Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1373564

DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO

DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.

“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.

“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.

“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.

“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.

“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.

“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi...”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.

“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.

“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.

Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.

Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.

Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn...Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế... Há tôi lại không được phép.... sao?”

Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.

KẾT LUẬN

Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.

2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.

3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.

4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.

5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.

 

69. Chú giải của Fiches Dominicales

TÌNH YÊU VƯỢT XA CÔNG LÝ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Bảo vệ quyền lợi và đặc quyền

Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem, đã loan báo lần đầu tiên về cuộc khổ nạn sắp tới, Ngài không quên cảnh báo các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. Tại Caphanaum, Ngài đã phác hoạ khuôn mặt của cộng đoàn mà Ngài sáng lập phải có, nếu cộng đoàn ấy muốn phản ánh hình ảnh của “Cha trên trời”. Một cộng đoàn biết quan tâm tới “những kẻ bé mọn”; một cộng đoàn huynh đệ biết giúp đỡ thương xót và tha thứ cho nhau.

Hôm nay Ngài đến Giuđêa, bên kia sông Giođăng (19,1) tại đó Ngài bắt đầu dạy cho những kẻ theo Ngài biết sự đảo nghịch mà họ phải đi tới. Sự đảo nghịch có trong mọi lãnh vực đời sống, đời sống vợ chồng, thái độ với trẻ em, mối liên hệ với của cải vật chất (19, 3-39). Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một -Phúc âm Chúa nhật XXV Thường niên- cho ta một minh hoạ về sự đảo nghịch Phúc âm này. Thoạt tiên, dụ ngôn này gây phẫn nộ nơi công chúng quen có mặt trong các buổi quy tụ ngày Chúa nhật, vẫn nhạy cảm với việc bảo vệ quyền lợi xã hội và với vết thương do nạn thất nghiệp gây ra. Đức Cha L. Daloz tự hỏi: “Dụ ngôn đó không chống lại tất cả những quy tắc về công bình phân phối và về quản lý tốt đẹp đó sao. Ai đời đi thuê mướn thợ vào các giờ giấc khác nhau rồi cuối cùng trả lương cho người cuối cùng cũng bằng người đầu tiên! Tự nhiên ta dễ đồng ý với những người mong được trả nhiều hơn, lẩm bẩm kêu trách chủ: “Những người đến sau cùng chỉ làm việc có một giờ mà ông đối xử cũng thư chúng tôi, trong khi chúng tôi phải chịu vất vả, nóng nực suốt ngày”. Nếu dụ ngôn muốn dạy ta rằng đó là cung cách hành xử của Thiên Chúa, thì chúng ta phải thất vọng. Trong Phúc âm, có những lời của Đức Giêsu rất bí hiểm, nếu không nói là gây vấp phạm ta cảm thấy đồng ý với phản ứng của người anh của đứa con phung phá khi nó trở về, người cha dọn tiệc ăn mừng, dù nó đã phung phí hết tiền bạc. Ta không hiểu làm sao những phường trộm cắp, đĩ điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta. Ta khó mà chấp nhận cung cách hành xử của người chủ vườn nho. Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã rút ra, một kết luận: “Vậy những kẻ sau cùng sẽ trở lên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ trở lên sau cùng”. Ta muốn la lên: không công bình! Vậy thì trung tín, chung thuỷ có ích gì? Tội gì mà chịu cực giữ luật Thiên Chúa, nếu Ngài ban Nước Trời cho những kẻ đến sau cùng, chẳng chịu nắng nôi khó nhọc gì, ta cần phải tìm hiểu dụ ngôn này.”

Việc quan trọng nhất là phải xác định cử tọa mà dụ ngôn nhằm nói với. Ở đây Đức Giêsu nói với người Do Thái, đúng hơn, với những thành phần ưu tuyển trong tôn giáo của họ: những biệt phái và luật sĩ vừa tức giận vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế, những người tội lỗi, vừa ghen tương vì sự quan tâm mà Đức Giêsu bày tỏ với họ. Một bối cảnh rất gần với dụ ngôn người cha và hai con trai ở Lc 15 mà dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng. Đức Giêsu không hề muốn đụng chạm tới lãnh vực công bình xã hội. Điều Ngài tìm kiếm là, qua dụ ngôn nghịch lý này, dẫn các thính giả tới chỗ tự tra vấn về mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với anh em: cả họ nữa, họ đã chẳng bị cám dỗ co lại trong đặc quyền đặc lợi của họ, không còn biết kinh ngạc trước lòng quảng đại kỳ diệu của Thiên Chúa đối với mọi người và hoa trái của ân sủng Người nơi anh em họ đó sao?

Câu chuyện khởi đầu rất bình thường. “Nước Trời giống như ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ thuê người làm...”? ông chủ vườn nho này “ra đi” nhiều lần (cũng như người cha. trong dụ ngôn của Luca 15 ra nhiều lần) vào những giờ khác nhau để nhắc lại lời mời gọi: “Hãy vào làm vườn nho cho ta”, chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải chú ý, cho tới lúc, bất chấp những luật lệ sơ đẳng về lợi nhuận, ông còn ra chợ “vào lúc 5 giờ chiều”, trong khi mặt trời sắp lặn nhường chỗ cho bóng đêm? Ta vẫn còn chưa hết ngạc nhiên! Vào lúc chiều tối, thay vì trả công cho người làm sớm nhất và để cho họ ra về, ông chủ lại ra lệnh cho viên quản lý trả lương 'bắt đâu từ những người làm sau hết và kết thúc bằng những người làm đầu tiên”, họ sẽ là chứng nhân cho cử chỉ của ông? Những người được thuê vào lúc 5 giờ chiều tiến đến và nhận “mỗi người 1 đồng bạc”. Những người đầu tiên, đã chịu cực khổ suốt ngày, tò mò quan sát cảnh tượng và hy vọng sẽ được trả “nhiều hơn”. Nhưng khi đến phiên họ, họ cũng chỉ nhận được một đồng bạc như hợp đồng lúc thuê mướn. Từ im lặng, ngạc nhiên đến “lẩm bẩm kêu trách”: “Họ lẩm bẩm kêu trách ông chủ”. Những tiếng lẩm bẩm khiến ta nhớ lại tiếng lẩm bẩm của đứa con trưởng khi cha long trọng đón tiếp đứa con phung phá trở về (Lc 15). Những tiếng lẩm bẩm hoà nhịp với tiếng lẩm bẩm của con cái Israel suốt thời gian băng qua sa mạc, và tiếng lẩm bẩm của bọn biệt phái và luật sĩ khi nhìn thấy thái độ của Đức Giêsu đối với nhưng người thu thuế và tội lỗi họ lẩm bẩm kêu trách Ngài: “Người này tiếp đón kẻ tội lỗi là ăn uống với họ” (Lc 15). Điều khiến những người thợ đầu tiên bất mãn đó là thấy những kẻ “chỉ làm việc một giờ” lại được đối xử ngang hàng với họ: “ông đối xử với họ cũng như chúng tôi”. Việc làm đã xong, những điều kiện trong đó họ làm việc chẳng đem lại cho họ đặc quyền đặc lợi nào, so với những người khác, “những người cuối cùng này” mà họ nói đến với sự khinh miệt y như đứa con trưởng trong dụ ngôn ở Luca 15: “Thằng con trai cha đó” (Lc 15,30) hoặc người biệt phái trong Luca 18: “tên thu thuế kia”.

2) … hay ngây ngất vì ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho mọi người.

Ông chủ vườn nho nói với người phát ngôn của những người thợ bất mãn: “Hay là bạn bất bình vì tôi nhân lành”. Giống như anh cả của đứa em hoang đàng, những người thợ làm giờ đầu tiên là biểu tượng cho tất cả những ai nhân danh quyền lợi tự cho là nhận được từ Thiên Chúa, nhân danh cái gọi là đặc quyền, ngạc nhiên và vấp phạm vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi: đó là những người biệt phái và luật sĩ của hôm qua… và cả hôm nay nữa. Làm như ơn cứu độ không phải là ân huệ ngoại thường và nhưng không, vượt xa sự xứng đáng của ta muôn trùng. Đức Giêsu tự đứng về phía ông chủ vườn nho cũng như về phía người cha đón tiếp đứa con trai đã mất mà nay lại tìm thấy. Thái độ của hai nhân vật này phản ánh lối sống của họ, lối sống bị người ta chê trách. Với những người phản đối thái độ của Ngài đối với người tội lỗi Ngài dám tuyên bố: Thiên Chúa không hành động khác hơn! Thiên Chúa giống như người Cha ăn mừng đứa con trở lại, như ông chủ vườn nho trả lương cho người thợ làm sau cùng cũng bằng người thợ làm đầu tiên. Chắc chắn khi thuật lại dụ ngôn này của Đức Giêsu, Matthêu muốn áp dụng nó vào Giáo Hội thời đó: “Những người đầu tiên” là những người Do Thái; “những người cuối cùng”, dân ngoại đã nhận được cái mà Israel coi như đặc quyền. Claude Tassin kết luận: Vậy, dụ ngôn nhắm tới những người có phản ứng giống như phản ứng của đứa con trai cả trong truyện người con phung phá. Thiên Chúa đã quyết định tỏ sự âu yếm đối với những người tội lỗi đó là lý do tại sao Đức Giêsu, sứ giả của Ngài, lại thích gần những người này đến thế, điều đó gây phẫn nộ cho một số người công chính vì họ tự coi mình có quyền được Thiên Chúa quan tâm hơn những phường chẳng ra gì kia, đâu quan tâm gì đến phục vụ Trời - làm như thể khi cứu vớt những người tội lỗi, Thiên Chúa đã lấy đi điều gì của những kẻ trung thành. Trái với bài học mà tác giả Phúc âm rút ra. Dụ ngôn không hạ “những người đầu tiền” xuống hàng “những người sau cùng”, nhưng dụ ngôn chỉ nhấn mạnh đến sự bình đẳng làm phát sinh ơn phúc lạ thường cho người tội lỗi.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Công bình kỳ cục (G. Boucher, La terre parle au ciel) Công bình! Ta gọi ngươi bằng tất cả khát vọng. Ta đấu tranh vì một thế giới công bình hơn. Ta phát động cách mạng để đập tan bất công. Thậm chí ta còn nói tới thật là ghê tởm- cuộc chiến tranh chính nghĩa. Các toà án của ta đó để thực thi công bình. Lời cầu nguyện của ta kêu lên tới Chúa để cho người nghèo, người bị bóc lột được lắng nghe. Niềm vinh dự của các xã hội, các quốc gia là tạo lập được một hiến pháp, nhưng luật lệ và những cơ chế giúp cho trật tự công bình tiến bộ. Do đâu dụ ngôn Phúc âm bắt ta làm ngược lại? Do đâu khi đọc dụ ngôn lần đầu ta khó chịu như những người thợ làm đầu tiên dã khó chịu, họ tự cho mình và nạn nhân của một sự bất công. Đối với con người, thực thi công bình không phải là trả cho mỗi người điều gì thuộc về họ, theo sức lao động và giả trị của họ sao? Nhưng trong khuôn khổ Nước Trời lại là chuyện khác: có một Đấng tên là Thiên Chúa, là sự viên mãn? ban cho mọi người những gì chính đáng. Thiên Chúa công chính hoá những ai mong muốn. Ngay từ giờ đầu tiên. Ngay từ phút khởi đầu. Nhưng cũng có khi ở nữa đời người, thâm chí cả ở phút chót của cuộc đời nữa. Thiên Chúa kêu mời mọi người hãy đến để được công chính hoá như người ta nhận một quà tặng, một ân ban. Có người trả lời ngay tức khắc từ lúc rạng đông. Có kẻ chỉ nghe được lời đề nghị ở giữa ngày. Đôi khi mãi đến cuối ngày có người mới nhận ra cơ may Chúa ban mà theo ngôn ngữ bác học, ta gọi là ân sủng. Thiên Chúa làm cho nên công chính như ta trở nên trong suất khi ta ở trong ánh sáng. Thiên Chúa biến ta nên công chính như chính Ngài là Đấng công chính, điều đó không có gì giống với những mô hình nhân loại. Bởi vậy ai nhận biết mình được Thiên Chúa công chính hoá sẽ chỉ có thể mừng vui khi thấy ân phúc đó đến với người láng giềng, người đối thủ, người đối địch... vì lối sống của Thiên Chúa đã thấm nhập đời anh. Thời giờ chẳng có gì quan trọng. Ta chỉ có thể cầu mong cho mọi người biết nắm lấy cơ may của mình, những người cùng sống trong chung cư những bạn đồng nghiệp, những người thân và cả những người không thân nữa. Sự công bình theo nghĩa của Thiên Chúa chỉ được thực hiện khi ta biết nắm bắt cơ may của mình, như người thợ giờ thứ 11 đã chọn đi làm việc. Và qua kinh nghiệm, ta biết rằng, để lãnh được lô độc đắc của Thiên Chúa, không có gì bằng một biến cố thúc bách ta, một chứng từ chất vấn ta, phần ta hãy biết đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho và sống sao cho mọi người chung quanh ta khao khát được ân sủng ấy, lương bổng ấy.

2. Một ví dụ khiêu khích bắt ta phải tự vấn (MGT. L. Daloz, Le Règne des cieux siest approché DDB).

Đức Giêsu lấy làm gương thái độ của người chủ đối với thợ của mình, thực là một ví dụ khiêu khích, chứng minh điều Thiên Chúa không là, không giống như ta tưởng. Ngài hành động không theo cách ta làm. Ngài tốt lành vượt xa các ông bố trần gian muôn trùng. Nhờ đó, Đức Giêsu cho ta chứng nghiệm được tình yêu của ta hẹp hòi biết bao: “Bạn bất bình vì tôi nhân lành ư?”. Dụ ngôn này dạy ta biết Thiên Chúa, nhưng cũng biết chính mình. Nếu ta thấy đồng tình với những người thợ lẩm bẩm kêu trách, không phải vì ta đã tưởng tượng Thiên Chúa theo thước đo của ta, và muốn đóng khung Ngài trong những quan niệm chật hẹp của tình yêu giới hạn của ta sao? Dụ ngôn của Đức Giêsu trước hết là nói với dân Do Thái, họ là những người được kêu gọi trước hết, rồi mới tới dân ngoại. Dụ ngôn soi sáng tình trạng các cộng đoàn đầu tiên, trong đó những người từ đa thần giáo tới sau cũng có cùng quyền lợi như các tín hữu gốc Do Thái. Ngày nay, vấn đề vẫn còn đó, tuy hoàn cảnh có khác Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn có cùng mục đích, cùng hiệu quả: Ngài mạc khải sự cao thượng của tình yêu Thiên Chúa “chiều cao, chiều rộng và chiều sâu của tình yêu ấy”. Tình yêu ấy thay đổi đường lối của ta, mở rộng lòng ta. Phản ứng của ta thường là giới hạn tình yêu ấy theo khuôn thước của ta. Nhưng “giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn”! Sau cùng, sứ điệp của dụ ngôn phải chăng không nằm trong những từ ngữ đơn sơ này, chúng nói với ta về Thiên Chúa: “Ta nhân lành”. Hơn cả lương bổng, điều quan trọng là tiếng gọi, luôn luôn đổi mới từng ngày, từng giờ, ở mọi thời trong lịch sử cũng như ở mọi lứa tuổi của đời người, tiếng gọi này không gạt ai ra ngoài lề đó là ân sủng cho những người đầu tiên cũng như cho những người cuối cùng, tiếng gọi của Thiên Chúa nói với con người mà Ngài yêu thương không mỏi mệt và Ngài muốn rằng không ai bị bỏ quên: “Nào, cả anh nữa, hãy đến làm vườn nho cho tôi”.

 

70. Chú giải của Noel Quesson

NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO

Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!

Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.

Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.

Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.

Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.

Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”

Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.

Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).

Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.

Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.

Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”

Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái

Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.

Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”

Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:

Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.

Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.

Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.

Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).

“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”

Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.

Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.

Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:

“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng... bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.

Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).

 

71. Đếm từng ngày – Lm Xuân Nguyên.

Có lần Cha Nguyễn Tầm Thường gặp tôi. Chúng tôi tâm sự về cuộc đời: Tất cả xem ra qua đi mau quá! Mới vào tiểu chủng viện ngày nào ở Châu Đốc, ngài nói, mà giờ đây đời tụi mình đã bắt đầu đếm từng ngày. Chúng tôi cười thoải mái. Tôi trả lời: Mình đã bắt đầu đếm từng ngày khi ở tù Cộng Sản rồi, vì trong tù hôm nay còn sống sót thì biết có hôm nay, ngày mai rao sao chỉ là bóng tối thấp thoáng của tử thần. Mình đã đếm và vẫn tiếp tục đếm từng ngày..., và sẽ đếm cho tới ngày sau cùng cuộc đời xem có xứng đáng lãnh được một đồng công như Chúa Giêsu phán trong dụ ngôn đón thợ vào làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay không!

Có lẽ ít người muốn đếm từng ngày đời mình, vì vừa mất giờ, nhưng có thể vừa bi quan vì thấy đời lúc nào cũng trôi nhanh như giấc mơ qua mau, để rồi in trên đời niềm sầu tủi yếm thế phí lý. Tôi thiết nghĩ nếu có đủ can đảm đếm từng ngày đời mình, qủa thực là một cái thú hết sức kỳ diệu, bởi từng ngày từng ngày qua trong đời luôn ẩn hiện những kỳ diệu của bàn tay an bài Thượng Đế. Càng đếm càng thấy con đường đi đời mình chẳng giống ai, chỉ riêng cho mình trong tương quan quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, ngay cả những khổ đau nhất mà đời cho là xui, lại trở thành ân huệ quí giá Thiên Chúa ban tặng. Chẳng hạn bạn thử ngồi đếm lại từng ngày đời mình lúc vượt biên và ở trại tỵ nạn. Ai cũng cho là khổ, nhưng giờ đây có muốn sống lại dù chỉ một ngày như thế cũng chẳng còn, vì cái khổ lúc đó đã dệt nên những niềm vui khôn tả cho đời mình hôm nay ở đất nước thứ ba này. Biết bao người đã thành công giàu có, hoặc đã ung dung nhìn đàn con đang hạnh phúc trong những ước mơ đã thành sự thật...

Như thế đếm đời mình từng ngày trước hết là để ca tụng tình thương vô biên của Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng trả công bội hậu cho chúng ta như cái giá Ngài đã mặc cả để cứu chuộc nhân loại. Nếu tôi được Chúa trả một đồng công cứu độ thì đã hạnh phúc lắm rồi, vì tôi chắc chắn sẽ được Chúa rước vào Nhà hạnh phúc bất diệt của Ngài. Điều quan trọng là tôi có dám nhận làm trong vườn nho của Chúa không, cho dù tôi đã thất nghiệp lang thang cả nửa đời, hoặc ba phần tư, hoặc ngay cả lúc chỉ còn vài phút cuối ngày cuộc đời. Chúng ta hãy bắt đầu đếm đời mình đi, chắc chắn sẽ nhận ra tình thương kỳ diệu và vô biên của Chúa. Nhờ tình thương ấy, mình sẽ không còn ganh tỵ với tha nhân, dù họ bắt đầu làm vườn nho Chúa từ lúc nào không biết, nhưng tất cả sẽ ca ngợi đồng công tình thương và ơn cứu độ của Chúa vào hạnh phúc cuối ngày. Nào: Một, hai, ba: Đếm!

LÀ CÔNG BẰNG HAY LÒNG NHÂN LÀNH!

Chúng ta chẳng hề biết thật rõ về cách ông chủ cư xử với những người làm công trong vườn nho của ông, nếu chỉ nhìn dưới khía cạnh công bằng được tính theo thời gian làm việc từ ba, sáu, chín, mười một giờ, nghĩa là bắt từ sáng sớm, từ sáu giờ, vv... mà tiền lương vẫn được lãnh như nhau! Thế nên họ mới thắc mắc, và chắc chắn đã không được thỏa mãn với câu trả lời của ông chủ. Với họ, xem ra ông chủ luôn luôn thiên tư, cho dù ông có giàu có, nhân từ và quảng đại.

Đến lượt chúng ta khi đọc và nghiệm lại cuộc sống của mình, cũng sẽ thắc mắc thật nhiều về cách thức Thiên Chúa đối xử xem ra không công bằng với con người, bởi vì có quá nhiều người giàu có, nhiều tài năng, nhiều may mắn; có quá nhiều quốc gia thịnh vượng xung túc, tràn đầy quyền lực, trong khi biết bao người và rất nhiều nước đang sống trong lầm than cơ cực nghèo khó, bị thống trị, vv… Bức tranh cuộc đời mình còn thê thảm hơn khi chính mình trực tiếp hỏi Chúa tại sao mình đã nhiệt tình làm việc và dùng hết thì giờ vào các cố gắng xây dựng đời sống gia đình, xã hội, vv… mà vẫn không khá hơn; ngược lại luôn gặp những rủi ro, đàn áp, bỏ vạ cáo gian, vẫn thua kém hơn những người xem ra lười biếng, nhiều chuyện và ngay cả gian ác! Sự công bằng như không hề có ở đời này. Lạy Chúa, tại sao vậy?

Đây là những trả lời chính xác của Chúa Giêsu: Vườn nho là của Chúa. Thời gian là của Chúa. Sự sống con người có là quà tặng, cho dù tính theo thời gian dài hay ngắn, nó vẫn luôn là qùa tặng quí giá nhất. Sự hiện hữu và cách thức hiện hữu dài hay ngắn theo ý Chúa đều trọn vẹn trước mặt Chúa, nên mới có canh ba, canh sáu hoặc chín... Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhìn sự hiện hữu này như những chiếc ly chứa đầy nước ở trên trời. Ly nào cũng tràn đầy cả, không thể đổ thêm dù chỉ một giọt.

Người ta quan niệm công bằng dựa trên tiền công theo giờ lao động. Nói cách khác, càng được nhiều của cải vật chất, tài năng, danh vọng ở đời này thì càng công bằng hơn. Còn Chúa Giêsu bảo sự công bằng ấy đã được định đoạt bằng giao kèo trước khi vào vườn nho làm việc. Ai cũng được trả bằng nhau. Nên cuối ngày cuộc đời, chẳng ai có quyền đòi được trả, nghĩa là chẳng ai tự mình được định đoạt cuộc sống bằng các giá trị vật chất, nhưng là sự mặc cả giá trị thiện chí làm việc đúng với thời gian mình có như ý ông Chủ muốn. Dĩ nhiên dụ ngôn không nói rõ từng người làm công được phân định làm việc gì và làm việc thế nào, nhưng chắc chắn mỗi người tuỳ theo tài năng và sức lực của mình mà ông chủ thuê vào từng thời điểm khác nhau trong ngày, để chu toàn những việc ngổn ngang trong vườn nho của ông. Sự công bằng này xác định rõ hơn điều mà Chúa Giêsu trả lời cho người làm công thắc mắc: Hãy cầm lấy tiền của bạn mà đi, tôi không làm bạn thiệt hại đâu. Hay mắt bạn ganh tị vì tôi nhân lành chăng?

Đến đây chúng ta khám phá ra ánh sáng cho sự công bằng, tức sự nhân lành của ông Chủ, Thiên Chúa vườn nho vũ trụ và vườn nho cuộc đời chính là thước đo công bằng tuyệt đối. Chính nhờ sự nhân lành của Thiên Chúa mà vũ trụ và muôn loài hiện hữu, trong đó có đời sống từng người chúng ta. Cách thức hiện hữu của vũ trụ và con người nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Riêng với con người thì Ngài ban cho tự do để điều khiển và đáp lại tiếng gọi hiện hữu trong vườn nho của Ngài. Cuối ngày cuộc đời, một đồng công được trả cho chúng ta bằng sự nhân lành của Chúa, bởi vì chúng ta tự sức riêng không thể vượt qua giới hạn của sự chết để vào miền đất sống vĩnh cửu vườn nho Thiên Chúa. Vì thế tốt nhất hãy biến sự ganh tỵ hôm nay thành lòng nhiệt thành làm việc theo thánh ý Chúa. Người ta sẽ mãi mãi không thể giải đáp được bí mật sau khi chết và cách thức trả một đồng công của Thiên Chúa, bao lâu vẫn còn trên hành trình đức tin trong vườn nho của Thiên Chúa hôm nay.

Chúng ta hãy học bài ca tạ ơn của muôn tạo vật khi bình mình thức giấc, ca ngợi hồng ân diệu kỳ mà Thiên Chúa tặng ban cho mình, để mỗi ngày sống sẽ nối tiếp trong niềm vui nhờ lòng nhân lành bao la và vô cùng quảng đại của Thiên Chúa. Và mỗi người sẽ cảm nghiệm sự công bằng của Thiên Chúa chính là lòng nhân lành của Ngài bao phủ qua mọi biến cố cuộc đời: lúc nhàn rỗi canh ba; lúc thất vọng, lúc thất nghiệp, lúc cô đơn canh sáu; lúc đau khổ, lúc đối diện với bóng tối, lúc chơi vơi giữa giòng đời canh chín; hay lúc hầu như rã rời muốn rời xa sự hiện hữu vào giờ mười một;... và nhất là lúc vui mừng lãnh đồng công sau cùng cuộc đời do Thiên Chúa trao tặng trong vườn nho vĩnh cửu của Ngài. Xin tạ ơn và tạ ơn muôn đời lòng nhân lành của Thiên Chúa, Đấng có tên là Tình Yêu muôn thuở.

 

72. Phải chăng Thiên Chúa quá bất công?

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

Tin Mừng Mt 20, 1-16: Bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm...

***

Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều... Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.

Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái.

Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào...! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?

Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?

Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?

Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.

Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.

Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ... Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?"; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.

Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ... Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.

Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa

Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:

Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác vì nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.

Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.

Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.

Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng!

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.

 

73. Lòng quảng đại của Thiên Chúa

Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.

Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.

Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.

Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.

 

74. Cảm thông với tha nhân – Lm Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Dụ ngôn thợ làm vườn nho

Bài Tin Mừng hôm nay ví Nước Trời Đức Giêsu sắp thiết lập giống như câu chuyện một ông chủ vườn nho đi kêu người làm vao làm việc trong vườn nho của mình. Có 4 tốp người được kêu vào làm vào 4 thời điểm khác nhau trong ngày: giờ thứ nhất, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, và cả giờ thứ mười một. Khi trả lương, chủ vườn lại trả lương từ người làm giờ thứ mười một tới người làm từ giờ thứ nhất. Mỗi người đều được trả lương bằng nhau là một quan tiền. Khi có người thắc mắc ông chủ đã cho biết ông không bất công khi trả lương sòng phẳng theo thỏa thuận ban đầu là một đồng. Còn việc ông trả cho người sau bằng người đầu là do lòng nhân hậu của ông. Cũng vậy, sau này Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ chung cho mọi người gia nhập vào Hội Thánh. Dù là dân ngoại vào trễ hay dân Do Thái vào từ ban đầu, đều được hưởng ơn cứu độ như nhau, miễn là phải có đức tin thể hiện qua đức cậy và đức mến.

CHÚ THÍCH:

- C 1-2: + Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc: Bên Do Thái vào mùa hái nho, ngay từ sáng sớm, các chủ vườn thường ra ngã ba đường hay ra chợ người để thuê người hái nho cho mình. Chủ vườn nho tượng trưng Thiên Chúa. Ngài mời gọi mọi dân tộc đều vào làm vườn nho, nghĩa là được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh. + thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền: Vào thời Đức Giêsu, chủ vườn nho thường trả lương công nhật cho thợ làm vườn là một quan tiền. Ở đây ông chủ đã hứa trả lương công nhật là một quan tiền ngay từ khi thuê họ vào làm việc.

- C 3-7: + Giờ thứ ba: Bấy giờ người Do thái tính thời gian một ngày từ lúc mặt trời lặn dựa vào lời tường thuật trong Sách Sáng Thế Ký: “Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: Đó là ngày thứ nhất…” (St 1,5). Vì thế luật qui định ngày Sa-bát bắt đầu từ 18g00 chiều thứ sáu. Còn về việc tính giờ, người Do Thái lại tính từ lúc mặt trời mọc vào buổi sáng. Thời gian từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn được chia làm 12 giờ. Vậy giờ thứ nhất, thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một tương đương với 6 giờ, 9 giờ, 15 giờ và 17 giờ như ngày nay. Giờ lao động của người Do thái mỗi ngày bắt đầu từ 6 giờ sáng và kết thúc vào lúc 18 giờ chiều. + Ông chủ vườn mời người đi làm vườn nho: Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được ơn cưu độ, và người ta có thể gia nhập Nước Trời là Hội Thánh vào nhiều thời điểm khác nhau. + Tôi sẽ trả công cho các anh hợp lẽ công bằng: Trả lương công bằng, nghĩa là người làm thuê sẽ không bị thiệt thòi về tiền công. + Khoảng giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại ra và cũng làm y như vậy: Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ làm vườn nho cho ông vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày mà không cần tính toán thiệt hơn cho mình. Điều này cho thấy lòng bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống. + Khoảng giờ mười một: Giờ thứ mười một tương đương với 17 giờ chiều, là giờ cuối cùng trong một ngày làm việc. Thợ chỉ phải làm một tiếng nữa là hết giờ lao động. + Vì không ai mướn chúng tôi: Những người đứng không suốt ngày do không được ai thuê mướn. + Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!: Ông chủ kêu thợ vào làm vườn nho vào giờ cuối cùng là do lòng thương muốn giúp đỡ người thất nghiệp, chứ không do nhu cầu của công việc đòi hỏi. Điều này cho thấy ơn cứu độ là một ơn ban không, hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa, chứ không do công khó của con người.

- C 8-10: + Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót cho tới những người vào làm trước nhất: Việc trả lương này khác thường. Vì thứ tự trước sau bị đảo lộn và tiền lương đều là một quan tiền cho các người thợ làm việc nhiều ít khác nhau. Khi sắp xếp việc trả lương như vậy, ông chủ muốn tạo cho người làm việc từ sáng sớm tưởng rằng mình sẽ được trả nhiều hơn. Vì thế họ đã thắc mắc khi được lãnh bằng với người mới vào làm việc từ giờ thứ mười một. Qua việc phát lương này, ta thấy người bị thiệt là ông chủ chứ không phải người thợ làm từ giờ thứ nhất. Điều này cho thấy tình thương của Thiên Chúa đối với hết mọi người. Bất cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại, dù theo đạo từ khi mới sinh hay vào lúc sắp chết, nếu thành tâm tin yêu Thiên Chúa thì đều được Người cho hưởng hồng ân cứu độ.

- C 11-13: + Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Họ trách móc ông chủ hai điều: Một là họ phải làm việc vất vả suốt từ sáng sớm đến chiều tối, đang khi những người vào làm giờ thứ mười một chỉ làm một giờ. Hai là họ phải chịu sự nắng nôi khó nhọc, đang khi những người làm sau ban chiều khi mặt trời sắp lặn không bị nắng gắt nóng bức. Họ muốn được chủ trả lương cao hơn những người đến làm việc sau. + Này bạn: Đây là kiểu xưng hô của ông chủ với những người thợ chưa rõ tên. Kiểu xưng hô này vừa khoan dung vừa trách móc nhẹ nhàng để mong họ nghĩ lại. Giống như Đức Giêsu đã nói với Giu-đa khi anh ta dẫn dân quân Đền thờ đến bắt Người trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,50). + Tôi đâu có xứ bất công với bạn?: Việc trả lương một quan tiền cho những người thợ đến sau không gây thiệt hại gì cho những người làm trước. Những người làm từ giờ thứ nhất đã nhận đủ một quan tiền, đúng như đã thỏa thuận từ lúc vào làm việc.

- C 14-16b: + Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt: Việc trả lương cho người đến làm sau cũng được trả một quan tiền là do lòng tốt của ông chủ, chứ không phải do công khó của họ. Qua đó Đức Giêsu muốn dạy: Dân Do thái đừng ganh tị khi Thiên Chúa cũng ban cho lương dân thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ giống như họ. Người tín hữu đạo đức cũng đừng ganh tị với các tội nhân hay người lương khi thấy Chúa đối xử nhân từ cho họ được gia nhập đạo vào lúc cuối đời. + Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức: Ông chủ vạch rõ tâm địa ganh ghét xấu xa của nhóm thợ làm từ lúc sáng sớm. Họ không muốn người làm sau được trả lương bằng hay hơn họ. Đức Giêsu muốn các tín hữu chúng ta hãy noi gương lòng nhân từ của Thiên Chúa và đừng suy nghĩ hẹp hòi khi phê phán công việc của Ngài như người ta hay nói: “Lấy dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử!”. + Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót: Theo Thánh Gio-an Kim Ngôn thì câu này không bắt nguồn trực tiếp từ dụ ngôn, cũng như không phải là câu tóm kết về bài học của dụ ngôn. Nó được thêm vào, vì có một sự tương tự nào đó xét theo câu chuyện. Câu này nói đến sự đảo lộn về việc phát lương trước sau, đang khi trọng tâm của dụ ngôn nhấn mạnh đến việc trả lương đồng đều giữa những người thợ làm trong thời gian dài ngắn khác nhau. Có lẽ tác giả khi viết thêm câu này để đóng khung dụ ngôn mà thôi.

CÂU HỎI:

1) Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn ám chỉ ai? Việc ông chủ vườn nho đi mời người vào làm vườn nho cho ông ở nhiều thời điểm khác nhau trong ngày có ý nghĩa gì? 2) Người Do thái thời xưa tính ngày mới bắt đầu lúc nào? Mỗi ngày có bao nhiêu giờ lao động và thời giờ ấy tương đương thế nào với giờ hiện nay? Giờ thứ mười một là mấy giờ hiện nay? 3) Ông chủ hứa trả lương công nhật bao nhiêu và trả theo phép công bằng nghĩa là gì? 4) Việc ông chủ đi kêu thợ làm vườn nho vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày, nhất là vào giờ thứ mười một cho thấy ông là người thế nào? 5) Việc trả lương thợ của ông chủ vườn nho khác thường ở điềm nào? Điều này nhằm nói lên điều gì về tình thương cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta? 6) Những người làm từ giờ thứ nhất trách móc ông chủ những gì? 7) Qua câu trả lời, ông chủ cho thấy việc ông trả lương bằng nhau cho những người làm trong thời gian nhiều ít khác nhau có bất công như họ đã kêu trách không? 8) Ông chủ phê phán thái độ của bọn thợ vào làm vườn nho từ giờ đầu tiên ra sao?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,13-15).

2. CÂU CHUYỆN: Ông vua nhân từ và quảng đại

Tại nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là An-phong-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường dân rồi vi hành đi đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời chấn chỉnh sửa sai. Ngày nọ, đức vua cải trang đến một tỉnh kia và thuê một phòng trọ trong một nhà nghỉ bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất dễ mến, nên đã chủ động bắt chuyện: “Này ông, tôi có cảm tưởng ông không phải là loại khách du lịch xoàng”. Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi lại: “Sao anh lại nói như vậy?” Người bồi phòng trả lời rằng: “Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với những người bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trit (Madrid) cũng nên”. Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ: “Một cách nào đó anh nói cũng đúng đó!” Anh bồi phòng lại hỏi thêm: “Vậy hẳn ông phải là một quan chức luôn hầu cận bên đức vua?” Nhà vua trả lời: “Anh đoán thật chẳng sai chút nào”. Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp: “Phục vụ đức vua thì thông thường phải làm những việc gì hả ông?” Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp: “Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải cạo râu cho ngài”.

Người bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp được chính đức vua và được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về ngài. Các câu đối đáp giữa đức vua và người bồi phòng là minh họa sống động về long nhân từ và bao dung của ông chủ vườn nho, tượng trưng cho Thiên Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi. Họ đều được Thiên Chúa mời gia nhập Hội Thánh vào các giờ khác nhau, đặc biệt vào giờ thứ mười một là lúc cuối đời. Đây cũng là trường hợp của người trộm lành cùng chịu đóng đinh trên cây thập giá bên cạnh Đức Giêsu. Nhờ lòng tin và thành tâm sám hối mà anh trộm lành đã được Người tha tội và ban hạnh phúc đời đời: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (x. Lc 23,42-43).

3. SUY NIỆM:

1) So sánh người con cả với bọn thợ làm vườn nho đầu tiên:

Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con cả đã bất mãn với cha khi thấy cha tỏ lòng bao dung tha thứ tội lỗi của đứa em hư hỏng đã đi hoang trở về. Không những cha không trừng phạt tội bất hiếu của nó, mà còn truyền cho gia nhân giết bê béo ăn mừng khi thấy nó vẫn mạnh khỏe. Người con cả đã bày tỏ thái độ ganh ghét khi không thèm vào nhà và lên tiếng phiền trách cha: “Cha ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê nhỏ để con vui vẻ với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lại giết dê béo ăn mừng nó!” (Lc 15,28-30). Trong Tin mừng hôm nay, những người đi làm từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vườn nho khi thấy ông trả lương cho người chỉ làm một tiếng đồng hồ cuối ngày cũng được trả một quan tiền, bằng với họ là những người phải chịu nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày.

Khi Đức Giêsu ra giảng đạo, các kinh sư và người Pha-ri-sêu đều khó chịu khi thấy Người đối xử thân tình với bọn thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi nói chung. Người là mục tử tốt lành đi tìm từng con chiên lạc. Người mang lại cho những người bất hạnh niềm vui và hạnh phúc. Người luôn mời gọi những người tội lỗi mau sám hối và hứa ban Nước Trời cho họ. Như vậy, người tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc ngang bằng với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Những người này vốn tuân giữ từng điều khoản nhỏ mọn của luật Mô-sê và tự coi mình là người công chính. Trước thái độ nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân của Đức Giêsu, các đầu mục này đã tỏ ra ganh ghét vì cho rằng mình đã không được Đức Giêsu tôn trọng hơn bọn người nghèo khổ tội lỗi kia.

2) Thế nào là thái độ ganh ghét đố kỵ?

Ngay từ thuở bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, sự dữ đã lọt vào thế gian. Ca-in đã có thái độ ganh tị khi thấy Thiên Chúa chấp nhận lễ vật của A-ben và bỏ qua lễ vật của anh ta. Anh ta đã coi A-ben là kẻ thù và ra tay giết em, nên cuối cùng anh ta đã bị trừng phạt. Như vậy người có tính ganh tị là kẻ vừa huỷ diệt người khác, lại vừa hủy hoại chính mình. Những người thợ làm việc từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vì đã trả lương cho người vào làm sau cũng được một quan tiền bằng với họ. Đang khi họ phải chịu nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả như ông trả cho người làm sau số tiền lương ít hơn thì chắc họ đã không cảm thấy khó chịu như thế.

Kẻ ganh ghét đã không “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), vì họ thiếu tình yêu thương. Họ không coi các người kia là bạn, nhưng là đối thủ cạnh tranh với mình. Họ coi sự thành công của người khác là mối đe dọa cho họ. Ở đây, Đức Giêsu mời gọi các tín hữu chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Thiên Chúa: Người là Đấng công bình, nhưng không cứng nhắc trong khuôn khổ Lề luật. Người hoàn toàn tự do thể hiện tình thương bao dung. Người giàu lòng từ bi nhân ái và luôn muốn ban ơn cứu độ cho loài người chúng ta. Thiên Chúa chứng tỏ Người là Chúa tể của kẻ trộm lành biết hồi tâm sám hối, là ông chủ của người thợ đi làm vườn nho vào giờ thứ mười một, nhưng Ngài cũng là cha đầy lòng từ bi nhân hậu với hết mọi người chúng ta.

3. Chúa muốn ta phải làm gì?

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi mọi người chúng ta đừng quá tự hào về bản thân. Người kêu gọi chúng ta đổi mới cách nhìn về người khác, để ngày càng thêm lòng kính trọng tha nhân, phá bỏ hàng rào ngăn cách như sự ganh ghét ích kỷ và sự trả thù ti tiện. Biết đến bao giờ người con cả mới chịu bước vào nhà cha để chia sẻ niềm vui với cha khi tìm thấy đứa con thất lạc trở về? Biết đến khi nào những người thợ đi làm từ sáng sớm mới sẵn lòng chia sẻ niềm vui với những người vào làm giờ thứ mười một lúc cuối ngày? Biết đến khi nào chúng ta mới cảm thấy niềm vui thật sự với những người hàng xóm gần bên, vì chúng ta đã nhận ra họ không phải là đối thủ, nhưng là anh em của chúng ta?

4. THẢO LUẬN:

1) Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường hay ganh ghét kẻ khác vì những nguyên nhân nào? Ta phải làm gì để bỏ đi thói xấu ganh tị này? 2) Thánh Phao-lô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” có dễ thực hành không? 3) Bạn thường cảm thấy thế nào khi thấy người khác trổi vượt hơn mình như: họ thi đậu còn ta bị rớt; Họ có tài hát hay được nhiều người tán thưởng và làm việc hiệu quả hơn ta? Họ được nhiều người khác tín nhiệm hơn ta?

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Thiên Chúa Cha từ bi nhân hậu. Tuy chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), nhưng chúng con cũng xin hứa quyết: sẽ hết lòng phục vụ Hội Thánh, để làm cho Hội thánh trổ sinh nhiều hoa trái công bình và yêu thương. Xin cho chúng con biết cộng tác với Cha mời gọi nhiều người vào làm vườn nho Nước Trời. Xin cho chúng con biết chung vui với Cha khi có thêm tội nhân và anh chị em lương dân trở về làm con cái Cha trong gia đình Hội Thánh, để họ cũng được chia sẻ ơn cứu độ với chúng con. Vì chúng con biết rằng: “Cha muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”.

- Lạy Cha. Xin hãy ban cho chúng con trái tim bao dung dịu dàng của Chúa Giêsu và trái tim đầy tình mẫu tử của Mẹ Ma-ri-a. Xin cho trái tim con không ích kỷ luôn khép lại để chỉ yêu mình và những người thân của mình, nhưng biết mở ra để đón nhận người khác. Xin uốn nắn trái tim sơ cứng của con nên giống trái tim nhân hậu bao dung của Chúa. Xin cho trái tim con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi trả thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn bình an, không giận hờn tranh chấp hoặc để bụng ganh ghét với những ai hơn mình. Xin giúp tình cảm của con luôn quân bình: không quá vui khi thành công, mà cũng chẳng chán nản khi thất bại. Xin cho con biết khiêm tốn bình tĩnh nghe những lời phê bình của kẻ khác. Xin cho trái tim con đủ lớn để yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ không ưa con và những người con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để đón nhận cả thế giới, để không có ai là kẻ thù, nhưng sẵn sàng yêu thương tha thứ để biến kẻ thù thành bạn của con.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

75. Bằng lòng với của Chúa ban

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Chiều kích của thế giới mà người ta đang sống, tuỳ thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Người ta có thể mở rộng hay thu hẹp thế giới lại trong đầu óc mình. Khi người ta thu hẹp cái nhìn đời, là người ta chọn sống trong thế giới nhỏ bé. Và khi người ta càng chọn cái nhìn hẹp hòi, người ta càng mất hạnh phúc. Đó là cách thế cắt nghĩa cho việc bất mãn của những người làm vườn nho cả ngày từ sáng sớm tinh sương trong Phúc âm hôm nay.

Thợ làm vườn nho từ sáng sớm đã thỏa thuận với chủ về đồng tiền lương (Mt 20:2), nhưng rồi họ lại cằn nhằn vì chủ trả cho những người đến sau cũng bằng họ. Xét về một vài khía cạnh, thì dụ ngôn hôm nay cũng giống dụ ngôn người cha nhân lành đối xử khoan hậu với người con phung phá. Khi người con phung phá trở về thì người cha cho mở đại tiệc ăn mừng khiến người con trưởng nổi ghen. Đó cũng là phản ứng tiêu biểu của loài người.

Giới học giả Thánh kinh coi những người được gọi trước để làm vườn nho tượng trưng cho dân được chọn trong Cựu ước. Họ là những người được gọi trước để sửa soạn cho việc Đấng Cứu thế đến. Khi Đấng Cứu thế đến, họ lại từ khước Người. Còn những người dân ngoại được gọi sau này đã chấp nhận lời mời gọi của Chúa và họ được trở nên hàng đầu (Mt 20:16a). Dụ ngôn còn ám chỉ rằng bất cứ ai đáp lại tiếng gọi của Chúa và sống theo đường lối của Người thì cũng được đối xử khoan dung và nhân hậu. Đó là trường hợp những người thu thuế và gái điếm được vào nước Trời trước các thượng tế và kì mục như Chúa bảo (Mt 21:31). Người thu thuế và gái điếm mà Chúa nói đến cũng là người Do thái nhưng họ biết hối cải và thi hành ý Chúa.

Bài học có thể được rút tỉa trong Thánh kinh hôm nay là lời mời gọi sống đức tin vào Chúa đến với mỗi dân tộc hay mỗi cá nhân khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Có người được gọi đến đời sống đức tin từ nhỏ qua Bí tích Rửa tội. Có người lớn lên mới được gọi vào đời sống đức tin. Chính lúc mà người ta đặt tin tưởng vào Chúa và gia nhập đạo Chúa qua Bí tích Rửa tội thì họ trở nên thành phần ngang hàng với nhau trước mặt Chúa. Gia nhập nước Chúa sớm hay trễ, trước hay sau không có khác biệt. Và tất cả những người được gọi làm vườn nho của Chúa để gia nhập nuớc Trời đều phải ghi ơn lòng quảng đại của Chúa.

Dụ ngôn nhấn mạnh đến điểm là trong việc cứu độ, Thiên Chúa sẽ quyết định những gì là công bình, những gì là bác ái trong việc thưởng công cho con cái loài người. Đường lối của Chúa là đường nẻo công chính, nhưng sự công chính của Chúa luôn nằm trong bối cảnh nhân từ và lòng xót thương của Người. Chính vì thế mà ngôn sứ Isaia trong bài Thánh kinh Cựu ước hôm nay đã ca tụng lòng nhân hậu của Chúa: Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi (Is 55:8).

Trong việc trả lương cho những người đến làm sau hết cùng một số tiền như những người đến trước, người chủ đã không làm thiệt hại, cũng không lỗi đức công bình với những người đến làm từ sáng sớm vì họ đã thỏa thuận với chủ về số tiền lương mỗi ngày một quan tiền. Đó là mức lương của một người thợ thời bấy giờ. Việc trả lương cho những người đến sau cùng một số tiền bằng thợ đến từ sáng sớm là do lòng đại lượng của chủ. Nói cách khác, đối với những người đến trước, thì chủ thi hành luật công bình, nghĩa là không lỗi giao kèo. Còn đối với những người đến sau, chủ thi hành luật bác ái.

Theo mạch văn trong Phúc âm hôm nay thì những người đứng không ở ngoài chợ, không phải là những người nhàn cư, ăn không ngồi rồi, nhưng vì không ai mướn họ (Mt 20:7). Ra chợ tìm việc làm và đợi tới giờ mười một1 - tức là năm giờ chiều, đến sáu giờ thì nghỉ việc - có nghĩa là họ cần việc làm. Tại đất Paléttin thời bấy giờ, chợ là nơi người thất nghiệp đến tìm việc và nhận việc, giống như tiệm 7-Eleven hay tiệm giải khát nào đó tại Hoa kỳ là nơi mà người thất nghiệp tụ họp đợi người khác đến thuê làm công vào thời gian hai mươi năm cuối thế kỉ hai mươi và cũng chừng hai mươi năm đầu thế kỉ hai mươi mốt. Theo nhà chú giải Thánh kinh William Barclay, cao độ của mùa hái nho tại Patéttin nhằm vào tháng Chín. Theo sau là mùa mưa. Vì thế chủ cần hái nho trước khi mùa mưa tới để nho khỏi bị ủng, nên ông cần càng nhiều thợ làm càng lợi ích. Như vậy xét theo kế hoạch kinh tế nông nghiệp, ông chủ là người quản lý tài sản giỏi. Còn xét theo Học thuyết Xã hội Công giáo, người ta phải khen ông chủ vườn nho có đầu óc xã hội, chứ không thể tố cáo ông mang óc thiên vị: nhất bên trọng, nhất bên khinh. Ông trả lương theo nhu cầu vật chất của thợ, chứ không dựa trên thời giờ làm việc của họ.

Khi nghĩ rằng ta tốt lành và siêng năng hơn người khác, mà người khác lại hơn ta về của cải vật chất và địa vị xã hội, ta sinh ra ganh tị, và còn hận Chúa. Do đó ta muốn đặt giới hạn cho lòng đại lượng và khoan dung của Chúa. Đó chính là điều thắc mắc của ông chủ vườn nho: Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?(Mt 20:15). Đáng lẽ những người làm vườn nho từ sáng sớm phải vui mừng với thợ đến sau vì họ cần tiền để độ thân hoặc nuôi gia đình. Khi đặt nặng về giá trị vật chất, mà thấy người khác hơn mình về của cải, việc làm, nhà ở thì người ta nổi máu ghen. Mà ghen tương lại làm cho người ta mất hạnh phúc. Mất hạnh phúc làm người ta khổ. Vậy thì ghen làm chi cho khổ? Còn nếu coi nhẹ giá trị vật chất thì khi thấy người khác hơn mình về những khía cạnh trên, người ta cũng không màng. Hôm nay mỗi người cần nhắc nhở cho mình rằng mọi sự ta có đều là của Chúa ban. Vì thế ta cần học để sống trong tâm tình biết ơn.

Lời cầu nguyện xin cho được bằng lòng với của Chúa ban:

Lạy Chúa, Chúa là Đấng công minh và đại lượng

Chúng con cảm tạ Chúa về lượng công minh

và lòng đại lượng đối với loài người tuỳ theo nhu cầu cá nhân.

Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn

để con bằng lòng đón nhận những của lớn nhỏ Chúa ban.

Cũng xin cho con một tâm hồn quảng đại

để con hiểu được những đặc ân mà Chúa ban cho người khác

thay vì ganh tị với họ và kêu trách Chúa.

Và xin cho những người đến sau

cũng được mời vào làm việc trong vườn nho của Chúa. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ