Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 60
Tổng truy cập: 1370573
ĐỨC GIÊSU BIỂU LỘ QUYỀN NĂNG THẦN LINH
ĐỨC GIÊSU BIỂU LỘ QUYỀN NĂNG THẦN LINH- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Chúa nhật XI vừa qua, bài Tin mừng đã đề cập đến Nước Thiên Chúa, bài tin mừng tuần này là minh họa cụ thể của quyền năng Nước Thiên Chúa, được biểu lộ nơi chính những lời nói và việc làm của Đức Giêsu, là hai mặt của việc thực thi quyền năng Nước Thiên Chúa chiến thắng mọi sức mạnh sự dữ và sự chết vốn đang đe dọa con người. Thánh sử Marcô tường thuật một tình huống cụ thể, sau khi rao giảng cho dân chúng Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ xuống thuyền để qua bờ bên kia biển hồ vào buổi chiều lúc đêm tối đang đến. Trong tâm trí của những người xưa, đêm tối là thời gian của những sức mạnh sự dữ tung hoành và hơn nữa biển cả cũng là nơi chốn của những sức mạnh ma quỉ và mặt khác phía bên kia biển hồ cũng là quê hương các dân ngoại thù nghịch với những người do thái. Tình huống cụ thể của hoàn cảnh các môn đệ trên thuyền lúc bấy giờ thực thương tâm, giớ thổi lớn và sóng đánh mạnh vào mạn thuyền, ngay cả ùa vào thuyền đến nổi thuyền sắp chìm, các môn đệ đều sợ hãi trong khi đó Chúa Giêsu vẫn bình yên ngủ như không hay biết chuyện gì. Các ông đến đánh thức người với những lời trách móc : chúng con chết mất mà thầy không quan tâm sao. Chỗi dậy, Người đã truyền khiến cho sóng biển và sóng biển im lặng như tờ. Đây chính là điểm nhấn của bài tường thuật : Chúa Giêsu đã truyền khiến sóng biển hãy im đi và biển cả sóng gầm đã im lặng như tờ khiến các môn đệ đã phải tự hỏi : người là ai mà cả gió biển cũng vâng lệnh người. Và các nhà chú giải cũng nhận định rằng bài tường thuật của Tin mừng Marcô với những tình tiết mô tả tình huống căng thẳng dữ dội làm nổi bật câu hỏi này giữa các môn đệ : người là ai ? bởi đâu người có sức mạnh và quyền năng truyền khiến được biển cả ? Suy nghĩ sâu xa hơn, người ta có thể hình dung câu chuyện này là minh họa cuộc đời và sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Người chiến thắng mọi sức mạnh sự dữ. Nhất là hình ảnh Chúa Giêsu nằm ngủ trên thuyền trong khi chung quanh người biển cả đang thét gào là hình ảnh rất ý nghĩa để nói đến cái chết của người trong cuộc thương khó. Trong Thánh kinh, giấc ngủ cũng là hình ảnh của cái chết. Và Chúa Giêsu đã trỗi dậy truyền khiến sóng biển là hình ảnh sự trỗi dậy từ cõi chết của người. Người thức dậy như người sẽ trỗi dậy từ trong kẻ chết và người biểu lộ quyền năng của mình trên biển cả cũng như sẽ biểu lộ chiến thắng của mình trên sự chết. Nơi chính bản thân người, Thiên Chúa hành động cách mạnh mẽ và các môn đệ được mời gọi tin tưởng vào người.
Các bài đọc hướng chúng ta đến việc chiêm ngắm sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi cảm nghiệm lần hồi sức mạnh này của Thiên Chúa trong thiên nhiên vũ trụ để rồi đặt lòng tin tưởng vững mạnh vào Người. Bài đọc sách Gióp cho biết chính Thiên Chúa định nơi xác định vị trí cho biển cả, vạch những ranh giới qui định cho biển không làm hại tàn phá con người. Bài thánh vịnh 106 cũng nhắc những người sinh sống làm nghề buôn bán trên biển cả phải học nhìn ngắm những kỳ công lớn lao của Thiên Chúa trên biển cả. Chính Chúa làm cho gió biển thổi lên, sóng dữ thét gào, nhưng cũng chính Thiên Chúa làm cho biển trở lại im lặng : « Chúa biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, bao làn sóng biển thành im lặng như tờ ». Vì thế, bài tường thuật của Tin mừng Marcô được nối kết cách khéo léo với những bài đọc Thánh vịnh và sách Gióp. Từ một tình huống cụ thể là chuyến hành trình vượt qua biển hồ Galilê trong một cơn giông bão, thánh sử Marcô liên hệ tới mầu nhiệm của Đức Giêsu. Cho tới lúc bấy giờ, đức tin các môn đệ vẫn còn hèn yếu và các môn đệ vẫn còn chưa biết rõ mầu nhiệm con người Đức Giêsu. Cho đến khi chứng kiến việc Người truyền khiến cho sóng biển và sóng biển im lặng như tờ thì các môn đệ lần hồi mới hiểu rõ hơn căn tính thần linh của người. Bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng có quyền năng truyền khiến cho sóng biển, mà Chúa Giêsu lại có quyền năng truyền khiến cho sóng biển và sóng biển vâng lệnh người, vậy phải chăng người là Thiên Chúa. Vì thế, khi Đức Giêsu trách các môn đệ : « Sao các con sợ hãi thế, các con không có đức tin ư ? », thì đó cũng là một lời mời gọi các môn đệ hãy tin tưởng vào người, không chỉ là một vị thầy mà còn hơn thế nữa, người chính là Đấng cứu thế vẫn hằng được mong đợi, người chính là Con Thiên Chúa và các môn đệ hãy đặt lòng tin vào người là Con Thiên Chúa. Tường thuật về việc Chúa Giêsu ngủ trên thuyền giữa con sóng bảo của biển cả còn gợi nhắc đến cái chết và sự phục sinh của người chiến thắng mọi sức mạnh sự chết.
Thánh Phaolô là người đã bắt đầu sống và cảm nghiệm mầu nhiệm thần linh của Chúa Giêsu trong cuộc đời của mình và nhắc nhở các tín hữu Corintô để dẫn đưa họ vào đời sống này. Đối với thánh Phaolô, ông cảm nghiệm thực sự tình yêu của Chúa Giêsu và vì thế ông đáp lại tình yêu này bằng trọn vẹn cuộc đời của mình cho đến chết và thúc đẩy các anh chị em khác cũng hãy bắt chước ông đi vào con đường này : đó là Đức Giêsu đã chết cho mọi người và mọi người được mời gọi đáp lại bằng cách sống chết cho người. Thân phận mỗi người chúng ta lẽ ra phải chết do tội, nhưng Đức Giêsu đã chết đền thay tội lỗi chúng ta, vì thế chúng ta không còn được phép sống cho mình nữa mà sống và chết cho Đức Giêsu : « Đức Giêsu đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống thì không sống cho mình nhưng sống và chết cho Đấng đã chết và sống lại vì họ ». Mầu nhiệm cuộc đời của Đức Giêsu có liên hệ mật thiết với mỗi người chúng ta. Người đã sống và chết cho mọi người thì ngược lại, chúng ta được mời gọi sống chết cho người và với người. Cuộc đời của chúng ta chỉ có ý nghĩa và chỉ hoàn tất trọn vẹn trong Người mà thôi. Không có người và không kết hợp với người, cuộc đời chúng ta sẽ không có ý nghĩa gì cả và sẽ dẫn đến sự hư mất đời đời. Ngược lại, được kết hợp với người, cuộc đời chúng ta sẽ thực sự có ý nghĩa trọn vẹn, chúng ta được kết hợp với con Thiên Chúa, nhờ đó chiến thắng mọi sức mạnh của sự chết.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
CÓ CHÚA Ở CÙNG– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Có ai trong chúng ta đã từng đi tàu trên biển, đã từng đối diện với những cơn cuồng phong nổi lên, làm cho con tàu nghiêng ngả, lúc bấy giờ chúng ta mới cảm thấy con người mình bất lực khi bà mẹ thiên nhiên nổi giận. Có trải qua như thế, chúng ta mới hiểu được tâm trạng của các môn đệ khi đối diện với sóng to gió lớn, làm cho chiếc thuyền nghiêng ngả chòng chành, nước đã tràn vào và có nguy cơ bị chìm, khiến các môn đệ sợ hãi hết sức, vì cảm thấy con người quá ư là mong manh bé nhỏ trên biển cả.
Trong lúc nguy biến như thế, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm nghỉ yên trên thuyền, không biết Ngài có ngủ hay không. Cho đến lúc các ông phải thốt lên lời cầu cứu: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy chẳng lo gì sao?”, lúc bấy giờ Chúa mới ra tay cứu giúp.
Việc Chúa trách các môn đệ: “Sao nhát thế! Các con chưa có lòng tin ư!”. Phải chăng đây là dịp để Chúa mặc khải cho các môn đệ biết: Ngài là ai?, khi biểu lộ quyền năng trên biển cả, bão tố… để họ nhận ra và xác tín niềm tin của mình. Quả thật, chỉ một lời:” Hãy im đi, hãy lặng đi” thì sóng to gió lớn liền yên lặng. Thấy vậy, các ông mới tin Chúa là Đấng quyền năng làm được mọi sự, ngay cả biển còn phải vâng lệnh Ngài.
Biến cố con thuyền của các môn đệ năm xưa bị sóng đánh chập chùng trên biển cả, còn là hình ảnh minh họa cho con thuyền của Giáo Hội từ hơn 2.000 năm qua, đã gặp biết bao sóng gió cả bên trong lẫn bên ngoài.
Từ bên ngoài, đó là các cuộc bách hại liên tục và đẫm máu, còn bên trong là những cuộc ly khai đầy đau buồn của anh em Tin lành và Chính Thống Giáo. Đau buồn hơn nữa là ngày nay nhiều tín hữu bỏ nhà thờ, bỏ đức tin. Ơn gọi ngày mỗi suy giảm, rồi Đức Thánh Cha bị kẻ thù công kích…
Biết bao lãnh chúa hùng cường, bè rối, giáo phái đứng lên chống phá Giáo Hội, tựa như con thuyền đi giữa sóng gió trần gian, vậy mà Giáo hội vẫn đứng vững trên tảng đá Phêrô do Chúa thiết lập, nên không quyền lực trần gian nào có thể phá đổ được. Bởi vì có Chúa luôn ở cùng Hội Thánh.
Thật vậy, khi Chúa trao sứ mạng cho ai, thì Ngài hứa: Ta sẽ ở cùng ngươi. Chẳng hạn như: Chúa hứa ở cùng Giacóp, ở cùng Môisen, ở cùng Đavít. Với Mẹ Maria, Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Với các môn đệ, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Ngày nay, mỗi khi cử hành Thánh lễ, vị linh mục chủ tế nhiều lần nhắc lại: Chúa ở cùng anh chị em; bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.
Anh chị em thân mến,
Nhìn vào cuộc đời mỗi người, có lẽ không ai trong chúng ta tránh khỏi những lúc hoảng sợ, chơi vơi như người đi biển. Đời người ta, ai cũng có lúc gặp những sóng gió, phong ba, đau khổ và thử thách tư bề. Đó là những rủi ro, bệnh tật, những áp lực….như những cơn bão xô đẩy làm ta nghiêng ngả giữa dòng đời. Nếu không vững tin vào Chúa, thì dễ làm ta hoang mang, lo sợ và như buông xuôi tất cả.
Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn luôn đồng hành thiêng liêng dẫu xem ra “như Ngài đang ngủ”. Trong những lúc gian nguy như thế, nếu ta đánh thức Ngài dậy như các môn đệ năm xưa, thì Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Về phía Chúa thì lúc nào Ngài cũng có mặt ở bên cạnh chúng ta. Còn về phía chúng ta, có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình hay không?
Trong cuộc sống, khi gặp đau khổ và thử thách, chúng ta cảm thấy dường như Thiên Chúa bỏ rơi mặc cho bão tố xô đẩy, nhưng thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho mỗi người chúng ta trí thông minh, tự do và ân sủng để trợ giúp chúng ta lướt thắng những sóng gió trên đường đời, nhưng không phải vì thế mà ta cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xẩy ra và những gì Ngài sẽ làm.
Xin cho mỗi chúng ta, hãy luôn tin tưởng cậy trông phó thác vào Chúa. Có Chúa ở cùng, Ngài sẽ giúp chúng ta không chỉ vượt qua phong ba đe dọa mạng sống con người, nhưng Ngài còn đưa thuyền đời chúng ta về tới bến bờ yêu thương hạnh phúc.
Vì thế, Lời Chúa hôm nay, một lần nữa nhắc nhở chúng ta: giữa những cơn sóng của cuộc đời, là cơ hội làm cho đức tin của chúng ta trưởng thành hơn, nhất là cả thế giới đang đối diện với cơn đại dịch, làm tê liệt hết mọi sinh hoạt. Chúng ta hãy luôn tin tưởng vào sự hiện diện đầy quyền năng và lòng thương xót vô biên của Chúa, nhờ đó chúng ta an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an. Amen
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-B
QUYỀN UY TRÊN THIÊN NHIÊN- Lm. Đan Vinh HHTM
*TIN MỪNG : Mc 4,35-41
(c 35) Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ : Chúng ta sang bờ bên kia đi !” (36) Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền. Có những thuyền khác cũng theo Người. (37) Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. (38) Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói : “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” (39) Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển : “Im đi ! Câm đi !” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. (40) Rồi Người bảo các ông :”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ? (41) Các Ong hoảng sợ và nói với nhau :”Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”
*Ý CHÍNH : Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma quỉ muốn chống lại Thiên Chúa. Người đã dùng lời quyền năng dẹp yên sóng gió để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ. Đồng thời cũng để các ông vững tin khi gặp phải những cơn thử thách bách hại sau này.
*CHÚ THÍCH :
-C 35-36 : +Chúng ta sang bờ bên kia đi” :Biển hồ ở đây là hồ Galilê, cũng có tên Giê-nê-sa-rét hay Ti-nê-ri-a. Đây là một các hồ lớn nằm bên trong đất liền xứ Ga-li-lê, dài 21 km và rộng 13 Km. Hồ thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng thương hay có những trận cuồng phong. Biển hồ theo nghĩa của Thánh Kinh là một thế lực gian ác chống lại Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ tại vùng biển hồ này như : Hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,14-31); Đi trên mặt nước (x Mt 14,25); Chữa nhiều bệnh nhân (x Mt 15,29-31); Hiện ra sau khi sống lại (x Ga 21,1); Mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,4-8).
-C 37-38 : +Và một cơn cuồng phong nổi lên :Cơn cuồng phong đe doạ sẽ nhấn chìm thuyền của các Tông đồ xuống lòng biển, tiên báo những nguy hiểm thử thách mà Hội Thánh sẽ phải trải qua sau này. +Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ :Trong khi chiếc thuyền và những người trên thuyền lâm nguy vì bị bão tố trù dập thì Đức Giê-su vẫn nằm ngủ để thử thách đức tin của các môn đệ. Giấc ngủi còn là hình ảnh ám chỉ về sự chết của Người (x Tv 13, 4; Ep 5, 14).. +Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói : “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” :Đánh thức là hành động của các môn đệ kêu cầu Đức Giệ-su cứu giúp trong cơn nguy hiểm. Điều này cho thấy lòng tin yếu kém của các ông vì chưa tín vào quyền năng và tình thương của Thầy mình. +Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” : Các môn đệ hốt hoảng khi thấy thuyền của các ông sắp bị chìm đắm giữa biển khơi mà xem ra thầy các ông không hay biết.
-C 39-41 : +Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển : “Im đi ! Câm đi !”: Đức Giê-su bày tỏ uy quyền trên gió bão và biển động. Khi ra lệnh cho ai là chứng tỏ mình có quyền trên người đó. Khi truyền cho sóng gió yên lặng, Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng trấn áp các thế lực gian ác. +Lập tức gió ngưng biển lặng :cho thấy sự dữ đã phải tùng phục uy quyền của Con Thiên Chúa.+”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?: Đức Giê-su quở trách sự hèn tin của các môn đệ như nhiều lần khác Người đã trách các ông chậm tin vào Người: “Hỡi những kẻ ngu muội và trí lòng chậm tin”(Lc 24, 25); “Người quở mắng sự cứng tin chai đá của họ, bởi họ không tin những kẻ đã thấy Người sống lại” (Mc 16,14).+Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ? :Các môn đệ ngạc nhiên và đầy lòng thán phục Đức Giê-su, khi họ được chứng kiến lời phán đầy uy quyền của Người trên thiên nhiên là gió và biển..
*CÂU HỎI :
1-Biển hồ Ga-li-lê còn có những tên gọi nào ? Dài rộng bao nhiêu ?
2-Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào tại vùng biển hồ này ?
3-Cơn cuồng phong tượng trưng cho điều gì ?
4-Đức Giê-su ngủ ở đàng lái trong khi cuồng phong nổi lên nhằm mục đích gì ?
5-hành động đánh thức Đức Giê-su nói lên điều gì về đức tin của các môn đệ ?
6-Đức Giê-su bày tỏ quyền năng Con Thiên Chúa qua lời nói và hành động nào ?
7-Ngoài lần này, Đức Giê-su còn trách các môn đệ hèn tin trong những hoàn cảnh nào nữa không ?
8-Các môn đệ đã biểu lộ đức tin thế nào khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su thực hiện trên thiên nhiên ?
*SỐNG LỜI CHÚA
*LỜI CHÚA : Môn đệ liền nói : ”Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh ?”(Mc 4,41).
*CÂU CHUYỆN :
*1) TÍN THÁC VÀO TÀI NĂNG CỦA CHA:
Trong một chuyến du hành vượt Đại Tây Dương, nhiều du khách đang đứng trên boong ngắm cảnh hoàng hôn mặt trời đang dần lặn xuống biển. Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, chẳng mấy lúc làm tối sầm cả vùng trời. Rồi sấm chớp đổ xuống liên hồi, trên mặt biển giông tố cuồn cuộn nổi lên, gió càng lúc càng thét gào dữ dội. Mọi người trên boong chen lấn nhau đi về phòng mình, duy chỉ một bé trai là tiếp tục chơi trên boong khi trận cuồng phong sắp ập xuống.
Khi có người hỏi « Em không thấy sợ khi cơn giông tố đang ập đến sao ? » Em thản nhiên đáp lại: « Em không sợ, vì ba em chính là thuyền trưởng cừ khôi đang cầm lái con tàu này ! ».
Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình đang cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu và quyền năng. Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời chúng ta bước theo đường lối của Ngài để tới bến bình an.
*2) CON RUỒI : MỘT TẠO VẬT TINH XẢO CỦA THIÊN CHÚA:
Ngày kia khi tôi đang ngồi ăn trong phòng thì một con ruồi từ bên ngoài bay vào. Nó bay mấy vòng trên bàn rồi nhẹ nhàng hạ cánh xuống miếng chuối ăn dở trên bàn…. Con ruồi đã có thể làm bất cứ điều gì nó thích và bay đến bất cứ nơi nó muốn.
Con ruồi chỉ là một sinh vật nhỏ bé và không chứt giá trị, thế nhưng hoạt động của nó lại trổi vượt hơn hẳn một chiếc máy bay tinh xảo đắt tiền…. Ruồi cất cánh mà không cần lấy đà như máy bay. Đang bay nhưng nó vẫn có thể đáp xuống ngay. Ruồi không bị rơi, không va chạm vào vật nào khác và cũng không bị tai nạn mjuw máy bay. Nó không cần phải học bay và động cơ cũng không bao giờ bị trục trặc hay gặp sự cố. Và cuối cùng nó có khả năng sản xuất ra ngàn vạn con ruồi tương tự mà không phải tốn bao nhiêu công sức.
Con ruồi cho chúng ta thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa trong vũ trụ thiên nhiên.
*3) TẬN MẮT CHỨNG KIẾN PHÉP LẠ TẠI LỘ ĐỨC :
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương Đức Mẹ tại Lộ Đức bên Pháp. Ở đại học Madrid, chàng sinh viên này đã nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như là nơi sản xuất của những mê tín dị đoan trong tôn giáo. Nên trong thời gian ba tháng này, anh sinh viên muốn điều tra thực hư về các phép lạ. Tại đây anh đã được tận mắt chứng kiến một phép lạ như sau :
“Hôm đó tôi đang ở sân Vương cung Thánh đường Lộ Đức cùng với các bà chị của tôi chờ Kiệu Mình Thánh Chúa sắp đi qua. Bấy giờ một bà tuổi trung tuần đang đẩy một chiếc xe lăn đi tới ngay trước mắt chúng tôi. Bà chị tôi chỉ chiếc xe lăn nói : “Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương của bà ta !” Đó là một anh chàng khoảng 20 tuổi bị bại liệt và toàn thân biến dạng. Mẹ của anh ta đang lần chuỗi to tiếng, kèm theo lời cầu nguyện “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin hãy giúp đỡ chúng con !”.
Khi Đức Giám Mục ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt, đang lúc anh ta nhìn vào mặt nhật có đựng Mình Thánh Chúa. Đột nhiên chàng thanh niên bại liệt trỗi dậy, từ từ bước ra khỏi chiếc xe lăn và đã hoàn toàn bình phục ! Dân chúng thấy vậy liền hô to trong niềm vui hân hoan: “Phép lạ ! Phép lạ !”
Sau đó nhờ có giấy phép, nên tôi được xem các bằng chứng xác minh phép lạ này. Tôi không thể diễn tả hết những điều tôi cảm nhận và về tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín nổi tiếng và nhiều sinh viên bạn học của tôi luôn miệng nhạo báng phép lạ. Thế mà giờ đây, tôi đã được chứng kiến tỏ tường một phép lạ do Chúa Giê-su Thánh Thể thực hiện. Khi ấy tôi đã cảm nhận được một sức mạnh vô song của Chúa và thấy thế giới chung quanh tôi thật nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha và ba tháng sau tôi chính thức được gia nhập vào Tập Viện Dòng Tên».
*4) SỨC MẠNH VÔ SONG CỦA LỜI CẦU NGUYỆN :
XÁC INH-LÍT (Charles Inglis), một nhà truyền giáo nổi tiếng thánh thiện đã kể lại câu chuyện như sau: trên một chuyến đi biển kia có một nhà truyền giáo tên là GIOÓC-DƠ MU-LƠ ở BỚ-RAI-TƠN, dự định sẽ đến nhà thờ lớn ở QUÊ-BÉC giảng đạo vào chiều thứ Bảy cuối tuần. Nhưng do bị sương mù quá dầy khiến vị thuyên trưởng phải cho tàu chạy chậm và như thế khiến nhà truyền giáo sẽ bị trễ hẹn. Bấy giờ nhà truyền giáo mới nói với thuyền trưởng mình có cách sẽ sớm làm tan làn sương mù kia đi. Thuyền trưởng nghĩ ông này bị mát dây thần kinh nên không thèm để ý. Bấy giờ nhà truyền giáo liền yêu cầu thuyền trưởng cùng quỳ gối cầu nguyện với mình. Rồi ông một mình quỳ gối xuống dâng một lời cầu nguyện sốt sắng, đang khi viên thuyền trưởng vẫn đứng nhìn với con mắt không mấy tin tưởng. Chờ cho nhà truyền giáo cầu nguyện xong, vị thuyền trưởng mới nói : “Ngài có biết độ dày của sương mù kia đến cỡ nào không ?”. Nhà truyền giáo trả lời :”Không biết! Nhưng tôi không nhìn vào sương mù. Tôi chỉ nhìn vào Đấng dựng nên sương mù mà thôi”. Viên thuyền trưởng định quỳ gối xuống cầu nguyện thì nhà truyền giáo đã ngăn lại và nói : “Nếu lòng ông không tin thì cầu nguyện nào có ích gì ? Hơn nữa, tôi tin chắc Chúa đã nhận lời cầu của tôi rồi nên ông chẳng cần phải cầu thêm làm chi ! Tôi đã nhận biết Chúa được 57 năm rồi, và trong suốt thời gian đó không ngày nào mà tôi không thưa chuyện với Người. Bây giờ ông hãy mở cửa ra mà xem việc Chúa làm”. Quả nhiên khi mở cửa ra thì viên thuyền trưởng thấy làn sương mù dày đặc trước đó đã tan biến hết, con tàu lại tiếp tục tăng tốc và cuối cùng đã cập bến đúng theo lịch trình.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đức tin mạnh mẽ của nhà truyền giáo. Chính Chúa Giê-su đã luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và hoàn toàn tín thác cậy trông nơi Cha. Ngày nay, vì thiếu lòng tin nên người ta coi thường việc cầu nguyện. Mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hay gặp gian nan thử thách, người ta thường chỉ biết dựa vào sức riêng mình, đang khi lẽ ra vừa phải xin Chúa ban ơn soi sáng để tìm ra giải pháp tốt nhất, lại vừa phải cố gắng làm hết sức mình để giải quyết các khó khăn trở lực ấy.
*SUY NIỆM :
Tin Mừng kể lại cảnh tượng xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê : Đức Giêsu đang ngủ. Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài để dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ đều là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là điạ bàn hoạt động quen thuộc của các ông, thế mà lúc này các ông lại đang trong tâm trạng hoảng loạn.
- Chúa ngủ trong thuyền giữa cơn bão:Theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồn xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả những lúc chúng ta gần Người nhất, khi không có tội lỗi hay nghi ngờ nào làm ta cách ly Người, thì giông tố vẫn có thể xảy tới. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng đòi ta phải sẵn sàng chiến đấu, từ bỏ, thậm chí có khi còn phải chịu chết vì danh Người…
- Chết đến nơi rồi mà Thầy không lo gì sao ?:Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và ngụ ý trách móc Chúa đã không quan tâm giúp đỡ khi môn đệ đang gặp nguy nan. Ngày nay một bộ phận tín hữu chúng ta cũng có tư tưởng này mỗi khi bị cơn bão cuộc đời vùi dập. Từ khi tin theo Chúa chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta sẽ đương nhiên được Chúa che chở và cứu khốn phò nguy như đó là trách nhiệm Chúa phải chu tòàn, đang khi lẽ ra ta phải luôn cầu xin Chúa giúp ta vượt qua thử thách và phó thác cuộc đời trong bàn tay Chúa quan phòng.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ : Chúa Giêsu đã lệnh cho sóng gio yên lặng. Ngày nay cũng có người tự hỏi: “Tại sao Chúa lại không ra tay can thiệp cứu giúp các tín hữu mà lại mặc họ phải bị chết chìm trong biển cả cuộc đời ?” Nếu chúng ta hiểu câu chuyện chỉ vỏn vẹn là sự dẹp yên bão tố của thời tiết thì chắc chắn sẽ phát sinh nhiều vấn đề làm chúng ta phải nặng lòng. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện này còn lớn hơn thế nữa :
- Chúng tôi phải làm gì ? : Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta phải thể hiện đức tin bằng cách :
-Khi sự sầu muộn đến như nó phải đến :Ta tin rằng Chúa sẽ biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng phục sinh vĩnh cửu. Người sẽ giúp chúng ta tin cậy vào tình yêu vô cùng của Ngài. Chằng hạn khi ta bị nất đi một người thân yêu, thì chúng ta nên biết rằng : Chết không phải là hết, nhưng là bườc vào một đời sống mới vình hằng và mai ngày chúng ta sẽ gặp lại người thân của chúng ta trên Thiên đàng.
-Khi chúng ta gặp phải một hoàn cảnh nan giải: Khi ta không biết phải làm gì, phải giải quyết thế nào mới đúng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì ?” hoặc : “Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ?” Bấy giờ Chúa sẽ nói trong lương tân để giúp chúng ta nhận biết con đường phải đi và ta sẽ có thể mạnh dạn thưa cùng Chúa :”Này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”.
-Khi gặp cơn lo âu bối rối : Khi ta phảilo cho bản thân, lo về một tương lai bất định, lo cho con cái sau này… Chúng ta hãy ý thức về lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa để trông cậy phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng. Người sẽ luôn giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc đời đời. Bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ được bình an như lời Chúa Giê-su phán :”Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.… Và tâm hồn các con sẽ được bình an” (Mt 11,29).
*THẢO LUẬN :
1). Một người có đức tin vững mạnh có bị thất bại hay gặp phải những sự gian nan khốn khó trong cuộc đời hay không ?
2). Một người chỉ biết cầu xin Chúa giúp mà không cố gắng làm việc để tự giải quyết những khó khăn gặp phải thì có phải là người có đức tin vững mạnh không ? Tại sao ?
3). Vậy khi gặp gian nan thử thách, người tín hữu phải làm gì để chứng tỏ đức tin vững mạnh của mình ?
*CẦU NGUYỆN :
-LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày nào chúng con cũng gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhiều khi những sự sui sẻo hoạn nạn lại cứ dồn dập đổ xuống làm con thuyền đức tin của chúng con như sắp bị chìm đắm. Trong những lúc ấy, xin cho chúng con ý thức rằng Chúa vẫn đang ở trong thuyền linh hồn chúng con, để chúng con yên tâm và không còn bị nao núng sợ hãi nữa. Xin cho chúng con biết vừa làm hết sức mình, vừa tín thác cậy trông vào ơn cứu độ của Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ có thể vượt qua các cơn gian nan sóng gió và tới bến bình an.
-LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn tin vào tình thương quan phòng của Chúa. Cho chúng con biết xử dụng những ơn lành Chúa ban để giải quyết những trở ngại gặp phải trên đường đời. Mỗi khi gặp phải điều gì trái ý, xin cho chúng con biết cầu nguyện như Chúa khi xưa: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khòi uống chén này. Nhưng đừng theo ý riêng con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39). Xin cho chúng con vừa làm việc vừa cầu xin Chúa trợ giúp như lời bài hát :“Có Chúa đi với con, con sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với con, con sẽ không còn thiếu gì”. Xin cho con năng dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa về muôn ơn lành Chúa đã thương ban, cho con biết noi gương Mẹ Ma-ri-a mà dâng lên lời ngợi khen cảm tạ tình thương bao la của Chúa, vì Chúa đã làm cho con biết bao điều lớn lao kỳ diệu (x Lc 1,46-55).
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
SÓNG GIÓ CUỘC ĐỜI- Lm. Anphong Trần Đức Phương
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v…
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta , gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,
Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!”
(TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi…
“Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”
(Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-B
NGƯỜI DỰA VÀO CHIẾC GỐI MÀ NGỦ- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?… Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. A-men.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
BIỂN ĐỜI VÀ BIỂN KHƠI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
BÃO BIỂN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
“LÀM SAO MÀ ANH EM VẪN CHƯA CÓ LÒNG TIN”- Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Thế
* Vài hàng sơ lược
– Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)
– Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
– Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.
– Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.
– Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”
– Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
– “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
– 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
– 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:
8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tã che thân?
10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
– 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel – Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta…. (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta…. và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều….Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả…. Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi , xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa… Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy… Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa… Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài…Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé… Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:
– “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
họ vui sướng, vì trời yên bể lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
– “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
– 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam