khung cảnh có tính cách khải huyền (trời mở ra, Thần Khí đến cách hữu hình, tiếng nói từ trên cao: toàn là những yếu tố thích hợp nhất để cho ta biết điều mà ta chỉ có một mặc khải từ trên mới tỏ lộ: sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, cái sứ mạng rốt cục đặt cơ sở trên tư cách Con Thiên Chúa của Người).
Được các thánh sử tường thuật lại ngay ở ngưỡng cửa sứ vụ Cứu Chúa, trình thuật cho thấy từ đây phải hiểu tất cả cuộc đời công khai của Chúa Kitô dưới ánh sáng vừa nói mà ánh sáng đi trước ánh sáng phục sinh. Và ngay trong lần tuôn đổ Thánh Thần đầu tiên này, ngay trong chính việc Con Thiên Chúa xuất hiện giữa nhân loại này, ta thấy thời đại cánh chung đã bắt dầu, nước Thiên Chúa đã khai mạc.
Sau cùng, nhiều chỗ nhuận sắc sửa chữa nhắc ta nhớ mối dây liên kết phép rửa Kitô giáo với phép rửa Chúa chịu. Thật vậy, chính do tương quan nội tại với phép rửa Chúa Giêsu chịu mà bí tích Kitô giáo làm ta thành con cái Thiên Chúa là được mang Thần khí Ngài.
(Bản Pháp ngữ của Edmond Jacquemin Assemhlées du Seigneur số 12.)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu là ai? Người từ đâu đến? Đó là những câu hỏi lớn lao? Ai sẽ trả lời? Ai sẽ mặc khải lai lịch của Người ra? Ai, nếu không phải làThiên Chúa. Đấng đã sinh thành và sai Người đến? phép rửa của Chúa Giêsu chính là nói Thiên Chúa mặc khải cho ta lai lịch Người. Ngài cho ta biết Chúa Giêsu là người tôi tớ Giavê (bài đọc I), là Đấng cứu rổi mọi người (bài đọc 2), là Con Thiên Chúa (bài Tin Mừng). Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là để chuẩn bị lòng người đón nhận mặc khải hôm nay. Đối với các Kitô hữu, ngoài Chúa Giêsu Kitô ra, không còn có ơn cứu rỗi nào khác, cuộc giải phóng đích thực nào khác.
2) Hôm nay, Chúa Giêsu được tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Người ra đi mang sứ mạng cứu rỗi với uy lực của Thánh Thần và với danh nghĩa Con Thiên Chúa. Nhưng người cứu rỗi nhân loại theo cách người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo ngày xưa. Đường lối cứu rỗi của Người là truyền rao chân lý. Tôn trọng tự do, giáo dục lương tâm, kêu gọi cõi lòng. Phương thế của Người là nêu gương và dạy nhân loại hãy từ bỏ chính mình để sống cho Thiên Chúa, là ban ân để mỗi cá nhân tự giải phóng mình khỏi sự vong thân kinh khủng của tội lỗi. Tinh thần của Người là tinh thần Bát Phúc. Kitô hữu chân chính muốn giải phóng thế giới và con người không thể đi con đường nào khác hơn.
3) Sau khi chịu rửa và được công khai tấn phong làm thiên sai. Chúa Giêsu đã được đưa vào hoang địa, chịu đủ cơn cám dỗ để chứng tỏ mình xứng đáng với lòng tin tưởng, mến yêu của Thiên Chúa, đủ vâng phục để theo thánh ý và đường lối Ngài, đủ sức mạnh để thi hành sứ vụ đặc biệt. Và thực sự Người đã chiến thắng sa tan, chiến thắng chính mình. Chúng ta cũng vậy. Sau khi chịu rửa tội và được tấn phong làm con Thiên Chúa, chúng ta đã được đưa vào lòng đời đầy bao thử thách. Hãy cố gắng chứng tỏ mình là Kitô hữu chính danh, đích thực, luôn sống và hành động theo đường lối của Chúa Kitô, của Thiên Chúa, luôn sống xứng đáng với tước hiệu "con chí ái" của Ngài.
4) Phép rửa trong nước và Thánh Thần hướng ta về phép rửa quyết định nào? Lâu lắm sau khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: "Có một phép rửa Ta cần phải nhận, và Ta khắc khoải chờ mong cho nó hoàn tất" (Lc 12,50). Người nói tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống vâng lòi mà Người đã chọn lựa. Chúng ta cũng vậy.Bí tích thanh tẩy chúng ta đã chịu hướng ta về phép rửa quyết định được thể hiện qua tiếng "xin vâng" đối với Chúa mỗi ngày, là qua tiếng "xin vâng" cuối cùng mà, vào thời giờ một mình (Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch của ta trước kế hoạch yêu thương do Chúa đề nghị với ta.
73. Chu giải của Noel Quesson
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Sau một cuộc đột nhập vào Tin Mừng của Luca và Matthêu, để khám phá những mầu nhiệm về Giáng sinh và Hiển Linh, vì chỉ có hai Tin Mừng đó mới nói cho chúng ta về thời thơ ấu của Đức Giêsu... giờ đây ta gặp lại Tin Mừng Máccô. Chính Máccô bắt đầu trình thuật của mình lúc khởi sự đời sống công khai của Đức Giêsu. Và như thế chúng ta được dẫn ngay vào giai đoạn trưởng thành của Đức Giêsu. Lúc đó Ngài khoảng ba mươi tuổi.
Gioan Tẩy Giả loan báo trong hoang địa rằng: “Có một Đấng quyền thế hơn tôi, đến sau tôi"
Trong các Tin Mừng của Matthêu và Luca, lời loan truyền của Gioan Tẩy Giả mang một nội dung mãnh liệt, nhằm báo động ngày chung thẩm sắp tới gần: "Loài người rắn độc kia... Hãy tỏ lòng ăn năn sám hối... cái rìu đã đặt sát gốc cây" (Mt 3,7-10; Lc 3,7-9) Máccô hoàn toàn bỏ qua kiểu giảng truyền trên, để chỉ ghi lại lời loan báo Phép rửa của Người... Gioan Tẩy Giả chỉ nhằm giới thiệu Đức Giêsu "Đây là Đấng đến sau tôi mà các ông đang ngóng đợi" Người đã đến nơi rồi. Các ông hãy sẵn sàng!
Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người.
Như thế, ngay từ đầu trình thuật, Máccô đã lưu ý ta: Đức Giêsu mà ông sắp nói đến mang một mầu nhiệm. Đấng chưa biết rõ này, trước khi công khai xuất hiện, đã được người ta mong chờ. Điều đó muốn làm nổi bất nhân cách phi thường của Người: Vậy ông ta là ai? Gioan Tẩy Giả còn không dám "cúi xuống trước Người"!
Tôi, thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Trong chương đầu tiên này. Máccô đã đề cập đến Thánh Thần tới ba lần. (Mc 1,8.10.12). Sự nhấn mạnh của ông hẳn là không để ta cứ vô tâm được. Chính các thính giả của Gioan Tẩy Giả cũng không thể nhầm lẫn. Như chúng ta họ phải biết lời tiên báo liên hệ đến Đấng Mêsia vị mang Thần Khí. (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) và truyền thống dồi dào Thần Khí trên nhân loại vào thời cứu độ (Is 32,15; 44,3; 59,21; Dt 11,19; 36,25; 2.9,37; 39,29 Ge 3,l...) Do đó, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả chính là nhằm loan báo Đấng Mêsia đã đến gần kề, Người sắp đổ tràn Thần khí, để làm phát sinh một nhân loại mới.
“Người làm phép rửa, nhận dìm anh em trong Thần khí” Chúng ta có ý thức rằng, phép rửa Kitô giáo của chúng ta: cũng như thế không? Nói chung, chúng ta còn chưa sống thực sự ý nghĩa thâm sâu của phép rửa mình lãnh nhận. Vì bị nhận chìm trong môi trường vô thần hiện nay, tất cả chúng ta thường dễ cho rằng, việc "cứu độ" nhân loại là do hậu quả những nỗ lực, những thái độ nhân bản đầy giá trị của ta. Quan điểm về khoa học kỹ thuật cũng tạo cho ta quen nghĩ rằng, việc cứu độ con người nằm ngay trong con người: chúng ta phải trở nên liên đới hơn, hãy làm chủ thiên nhiên hơn, hãy sống chia sẻ nhiều hơn. Điều đó không sai. Nhưng tất cả "Mạc khải Kinh Thánh" (và kinh nghiệm chính thức nhất của con người) cũng nói cho ta hay, ý nghĩa sự sống của con người không nằm trong con người: vũ trụ dù lớn lao cách mấy, cũng không tự mình có "cứu cánh” được con người chỉ có thể hoàn tất trọn vẹn, khi mơ tới một thực tại siêu việt: Đó là Thần khí của Thiên Chúa! Như thế, câu trả lời cuối cùng cho tất cả các vấn nạn lớn, không nằm trong con người. Có ích lợi gì khi lên vũ trụ và lên tới mặt trăng, mà vì thế mà lại tự sát? Chiều kích "siêu việt" càng ngày càng khẩn thiết. André Malraux viết: "Thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên Kitô giáo, hay nó không là gì cả!"
Cũng trong những ngày ấy, Đức Giêsu từ thành Nagiarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa cho tại sông Giođan.
Đây là lần xuất hiện đầu tiên của Đức Giêsu trong trình thuật Máccô.
Đấng "chưa được nhận biết" này đã âm thầm sống ba mươi năm trong bóng tối của một càng quê nhỏ bé, mà cả Kinh Thánh, các sách Talmud, lịch sử hay địa lý cũng chưa khi nào nhắc đến... trước khi con người Giêsu chưa làm cho nó nổi danh trên thế giới, Vào thời đó, theo những khai quật khảo cổ Nagiarét chỉ gồm 20 nóc gia, và như thế khoảng độ một trăm dân cư. Chính từ vẻ tối tăm lạ thường đó, lại phát sinh một trong những biến động lịch sử lớn lao nhất, làm thay đổi bộ mặt địa cầu. Vậy con người Giêsu đó là ai? Lúc này đây, Người vẫn giữ vẻ bề ngoài như một người bình thường: Người cũng đến nhận phép rửa sám hối.
Vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở ra.
Mô tả cảnh này, Luca và Matthêu dùng một từ êm dịu hơn: "Trời mở ra". Còn Máccô viết: Tầng trời "mở tung ra".
Vừa rồi, khi bàn đến Phép rửa, ta đã gợi lên một thế giới mà trong đó con người có khuynh hướng tự đóng khung mình vào. Giờ đây Đức Giêsu chọc thủng một lỗ hổng trong vũ trụ đã đóng kín đó. Kể từ giờ trở đi trong con người của Đức Giêsu, nhân loại sẽ có một "kẽ hở" để thông hiệp với thế giới Thần linh.
Qua cách dùng từ gợi hình trên, ta có thể nhận ra lối viết thực tế của Máccô. Nhưng ta cũng có thể coi đây là một ám chỉ tới Isaia; vào thời lưu đày đau khổ, trong khi mệt mỏi và âu lo vì Thiên Chúa vân lặng thinh, một vị ngôn sứ đã khẩn cầu Thiên Chúa hãy phá tan sự thinh lặng như thời kỳ giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và lời cầu nguyện của ông đã trở thành tiếng kêu van: "A! ước gì Người xé trời mà xuống..." (Is 63,19).
Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
Cảnh này là cảnh đầu tiên trong cuộc đời của Đức Giêsu, theo Máccô. Theo vị thánh sử này, thì tác động đầu tiên của Đức Giêsu là "một cái nhìn", chỉ mình Đức Giêsu đã chứng kiến trời "xẻ mở" như trên, nhờ đó, Thần khí mới đáp xuống. Như vậy, chúng ta đang đứng trước một biến cố siêu nhiên, mà những người mục kích khác không nhận ra. Đó là cái nhìn nội tâm, chắc chắn diễn tả cách đào sâu lương tâm mà Đức Giêsu có được là do tư thế làm con Thiên Chúa và do sứ vụ của Người. Chúng ta cũng cần nỗ lực để hình dung ra sinh hoạt tâm lý của Đức Giêsu: Người đã không "trở nên" con Thiên Chúa nhờ tiến hóa bởi vì Người luôn luôn là con... Nhưng, xét là một người đích thực, cần phải có một tình trạng tiến triển nào đó trong lương tâm Người, phù hợp theo độ tuổi và theo những kinh nghiệm của Người: Ngày nay, ta có thể nói đó là một thứ "trực giác" hơn là một cái nhìn. Nhưng ngôn từ cửa chúng ta còn quá yếu kém để diễn tả những thực tại của Thiên Chúa.
Cựu Ước thường minh chứng cho ta, cách Thần khí xâm chiếm một người để trao cho một sứ vụ rõ ràng (Is 11,2; Tt 6,34; 14,19; 15,14). Và thực sự ta có thể hình dung ra được, Đức Giêsu bị xâm chiếm bất ngờ trong toàn thân Người, để xác tín về "vai trò" phi thường Người sẽ đảm nhận.
Thần khí đã tự "tỏ hiện" dưới dáng vẻ nào? Ta thấy bản văn dùng từ “như”- “như một chim bồ câu”. Trong ngôn ngữ Khải huyền, hình ảnh đặc thù này được sử dụng có ý gợi lên điều gì không thấy được: “Ao người trắng như tuyết, tóc đầu người như len trắng" (Đnl 7,9).
Nếu ta được dịp hiện diện trong một cuộc "thần hiện", nghĩa là một cuộc "tỏ hiện của Thiên Chúa", ta sẽ thấy không thể dùng lý trí để đi sâu vào mầu nhiệm được: Thiên Chúa không bao giờ xuất hiện như một thứ "thách đố” đối với con người... từ mọi phía Người vượt qua mọi khả năng cảm nhận và tưởng tượng của ta. Cần phải chấp nhận sự "xé mở", và để mình chìm trong lỗ hở đó như rơi vào trong một vức thẳm.
Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con".
Đây là kinh nghiệm độc nhất về tình âu yếm. Đức Giêsu biết mình được yêu. Hiển nhiên một ít người đã có dịp gần Đức Giêsu, khám phá ra nơi Người một kiểu tương quan hết sức đặc biệt với Thiên Chúa. Trong lúc cầu nguyện Người nói với Đấng vô hình trong một mối thâm tình mà trước Người không ai dám sống như vậy. Người thưa lên: “Abba!" có nghĩa như "Ba ơi!" (Mc 14,36).
Từ nhiều năm, trong thôn làng Nagiarét nhỏ bé và tăm tối của mình, Người vẫn âm thầm sống cách diệu kỳ mối tình con thảo đó. Và giờ đây mới có dịp vang lên như tiếng chuông ngân vui trong trái tim Người: "Con là tình yêu của Cha. Con là con độc nhất của Cha. Cha hài lòng về con". Chắc chắn, những lời đó đã được rút ra từ Kinh Thánh. Tốt hơn ta nên đọc lại những câu trên mà Đức Giêsu hẳn đã suy niệm, thưởng nếm nhiều năm trong khi cầu nguyện tại Hội đường, hay trong nếp sống hàng ngày tại căn nhà bé nhỏ, với Đức Maria, trong khi làm việc. Có lúc nào bạn cảm nghiệm như thế không? Bạn có cảm thấy mình được yêu chưa? Có đáp trả tình yêu đó? Tình yêu như một cái vừa mạnh mẽ, vừa dịu êm, đem lại cho mọi giây phút đời bạn tràn ngập bình an và hạnh phúc.
Ta sẽ là Cha nó, và nó sẽ là con Ta (2 Sm 7,14).
Đức Giêsu đã phán với tôi rằng: "Người là con Ta, chính hôm nay, Ta đã sinh ra người". (Tv 2,7)
"Này đây tôi tớ của Ta, kẻ Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ" (Is 42,1).
"Hỡi Giêrusalem, người ta sẽ gọi ngươi tên mới: Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ bỏ!”, thiên hạ sẽ gọi ngươi "Sủng ái của Ta" (Is 62,4)
74. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA Ở SÔNG GIOĐAN
VÀ CUỘC TỎ HIỆN CỦA THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh
Dưới ánh sáng Phục sinh, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về tới biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Cùng với sứ vụ của Vị Tiền Hô, biến cố này làm thành phần "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1).
Ở đây, tác giả cho chúng ta khám phá trong một lúc sự hoàn tất những lời đã hứa cho Israel, cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Đức Kitô, khởi đầu và lời loan báo về sứ vụ của Người.
D. Jacquemin viết: "Được các thánh sử Tin Mừng kể lại ngay trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ, bài tường thuật cho thấy từ nay phải hiểu toàn bộ cuộc đời công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng đó (nó chiếu rọi trước hào quang của Phục sinh). Và rồi, trong lần hiển hiện đầu tiên của Thánh Thần này, trong cuộc xuất đầu lộ diện của Con Thiên Chúa đến hiện diện giữa loài người này, người ta được chứng kiến thời buổi cánh chung đă khởi đầu, “triều đại Nước Trời đã khai mở" (Assemblées du Seigneur, số 12, trang 66).
2. Một biến cố hoàn tất những lời hứa xưa
Bài đọc Tin Mừng của ngày lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, được bắt đầu bằng một màn "ra mắt" nhân vật Giêsu:
+ Hoạt động của Người được thuật lại bằng một công thức xem ra xa lạ nơi Máccô, được vay mượn từ Cựu Ước. Nó có thể lấy từ đoạn ra mắt của Môsê, ở đầu sách Xuất Hành: xảy ra là vào những ngày ấy, Môsê lớn rồi, thì..." (Xh 2, 11). Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã được giới thiệu như là Môsê mới. Điều trớ trêu, Đức Giêsu đã không đến từ miền Giuđêa hay từ thành thánh Giêrusalem, nhưng lại từ Nagiaret, miền Galilê, một làng quê hẻo lánh thuộc một vùng vốn bị thiên hạ coi rẻ. Bởi đó mới có câu: “Từ Nagiaret, làm sao có cái gì hay được" (x. Ga 1,46). Và Người đến như bao kẻ khác, để chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan.
Máccô bỏ qua không nói đến cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả, cũng như chi tiết việc Chúa dìm mình xuống sông Giođan. Bù lại, nhờ khả năng vận dụng khéo léo và làm khơi lên phong phú những hình ảnh Kinh Thánh, ông đã minh hoạ được điều mà cộng đoàn Kitô hữu sau này, dưới ánh sáng Phục sinh, xem là đặc thù nơi biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa.
+ Cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa xảy ra, tác giả Tin Mừng xác định rõ, "khi Đức Giêsu vừa lên khỏi nước”. Nhận xét này, một lần nữa, có ý trình bày Đức Giêsu như là Môsê mới.
Quả thực, theo J.Hervieux giải thích: người ta tìm thấy nơi sách ngôn sứ Isaia một lời cầu tha thiết xin Thiên Chúa tái diễn lại những hành động cứu thoát như thời Xuất Hành. Máccô được gợi hứng từ một đoạn trong sách đó có câu: "Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) đã từng làm cho bước lên khỏi nước biển vị mục tử (= Môsê) chăn dắt đàn chiên của Người?". Bởi đó chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả Tin Mừng nói rằng chính lúc ‘vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu đã được nhận lấy Thánh Thần’. Đối với Máccô, Đức Giêsu chính là Môsê mới. Phép rửa Người chịu là một cuộc vượt qua mới khỏi Biển Đỏ" (L'evangiìe de Marc, Centurion, 1991, trang 20).
+ Khác với Tin Mừng Matthêu, cuộc tỏ hiện ở đây xảy ra nhằm chính Đức Giêsu. Nó gồm hiện tượng: các tầng trời xé ra, Thần Khí ngự xuống, và tiếng từ trời phán.
a) "Đức Giêsu liền thấy các tầng trời xé ra”. Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời, nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng đã bị cắt đứt. Bởi thế đến hôm nay, khi Người đáp lại tiếng van nài của vị Ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ: "Ước gì Ngài xé trời và ngự xuống”, thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa Thiên Chúa và loài người. Kiểu nói "xé ra" sau này chỉ trở lại dưới ngòi bút của Máccô vào giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá: "Bức màn trương trong đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới (15,38). Điều đã được khai mở hôm nay trên dòng sông Giođan rồi đây sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên đồi Canvê: Đức Giêsu đã mở ra một lối đi cho hết mọi người được tự do đến với Thiên Chúa.
b) "Và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình”.
Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí đã như bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Ở đây, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giođan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định Người làm vị Ngôn sứ của thời đại mới.
c) “Lại có tiếng từ Trời phán rằng: Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Thiên Chúa (trong thế giới Do Thái, Trời là một cách để gọi Thiên Chúa mà tránh đụng đến Người) chứng thực cho sứ mạng của Đức Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, bởi ở đây Thiên Chúa đã nói với Người những lời mà ngoài Người ra chưa từng nói với ai. Những lời này có tầm mức vô cùng quan trọng, chúng hoạ lại và đồng thời làm sáng tỏ ý nghĩa hoàn tất của một số câu nói trong Cựu Ước:
- Họa lại một câu trong Thánh vịnh 2: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (c.7), mà truyền thống Do Thái vừa đọc lên như lời sấm về Đấng Mêsia. Ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, Đức Giêsu đã được tuyên phong là Vua Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavid, là Đấng Kitô của Thiên Chúa: Hoạ lại câu nói được nhắc đi nhắc lại đến 3 lần trong Sách Sáng Thế 22, lúc Abraham vì vâng lệnh truyền của Thiên Chúa, toan hạ tày sát tế Isaac, đứa con của lời hứa, "đứa con yêu dấu" của ông. Đức Giêsu được xem như một Isaac mới, khác chăng là Người đã không thoát khỏi cái chết. Sau cùng, hoạ lại nhiều từ trong Isaia 42,1; Đức Chúa phán bảo cùng Người Tôi Tớ: "Này đây Tôi Tớ của Ta, kẻ Ta nâng đỡ, Người Ta đã chọn và hồn Ta sùng mộ”. Giống như Người Tôi Tớ đó, Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa hằng một niềm dấu ái và Thần Khí ngự xuống dư đầy, nay được sai đi thi hành sứ mạng là trở nên ánh sáng các nước, "mở những mắt mù loà”, "đưa tù nhân ra khỏi nhà lao, khỏi ngục thất dân cư bóng tối" (Is 42,6-7). Và cũng cùng một thân phận với Người Tôi Tớ được vị ngôn sứ loan báo trên, Chúa sẽ phải thực hiện sứ mạng ấy qua con đường tự hạ, và khổ đau.
3. Và mở ra sứ mạng sẽ tới
Như vậy, ngay từ trang đầu tiên của Tin Mừng Máccô, tất cả đã cho thấy một tấn kịch đang được mở màn. Tuy nhiên, mọi sự chỉ mới ở mức độ nói xa nói gần, nói dè dặt, gần như còn cần phải giữ kín đáo để vạch ra một cái hướng cho những gì cần phải được khám phá trong suốt bản văn.
Jacques Hervieux kết luận: "điều hiển nhiên là, đối với Máccô, phép rửa Đức Giêsu chịu không phải nhằm tẩy sạch những tội lỗi mà Người chẳng hề phạm. Đó chính là tín hiệu khởi hành, là trái giao banh cho sứ mạng mà Thiên Chúa ký thác cho Đấng được gọi là "Mêsia”, và là "Con Thiên Chúa" (theo nghĩa mạnh của niềm tin Phục sinh).
Đức Giêsu quả là Sứ Giả đặc biệt của Thiên Chúa để thiết lập vương quốc của Người. Từ giây phút này, người đã có thể vào cuộc để thực hiện sứ mạng ấy.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức Giêsu, người Con Chí Ái của Chúa Cha.
(Mgr. Daloz, trong "Qui don est-il?", Desclée de Brouwer, tr.11).
"Đức Giêsu, kẻ xuất thân từ làng Nagiarét ấy, là Con Thiên Chúa, đó không chỉ là một định nghĩa hay một danh xưng mà thôi đâu. Đó là một liên hệ tình yêu, một mối dây "gia đình”. Tiếng Chúa Cha đã vang lên trìu mến: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con. Đúng là một khẳng định của tình yêu Đức Giêsu vừa là con người xuất thân từ Nagiarét, vừa đồng thời là Đấng sống mật thiết với Chúa Cha trên trời: Các tầng trời xé ra, và Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người. Đây mới thực là "mầu nhiệm của Đức Giêsu, mà người ta chẳng bao giờ khám phá cho cạn, suy cho thấu. Mầu nhiệm của một đời người hoàn toàn cho tình yêu, tràn đầy Thần Khí. Cuộc đời của Đức Giêsu ngay từ ban đầu đã được xác định qua tương quan với Chúa Cha và với Thần Khí. Đó chính là mấu chốt thâm sâu nhất của bản thân Người. Đức Giêsu được giới thiệu cho chúng ta qua lời xác nhận yêu thương của Chúa Cha. Đây là danh thiếp của Người: "Con Chí ái của Cha”.
2. “Hội Thánh và những anh chị em tân tòng hôm nay"
(Guy Cordonnier, trong "Pastorale sacramentelle. Points de repères", Cerf, trang 138-139).
"Kitô giáo, xét như là một hiện tượng xã hội học, ngày nay đang trên đường bị xoá sổ. Trào lưu ngoại giáo cổ lại như đang tìm cách trở lại với khoa chiêm tinh, các giáo phái, ma thuật, bói toán, các thầy gu-ru vv... không còn những khuôn mẫu, mọi cơ chế bị đặt lại vấn đề, nỗi thèm khát để có nhiều, biết nhiều, xu hướng ngày càng nghiêng về những cảm nghiệm tức thời và hời hợt... đó là những dấu đậm nét trên thời đại của chúng ta hôm nay, và người Kitô hữu đôi khi không biết làm sao để tìm thấy lại được chân tính của mình trước nền văn minh hiện đại. Giữa lòng một xã hội như thế, những tín hữu Kitô chúng ta có bổn phận phải làm chứng về các giá trị Tin Mừng. Họ được mời gọi đừng co cụm lại trong thế giới của mình, nhưng hãy tham gia vào số phận chung của nhân loại và khám phá những dấu chỉ của Nước Trời khắp nơi. Những dấu chỉ đó vượt xa biên giới hữu hình của Hội Thánh: Nước Thiên Chúa phải chăng hôm nay đang hiện diện ở bất cứ nơi nào có tình yêu bày tỏ, có công lý ngự trị, có sự quan tâm thương mến những người nghèo?
Thời buổi hiện đại hôm nay là một thời cơ tốt cho Hội Thánh, đang chịu thách đố để trả lời cho những vấn nạn và khát vọng mới. Những người trưởng thành mới chịu phép Rửa Tội, trong lúc gắn bó với môi trường sinh sống của mình, trở nên một thứ nhịp cầu nối liền môi trường ấy với Hội Thánh. Họ đã am hiểu những gì ở trong thế giới chưa-có-đức-tin, nên họ nói với chúng ta: "Xin quí vị đừng bỏ qua những người chưa được rửa tội, những người đã bỏ đạo, những người ở vị trí vòng ngoài của Hội Thánh. Làm sao để loan báo Tin Mừng cho họ bây giờ?”.
Những câu hỏi như thế phải giúp chúng ta trở về với điều được xem là hiển nhiên nơi các hiểu biết và thực hành của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng hoà hợp những điều đó nơi các anh chị em mới trở lại, tức là những người quay về lại với Hội Thánh sau một thời gian đoạn tuyệt ít nhiều lâu dài, với nơi một số đông các Kitô hữu nhạy bén với thế giới hôm nay: làm sao để hội nhập đầy đủ vào trong Hội Thánh như hiện nay? Làm sao chất vấn, thậm chí thúc đẩy Hội Thánh đáp ứng được nhiều hơn sứ mạng của mình?
Những anh chị em tân tòng chỉ là số nhỏ, nhưng sự hiện diện của họ mang nặng ý nghĩa. Việc tiếp nhận họ có liên can đến mức độ phong phú thiêng liêng của Hội Thánh. Các giáo đoàn của chúng ta có ý thức đầy đủ điều đó? Sự kiện những người đã lớn ngoài Kitô giáo tìm đến với Đức Tin còn là một hiện tượng quá mới mẻ để chúng ta có được một mục vụ đặc biệt cho. Đây đó đã có vài sáng kiến trong một số giáo phận, nhưng người ta vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm".
75. Chú giải của William Barclay
Mc 1, 7-9
THÔNG ĐIỆP CỦA GIOAN
1) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.
2) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Mc 1, 9-11
NGÀY QUYẾT ĐỊNH
Với bất cứ ai biết suy nghĩ, thì phép rửa của Chúa Giêsu hẳn phải nêu lên một vấn đề. Phép rửa của Gioan là phép rửa kêu gọi hoán cải, dành cho những người hối tiếc về tội lỗi của mình và muốn bày tỏ quyết định từ bỏ chúng, dứt khoát với chúng. Nhưng một phép rửa như thế thì liên hệ gì đến Chúa Giêsu? Ngài lại không phải là Đấng vô tội, và một phép rửa như thế lại không phải là hoàn toàn không cần thiết, không thích hợp với Ngài hay sao? Với Chúa Giêsu thì phép rửa có bốn ý nghĩa sau đây.
1) Với Ngài đó là khoảnh khắc quyết định. Ba mươi năm qua Ngài ở tại Nagiarét, Ngài trung tín làm bổn phận hàng ngày trong nhà. Từ lâu Ngài đã ý thức rằng sẽ có lúc Ngài phải rời gia đình, chắc Ngài đang chờ một dấu hiệu. Với Ngài, sự xuất hiện của Gioan chính là dấu hiệu đó. Ngài thấy đó chính là khoảnh khắc Ngài phải dấn thân vào sứ vụ. Trong mỗi đời sống đều có những khoảnh khắc quyết định mà người ta có thể chấp nhận hay chối từ. Chấp nhận chúng là thành công, chối bỏ chúng là hụt mất, thất bại. Mỗi người đều có một khoảnh khắc để quyết định mà không bao giờ còn gặp lại. Một đời sống phí hoài, thất vọng, bất đắc chí và thường thường một đời sống đầy thảm kịch là một đời sống không biết quyết định. Một đời sống bỏ mặc, đánh liều nhắm mắt đưa chân chẳng bao giờ là một đời sống có hạnh phúc. Khi Chúa Giêsu biết Gioan xuất hiện là lúc Ngài phải quyết định. Làng Nagiarét vốn bình lặng, gia đình Ngài vốn yên lành, êm đềm, nhưng Ngài phải đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.
2) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để tự hòa mình với mọi người. Chúa Giêsu không cần phải hoán cải, nhưng đây là lúc mà dân chúng cần quay về với Thiên Chúa và với phong trào trở về đó, Ngài quyết định tự hòa mình vào. Có thể có người đang sống thoải mái dư giả, sung túc, nhưng nếu người ấy thấy dấy lên một phong trào có thể đem đến nhiều điều tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ bị chà đạp, phải cư trú trong những ngôi nhà lụp xụp tồi tàn, phải lao động quá sức nhưng lại nhận những đồng lương quá ít ỏi, không có lý do gì để người ấy không chịu đến để hòa mình vào đó. Sự hòa mình thật sự có ý nghĩa khi một người tự hòa mình vào một phong trào không phải vì chính mình nhưng vì kẻ khác. Trong giấc mơ của John Bunyan, Kitô hữu và nhà truyền giáo đến một cung điện được canh giữ cẩn mật, đòi hỏi phải có một chiến trận để tìm đường vào. Tại trước cửa có một người ngồi, tay cầm bút để ghi tên những người dám tấn công. Trong lúc mọi người đang chùn lại thì Kitô hữu thấy một người dung mạo cường tráng, tiến đến bên cạnh người đang cầm bút và nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi”. Khi thấy việc trọng đại trước mắt, Kitô hữu bị buộc phải nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi” vì đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài đến xin chịu phép rửa.
3) Với Ngài đó là khoảnh khắc để được chấp thuận. Chẳng có ai lại nhẹ dạ bỏ nhà ra đi mà không biết mình đi đâu. Người ấy phải biết chắc chắn mình đã hành động đúng. Chúa Giêsu đã quyết định bắt đầu hành động và giờ đây, Ngài đang chờ đợi dấu ấn đồng ý tán thành từ Chúa Cha. Vào thời của Chúa Giêsu, dân Do Thái nói về điều họ gọi là Bath Qol có nghĩa là con gái của tiếng gọi. Bấy giờ, họ tin là có nhiều tầng trời, trên tầng cao nhất có Thiên Chúa ngự trong một vùng ánh sáng không một ai đến gần được. Thật là hiếm có những cơ hội mà các tầng trời mở ra và Chúa truyền phán. Theo họ Chúa ở xa đến nỗi người ta chỉ nghe được tiếng phán của Ngài vọng lại từ nơi thật xa mà thôi. Với Chúa Giêsu, tiếng phán của Chúa Cha hoàn toàn trực tiếp. Theo Maccô kể, đây là một kinh nghiệm riêng của Chúa Giêsu chớ không có ý bày tỏ cho quần chúng. Tiếng từ trời không nói “Này là Con yêu dấu của Ta” như Matthêu ghi lại, nhưng phán thẳng với chính Ngài rằng “Con là Con yêu dấu của Cha”. Lúc chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã quyết định phục tùng Chúa Cha và rõ ràng quyết định ấy đã được chấp thuận, không có gì phải nghi ngờ cả.
4) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để trang bị. Bấy giờ Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ở đây có ý nghĩa biểu tượng, Thánh Thần đã ngự xuống như chim bồ câu. Hình ảnh dùng so sánh không phải là ngẫu nhiên. Chim bồ câu tượng trưng cho sự nhu mì. Cả Matthêu lẫn Luca đều kể lại cho chúng ta cách rao giảng của Gioan (Mt 3,12; Lc 3,7-13). Thông điệp của Gioan là thông điệp chiếc búa đang đặt gần gốc cây, về việc luyện lọc khủng khiếp, về ngọn lửa thiêu rụi. Đó là một thông điệp cấp báo sự tàn hại, hủy diệt, chứ không phải một thông điệp của những tin tốt lành. Nhưng ngay từ đầu, bức tranh về Thánh Thần được ví sánh với chim bồ câu là một bức tranh nhu mì, hiền dịu. Ngài sẽ chiến thắng nhưng chiến thắng ấy sẽ là chiến thắng của tình yêu.
76. Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Trong truyện cổ dân gian cũng như trong những bộ tiểu thuyết, có biết bao nhiêu câu chuyện tình thật cảm động, khi hai người đến với nhau mà người bạn đời lại không “môn đăng hộ đối”. Thế nhưng, vì tình yêu, họ đã dám chấp nhận tận cả để có được nhau trong đời, như câu chuyện hoàng tử đi cưới một cô bé lọ lem chẳng hạn. Để ca tụng mối tình vượt không gian và thời gian đó, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Yêu nhau chẳng ngại đường xa. Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều”.
Thế nhưng màu nhiệm Con Thiên Chúa làm người là một câu chuyện tình đẹp hơn thế bội phần. Bởi vì vị hôn phu ở đây không phải là một người phàm, nhưng là một vị Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở trên trời cao để đến với nhân loại. Như lời bài thánh ca Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Hôm nay, Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Giêsu cùng bước xuống dòng nước Giođan để chịu phép rửa bởi tay ông Gioan đã nói lên sự tự hủy đó. Có lẽ đây là biến cố chúng ta đã kỷ niệm nhiều lần, nên thành ra có cảm giác “quen quá hóa nhàm”, mà không thấy được sự cao vời của màu nhiệm tự hủy của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Quả vậy, làm sao chúng ta có thể hiểu được việc Đức Giêsu - Con Thiên Chúa - Đấng hoàn toàn vô tội, lại có thể đứng chung với đoàn người tội lỗi, để rồi cùng bước xuống dòng sông như một tội nhân? Làm sao có thể hiểu được khi mà Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Chính vì thế mà Tin Mừng Matthêu thuật lại rằng: khi thấy Đức Giêsu đến gần mình, thì Gioan tỏ ra bối rối. Ông đã một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." (Mt 3,14-15)
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Một tình yêu đến quên bản thân mình, để cùng sống chết với người mình yêu. Một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng người mình yêu trỗi dậy.
Thánh Macximô Giám mục Tôrinô đã không ngần ngại gọi ngày hôm nay là một “lễ Giáng Sinh nữa”. Thánh nhân lập luận rằng: lễ Giáng Sinh trước, Đức Giêsu được sinh ra trong thân phận con người bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Còn hôm nay, Người được sinh ra theo mầu nhiệm. Chúa Cha đã âu yếm nói với Người: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Xưa kia, Đức Mẹ nâng niu âu yếm trong lòng khi con sinh ra, còn hôm nay, Chúa Cha dùng lời chứng thân thương mà nâng đỡ; xưa kia, Đức Mẹ đưa Chúa Con cho các hiền sĩ bái thờ, còn hôm nay, Chúa Cha mạc khải Chúa Con cho muôn dân thờ kính. Xưa kia, Người được sinh ra để thánh hóa nhân loại, còn hôm nay, Người khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc chịu phép rửa, không phải để được nước thánh hóa, nhưng là để chính Người thánh hóa nước, để từ nay ơn thanh tẩy được phân phát cho hậu thế.
Với sự kiện Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Người đã khai mạc một giai đoạn mới trong cuộc đời cứu thế của Người. Người kết thúc cuộc sống ẩn dật và bước vào cuộc đời công khai loan báo Tin Mừng. Đồng thời Người mở ra một kỷ nguyên mới, “kỷ nguyên tân tạo” những gì Adong cũ đã làm hư hoại như lời thánh Phaolô xác quyết: “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thế nào, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống như vậy” (1Cr 15,22).
***
Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, dạy cho chúng ta bài học về sự đồng hành và liên đới.
Muốn đồng hành với người khác đòi chúng ta phải đi chậm lại, đòi chúng ta phải có chung một tâm tình, một lối suy nghĩ giống người khác. Sở dĩ ngày hôm nay, nhiều cặp vợ chồng chưa hiểu được nhau, chưa thể tìm được một tiếng nói chung trong gia đình, là vì họ chưa cùng một lối suy nghĩ. Nếu ai cũng khăng khăng bảo vệ lập trường của mình, thì làm sao mong tìm được một sự đồng thuận! Việc gia đình mà cứ “ông nói gà, bà nói vịt” thì làm sao có thể giải quyết được. Người xưa vẫn nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” là vậy.
Trong việc dạy dỗ con cái, nhiều bậc phụ huynh thường giáo dục theo kiểu áp đặt. Theo các chuyên gia tâm lý, muốn giáo dục con cái, cha mẹ trước tiên phải vừa là người thầy để hướng dẫn, nhưng lại vừa là người bạn để có thể lắng nghe và thông cảm.
Để liên đới với người khác, đòi hỏi chúng ta phải nhỏ bé đi, phải khiêm hạ trong lối sống và cung cách cư xử. Hôm nay Đức Giêsu đánh dấu cuộc đời công khai của Ngài bằng một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút... Bên bờ sông Giođan, Ngài trở nên một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan lúc bấy giờ tiếng tăm đã lẫy lừng. Ngài đã cúi xuống, dìm mình trong dòng sông, để nâng con người lên. Như lời một vị thánh giáo phụ đã từng nói: “Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa”.
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Học nơi Đức Kitô, chúng ta hãy sống một đời sống khiêm hạ. Hãy để cho Chúa lớn lên trong cuộc đời chúng ta, để Ngài dìu dắt và hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Đức Giêsu đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình bằng việc dìm mình trong dòng nước. Qua phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần, chúng ta cũng được mời gọi lên đường để phục vụ anh chị em quanh ta, nhất là những anh chị em đang cần một tình yêu chia sẻ, nâng đỡ và trao ban trọn vẹn. Amen.
77. Sống hiền hòa và khiêm hạ noi gương Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giêsu được tấn phong làm vua Mêsia
Tin mừng Mác-cô trình bày việc Đức Giêsu được tấn phong làm Vua Mê-si-a tương tự như một lễ phong vương gồm 3 nghi thức như sau:
- Một là thanh tẩy: Đức Giêsu được Gio-an Tẩy Giả dìm trong nước sông Gio-đan.
- Hai là xức dầu: Đức Giêsu được Thần Khí, qua hình ảnh chim câu, từ trời đáp xuống trên mình để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Vua Mê-si-a.
- Ba là tung hô: Đức Giêsu cũng được Chúa Cha công khai thừa nhận là “Con rất yêu dấu” luôn làm mọi việc theo thánh ý Cha.
CHÚ THÍCH:
- C 7-8: +Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi: Gio-an là “Sứ giả của Giao Ước”, có nhiệm vụ như Ê-li-a ngày xưa: đến trước để chấn hưng mọi sự, hầu dọn đường cho Đức Chúa ngự đến (x. Ml 3,1-3.23-24). Mọi lời Gio-an rao giảng đều liên quan tới Đấng Thiên Sai. Tuy Đấng Thiên Sai đến sau Gio-an nhưng Người lại có đầy sức mạnh và Thần Khí của Đức Chúa để chiến thắng kẻ thù (x. Is 11,2), cụ thể là chiến thắng Xa-tan cám dỗ (x. Mc 1,12-13). +Tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: Cởi quai dép là việc làm của người nô lệ. Gio-an khiêm tốn nhận mình không đáng làm nô lệ cho Đấng Thiên Sai sắp đến. +Phép rửa nhờ nước: Khi chịu phép rửa này, người chịu phép được Gio-an dìm xuống sông Gio-đan như dấu hiệu“tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4). Từ đây họ được gia nhập vào nhóm những người chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a. +“Phép rửa trong Thánh Thần”: Phép Rửa này ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ của Đức Giêsu. Những kẻ chịu phép rửa do Đức Giêsu thực hiện sẽ nhận được Thần Khí tuôn đổ vào lòng. Nhờ đó họ được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Họ sẽ được tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
- C 9-10: +Đức Giêsu từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan: Đúng như lời Gio-an loan báo, Đức Giêsu đã xuất hiện và trước hết Người đến với ông Gio-an. Gio-an đã thi hành sứ mạng tiền hô khi làm phép rửa cho Người trong nước sông Gio-đan .+Người liền thấy: Mác-cô tường thuật cuộc Thần Hiện của Đức Giêsu lúc chịu phép rửa như một thị kiến mà chỉ riêng mình Người trông thấy, đang khi các Tin Mừng còn lại như Mát-thêu, Lu-ca và Gio-an lại tường thuật đúng như đã xảy ra (x. Mt 3,13-17; Lc 3,21-22; Ga 1,32-34). +Các tầng trời xé ra: Đây là sự đáp ứng của Thiên Chúa cho lòng khát vọng của dân Ít-ra-en và của nhân loại. Người ta chờ mong “trời mở ra và Thiên Chúa sẽ xuống cứu độ dân Người”. Hôm nay qua hiện tượng các tầng trời xé ra, Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những lời Ngài đã hứa qua các ngôn sứ (x. Is 63,19b). Ngài sai Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu, giống như Đức Chúa trong cuộc Xuất hành đã ngự xuống trên con dân Ít-ra-en (x. Xh 19,11.18). Với việc trời xé ra, Đức Giêsu bắt đầu ra khỏi Na-da-rét để công khai thi hành sứ mạng cứu độ loài người, đối lập với A-đam ngày xưa (x. Rm 5,12-19). +Người liền thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình: Câu này nhắc tới sự kiện Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước khi Chúa sáng tạo nên trời đất muôn vật (x. St 1,2), nhằm diễn tả một một cuộc sáng tạo mới được thực hiện nơi Đức Giêsu sau khi chịu phép Rửa. Thánh Thần xức dầu thiêng liêng tấn phong và giới thiệu Người là Đấng Thiên Sai, qua hình ảnh một con chim câu đậu xuống trên mình Người (x. Is 11,2 ; 42,1).
- C 11: +“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”: Qua câu này, Mác-cô muốn làm nổi bật dung mạo của Đức Giêsu: Người chính là Vua Thiên Sai, được xức dầu tấn phong để cai trị muôn dân (x. Tv 2,7) ; Người là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, trở thành của lễ hiến tế trên bàn thờ thập giá (x. St 22,2); Người là Tôi Trung của Thiên Chúa, được sai đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chịu chết để đền tội thay cho loài người và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho loài người (x. Is 42,1).
CÂU HỎI: Tại sao Đức Giêsu là “Đấng quyền thế hơn” mà lại xuất hiện như một tội nhân đứng xếp hàng để được Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan?
ĐÁP: Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép Rửa của Gio-an không phải để sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Người vô tội (x. Dt 5,15b; 7,26). Nhưng qua hành động này, Người muốn chia sẻ thân phận yếu hèn với các tội nhân và cảm thông với họ (x. Pl 2,6) và sau này Người sẽ còn chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho họ.
Đàng khác, việc toàn thân Đức Giêsu được Gio-an dìm xuống nước sông Gio-đan, chính là hình ảnh của phép rửa sẽ phải trải qua trong cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau này (x. Rm 6,3-4). Từ mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ thiết lập bí tích Rửa Tội, để tái sinh các tín hữu trở nên con Thiên Chúa và canh tân họ nhờ nước và Thần Khí. Đây là điều kiện cần có để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-6). Ngoài ra, đây còn là cơ hội để Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng Người thực là Đấng Thiên Sai với dân Do thái. Cuối cùng, Đức Giêsu chịu phép rửa của Gio-an để biến đổi phép rửa bằng nước trở thành bí tích Rửa Tội trong Thánh Thần (x Mc 1,8) và lửa (x Lc 3,16;Cv 2,3-4), để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người” (Mc 1,7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Giá trị của sự khiêm hạ giữa đời thường:
Một tài xế xe tải kia không dám cho xe tải chạy qua cầu, vì theo anh nghĩ chiếc xe tải có mui xe cao hơn thành cầu tới 10 phân. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết nên giải quyết thế nào, thì có người đề nghị: Hãy xì bớt hơi cho các bánh xe xẹp xuống. Anh tài xế liền làm theo lời khuyên này và cuối cùng chiếc xe của anh đã có thể an toàn đi qua cầu.
Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt cũng giống như thái độ khiêm nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu “biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng!”. Cũng nhờ biết ứng xử khiêm tốn nhún nhường với tha nhân mà chúng ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.
2) Khiêm tốn là luôn trong tư thế quân bình:
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng thì hỏi thăm và được người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua luôn để gần ngai vàng để nhắc nhở mình.
Khổng Tử nói:
- Ta nghe đồn nhà vua có một bảo vật: không cho nước vào thì lọ sẽ đứng nghiêng ; Đổ nước vào vừa phải thì lọ sẽ đứng thẳng. Còn nếu đổ nước đầy tới miệng thì lọ lại sẽ bị đổ ngã. Có lẽ đó là chiếc lọ này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước để kiểm tra thì kết quả đúng như thế.
Bấy giờ Khổng Tử mới dạy bài học về sự trung dung như sau:
- Người thông minh thánh trí thì hãy giữ quân bình bằng cách làm việc như một người tầm thường chứ không muốn được nổi bật hơn người khác. Kẻ lập được công to thì hãy giữ quân bình bằng thái độ và lời nói khiêm hạ chứ không khoe mình. Kẻ có sức khỏe vô địch thì nên giữ quân bình bằng thái độ ứng xử nhún nhường chịu đựng tha nhân. Nếu đang là một người giầu có thì hãy giữ quân bình bằng sự quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ. Cái lọ của vua Hoàn Công chính là bài học giúp thực hành lối sống quân bình để khỏi bị sụp đổ vậy”.
3) Tôi mới được 2 tuổi:
Một ông cụ mãi đến năm 80 tuổi mới có điều kiện tin theo Chúa và được lãnh bí tích rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa. Từ ngày theo đạo, ông cụ đã thay đổi hẳn trở thành một người mới, ông đã bỏ được sở thích uống rượu say xỉn và không còn chơi bài bạc. Ông đi dự lễ nhà thờ hằng ngày và có lối ứng xử khiêm tốn và bác ái với mọi người chung quanh. Hai năm sau cụ lâm trọng bệnh và bị thày thuốc khám bệnh cho biết cụ sắp chết. Nhiều bạn bè đến thăm và có người thắc mắc hỏi cụ được bao nhiêu tuổi. Ông cụ trả lời:”Tôi mới được hai tuổi. Tám mươi năm trước tôi có sống cũng như chết. Chỉ từ ngày theo đạo tôi mới trở nên một người mới và đến nay mới được hai tuổi”.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay dạy chúng ta bài học về mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu. Người chính là Con Thiên Chúa đã đến lập cư giữa loài người và trở thành người phàm giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ không có tội. Khi đứng xếp hàng để được Gio-an dìm xuống dòng sông để chịu thanh tẩy bằng nước, Đức Giêsu đã thiết lập bí tích rửa tội để thanh tẩy các tín hữu chúng ta bằng Nước và Thánh Thần hầu ban ơn thánh biến hóa chúng ta trở nên con Thiên Chúa giống như Người. Từ nay chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ, nhưng là người nhà của Thiên Chúa. Qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tháp nhập làm chi thể của đầu nhiệm thể là Đức Giêsu. Hơn nữa, chúng ta còn được tham phần vào ba chức vụ của Người là ngôn sứ, tư tế và vương đế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chúng ta cần học tập noi gương Chúa hôm nay là ăn ở khiêm hạ trong lời nói và việc làm như sau:
1) Sống khiêm hạ noi gương Đức Giêsu và Ông Gioan Tẩy Giả:
- Đức Giêsu đã dạy các môn đệ học tập noi gương khiêm nhường của Người như sau: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người đã nêu gương khiêm nhường khi rửa chân hầu hạ các môn đệ và dạy bài học khiêm nhường: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (x. Ga 13,13-15). Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm nhường qua việc đến xếp hàng xin ông Gio-an làm phép rửa, mặc dù Người hoàn toàn vô tội (x. Mc 1,9).
- Còn Gio-an Tẩy Giả cũng thể hiện sự khiêm nhường khi nói mình không đáng làm đầy tớ cho Đấng Thiên Sai như sau: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1,7). Ông cũng khẳng định mình không phải là Đấng Ki-tô Thiên Sai mà chỉ là tiếng người nói trong hoang địa mời người ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Ki-tô sắp đến (x. Ga 1,20.23). Gio-an còn chứng tỏ có đức khiêm nhường qua việc đề cao Đức Giêsu trước mặt các môn đồ: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (x.Ga 3,30).
2) Chúng ta cần làm gì để thực hành nhân đức khiêm nhường?:
- Khiêm nhường trong lời nói: Hãy nói ít nghe nhiều; Không khoe khoang thành tích của mình; Không phê bình nói xấu người vắng mặt; Sẵn sàng xin lỗi khi mắc phải sai sót khiến tha nhân buồn lòng; Kịp thời khen thưởng người cộng tác để động viên những cố gắng của họ; Can đảm bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô bị kẻ khác đàn áp bóc lột.
- Khiêm nhường trong thái độ: Năng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cám ơn những ai làm ơn cho mình; Luôn có thái độ hiền hòa và nhẫn nhịn tha nhân; Biết làm chủ tính nóng giận và không to tiếng la mắng người dưới; Luôn sống “dĩ hoà vi quí”, không “Bé xé ra to”, hoặc “chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ”; Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân; Biết bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa muốn thể hiện qua ý bề trên hay ý chung của tập thể.
- Khiêm nhường trong cách ứng xử: Không đổ lỗi cho người khác, nhưng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; Kiên nhẫn lắng nghe lời phê bình góp ý của người khác; Tận tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi kèm theo sự khôn ngoan để tránh bị lợi dụng; Tránh thái độ “Thượng tôn hạ đạp”; Can đảm đứng ra bênh vực những người “thân cô thế cô”; Khi công việc bị thất bại sẽ không đổ lỗi cho người khác, mà nhận phần trách nhiệm của mình; Khi thành công thì nhận là do ơn Chúa ban và là công của tập thể. Khi làm được điều gì tốt thì hãy khiêm tốn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
4. THẢO LUẬN: Tuần này bạn sẽ làm gì để tập sống đức khiêm nhường noi gương Chúa Giêsu và ông Gio-an Tẩy Giả?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Qua việc tình nguyện xếp hàng xin Gio-an làm phép rửa, Chúa muốn dạy chúng con thực thi đức khiêm nhường, là nền tảng của sự thánh thiện. Về phần con, con mang đầy những tội lỗi khuyết điểm, thế mà con lại thường ngại ngùng khi phải thú tội trong tòa giải tội. Con chỉ là một kẻ bất tài vô đức, thế mà con lại thích được nổi tiếng, được người đời khen ngợi về tài năng và lòng đạo đức của mình. Con thiếu khả năng lãnh đạo, thế mà con lại muốn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong tập thể...
- Lạy Chúa Giêsu, “Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, xin thanh tẩy con sạch mọi thói hư tật xấu, nhất là thói tự ái cao và tự mãn. Xin giúp con thành tâm hoán cải để luôn ứng xử hiền lành và khiêm tốn hơn, để con đáng được Chúa thứ tha tội lỗi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam