Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 41
Tổng truy cập: 1374364
ĐỨC GIÊSU CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT
Đức Giêsu - Con đường cứu độ duy nhất
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ai một mình Chúa Giêsu" (Mt 17:8).
Trong cuốn sách tựa đề "Gương Hiếu Thảo", tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng. Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: "Con nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau khỏe". Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên lăng cha cho trọn đạo hiếu.
Khi đề cập đến đạo hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.
Có lẽ trong những quốc gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ..., nơi mà "tứ đại đồng đường", ba bốn đời vẫn ở chung nhau dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?
Lý do là vì nhiều người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: "Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14:26).
Vấn đề được đặt ra là: "Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?"
Điều cần xác minh trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: "ngươi phải thảo kính cha mẹ". Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.
Vậy thì làm sao để lý giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?
Thật ra có gì khó hiểu đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và xây dựng đất nước đó.
Mấy ai lại không biết một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà Vua Giêsu đã truyền dạy.
Mấy ai lại không biết một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: "Mẹ ở nhà con đi làm thánh". Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì con người có tên Giêsu.
Nhưng không phải là ai cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết, hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết, một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý, khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).
Thế thì, một khi nhận thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.
"Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu". Hai nhà đại tiên tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. "Chỉ còn một mình Chúa Giêsu". Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây "mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên". Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.
Thật chí lý thay niềm xác tín của Giáo hội: "Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu".
20. Chúa hiển dung bộ mặt nào?
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi được biết: trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung (‘sự hóa thân’ theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự kiện thâu tóm tất cả mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút nào, vì Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải gói ghém trong đó một thực tế (sản phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn không phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn là cuộc khổ nạn, như nhiều khi chúng ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để củng cố các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì việc biến hình đã thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ nói chung, cách riêng Phêrô - một trong ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó phải làm lộ rõ nội dung vinh quang đích thực của Thập Giá
Theo lối suy nghĩ tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng tách vinh quang ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt tới vinh quang. ‘Per crucem ad lucem’, người ta thường quan niệm thế, phải qua thập giá đau thương mới tới được vinh quang phục sinh. Nói như thế thì tự nó Thập giá không bao giờ là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện như một phần thưởng sau thập giá, trong ánh sáng phục sinh. Thông thường người ta quan niệm, thập giá chỉ là phương tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự như đau khổ là con đường dẫn tới thành công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang phục sinh chứ không thể yêu thích thập giá, và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực của Thiên Chúa chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không thể trong đau khổ thập giá.
Ngược hẳn với lối suy nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố Hiển Dung, đều cho thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai ông Êlia và Môsê, hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Để thấu hiểu biến cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn - phục sinh của Đức Giêsu. “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Theo tác giả Gio-an thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải Phục sinh) mới được Đức Giêsu coi như mục tiêu chính của mạc khải Người, là ‘giờ của Người’, là sự tôn vinh’ của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga 12,20-33). Chỉ có Đức Giêsu của hiển dung - thập giá mới được Chúa Cha từ trời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”
Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc 8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.
Vì vậy đối với Kitô hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời gian mời gọi mọi Kitô hữu hãy say sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh quang và quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi, nhưng chất đầy vui mừng và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm của mùa chay phải là Thập giá, nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết chóc, mà là Thập giá ánh lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế, hoặc như Phêrô, tôi chối bỏ vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua đuổi như Sa-tan, tức là kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Mùa chay vì thế không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để khám phá và củng cố niềm tin. Tôi có ý thức điều đó không?
Lạy Chúa, khi mời gọi con vác thập giá theo chân Chúa là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia vào vinh quang vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục của Chúa, không còn coi Thập Giá là biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã trở thành biểu tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho con diện mạo yêu thương tự hiến của Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho Thánh Giá từ nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men
21. Đường về đỉnh vinh quang
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.
Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.
Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.
Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH QUANG.
“Vinh quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.
Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).
Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong thoáng chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ - “nhận biết” được Đức Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.
Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).
Sự biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.
Không trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình dồng dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
Điều gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với chính mình.
Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).
Đó là sự xác tín căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).
Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để “chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời ta”.
Nếu con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan.
“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).
Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.
Vì sự sống là từ Thiên Chúa.
Nên con người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).
Sự biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4).
Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.
Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)
THỰC TẾ HÔM NAY
Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.
Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết cố gắng vươn lên,
từng giây phút đổi thay đời mình,
đến gần sự thiện hảo hơn,
để con được hưởng vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu của Chúa. Amen.
22. Biểu lộ chân dung – JM. Lam Thy
Tiêu đề bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay có sách Tin Mừng ghi là “Đức Giêsu hiển dung” (Mt 17, 1-9; Lc 9, 28-36), có sách ghi là “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” (Mc 9, 2-8). Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm đều dùng cách viết “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” – Mt 17, 1-2). Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?
Hiển dung là biểu lộ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giêsu biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giêsu Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giêsu biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh niên Giêsu Na-da-ret.
Khi ba môn đệ theo Đức Giêsu lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “... Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giêsu đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-32). Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã khuất bóng từ trước đó mấy trăm năm) được.
Từ hình dạng con người trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17, 5). Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giêsu chiu phép rửa trên sông Gio-đan ("Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." – Mt 3, 17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời, cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và những kẻ đến với Đức Giêsu Ki-tô.
Nói Chúa Hiển Dung là nhằm mục đích củng cố đức tin của các môn đệ, nhưng vì sao lại phải như vậy? Ấy là vì trước đó không lâu, Đức Giêsu đã loan báo biến cố Thương Khó lần thứ nhất cho các môn đệ: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại". Các môn đệ đã không chịu hiểu và cũng không muốn tin rằng Thầy mình sẽ đi vào con đường thập giá quá đau khổ và nhục nhã đó. Riêng Phê-rô thì đã kéo riêng Thầy mình ra và trách Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”; khiến Đức Giêsu phải nặng lời quở mắng: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." (Mt 16, 21-23).
Một sự kiện minh họa lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “… ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt…” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông Ê-li-a), thì "các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6). Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: "Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn." Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu ra rằng thời giờ đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!" (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo! Thế đó!
Điều đó cho thấy sau biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giêsu bước vào cuộc Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá, nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!
Quả thật Chúa luôn luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (Thánh Âu-tinh). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giêsu luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện ("Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối." – Mc 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).
Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.
Đúng là rất khó khăn để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức mình vì "tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối" mà phải cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người soi sáng và ban thêm sức mạnh và lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).
Quả thực Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giêsu, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giêsu Ki-tô, qua Lời phán dạy: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ riêng mình tôi, mà là tất cả những anh em chung một niềm tin với tôi, đang đồng hành cùng tôi, đều ước được như vậy. Amen.
23. Biến hình
(Sưu tầm của Linh Xuân Thôn)
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này".
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con."
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
(Anthony de Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)
***
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại một cuộc biến đổi. Đó là cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu trên núi Tabo. Trong ngày hôm đó, Đức Giêsu đã mang theo các môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông (Mt.17,2).
Trong cuộc biến hình đổi dạng đó, Ngài cởi bỏ thân phận con người để mặc lấy Thiên Tính của Thiên Chúa. Ngài cho các ông được nhìn thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa, để thêm lòng tin cho các ông.
Hơn hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabo. Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay. Ngài biến hình qua bàn tay của Linh mục trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để trở thành xương thịt của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở thành những giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con người.
Ngày nay Đức Giêsu cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ. Ngài không mang tôi và bạn lên núi Taboo như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa kia, nhưng Ngài mang tôi và bạn đến trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu Thánh Thể, đến trong các bí tích mà ta lãnh nhận… nơi đó Ngài dành cho ta những giây phút thinh lặng thánh thiêng mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài cũng biến đổi hình dạng để thêm lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho ta lòng mến, sự tin yêu cậy trông phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi theo Ngài trên bước đường lữ thứ trần gian này.
Hôm nay, Đức Giêsu mời bạn và tôi cùng “biến hình” với Ngài. Biến hình không phải là trở thành cái gì xa lạ khác thường, nhưng biến hình là để trở về với cái tôi sâu thẳm của chính mình: “Tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa”. Đó là ơn được làm con cái Thiên Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng nhất của người Kitô.
Biến hình với Đức Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và cậy trông phó thác.
Biến hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.
Biến hình với Đức Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn.
Lạy Chúa Giêsu! Xin ban ơn giúp sức cho con để con cũng được “biến hình” với Chúa trong Mùa Chay Thánh này, để con được trở nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và để con cũng được Thiên Chúa Cha nói với con rằng: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con…” (Mt.17,5). Amen
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam