Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 73
Tổng truy cập: 1367453
ĐỨC GIÊSU GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn này dường như là một tổng hợp những chất liệu khác biệt.
Ở cc. 38-41: Ta thấy điều đó ngay khi nhìn bề ngoài nơi việc thay đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi thứ nhất số nhiều, Đức Giêsu trả lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất số ít, rồi bằng một câu khác ở ngôi thứ nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ lời với các môn đệ (hymas, “anh em”). Rồi, c. 41 nối với c. 37 thì khớp hơn là nối với cc. 38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một đơn vị độc lập được viết nhằm giải quyết một một vấn đề cụ thể của cộng đoàn, với nội dung và cấu trúc sê-mít: c. 39 là một mệnh đề điều kiện theo kiểu Sê-mít; c. 10 có giọng văn một cách ngôn. Dường như c. 41 được ghi giữ lại trong Mt 10,42, ở dạng cổ hơn: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi…”; bản văn nói về đề tài “những kẻ bé nhỏ” đã được tác giả Mc chuyển thành đề tài “các môn đệ”.
Đến cc. 42-48, chúng ta cũng nhận thấy có những câu nói thuộc các thể văn khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề tài những kẻ bé mọn của cc. 37 và 41. Các câu 43, 45 và 47 có cùng một cấu trúc và lặp lại nhịp nhàng đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư tưởng được liên kết với nhau chỉ về mặt từ ngữ, bằng những “từ móc nối”. Điều đó đặc biệt rõ ràng trong cc. 48-50: “lửa” ở c. 48 đưa đến “lửa” ở c. 49; tại đây “(ướp bằng) muối” đưa tới “muối” ở c. 50. Nhưng trước đó, động từ “làm cớ sa ngã” làm cho cc. 42-48 được thống nhất. Và thuật ngữ “vì danh” móc nối cc. 37 (“vì danh Thầy”), 38-39 (“vì danh Thầy, “vì danh Ta [Thầy]”) và 41 (“vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” diễn tả trong hy ngữ là en onomati hoti, là một kiểu nói Sê-mít). Ngoài ra “một em nhỏ như em này” ở c. 37 móc nối với “một trong những kẻ bé mọn đang tin đây” ở c. 42 (cho dù trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion / micro).
Tuy đây là một bản văn gồm những tư tưởng được liên kết với nhau bằng những “từ móc nối”, nhưng khi đã thành một đơn vị văn chương, và đưa vào trong tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ ý khi đặt nó vào một chỗ nhất định.
Đây là một cuộc chuyện trò giữa Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu ngồi (tư thế của vị thầy). Truyện diễn ra “ở nhà” (c. 33), một ngôi nhà ta không biết rõ ai là chủ và toạ lạc ở đâu. Ở đây, ngôi nhà được xác định là tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể gặp ở nơi khác, mỗi khi Mc cần có để diễn tả sự kín đáo thân mật trong những giáo huấn Đức Giêsu ban riêng cho các môn đệ, tách khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Trong cuộc trò chuyện, Đức Giêsu nhấn mạnh rõ ràng đến mối nguy đe doạ cộng đoàn khi các môn đệ còn tìm cho được ăn trên ngồi trước.
Cuối cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan báo Thương Khó lần thứ hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời loan báo Thương Khó, mỗi lời đều có kèm theo những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm tối không hiểu của các môn đệ, khiến Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo huấn về tình trạng cộng đồng sinh mệnh giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây, sau lời loan báo lần hai, vì các môn đệ còn quan tâm đến việc “trên trước”, Đức Giêsu dạy cho họ biết đâu là đường lối của Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Tuy bản văn rất tản mạn, chúng ta có thể chia thành hai đơn vị:
1) Người ở ngoài nhóm (cc. 38-41);
2) Các cớ làm sa ngã (cc. 42-48).
3.- Vài điểm chú giải
– Người lấy danh thầy mà trừ quỷ… không theo chúng ta (38-40): Trong Cựu Ước, có một đoạn song song với câu truyện này, đó là câu truyện Enđa và Mêđa không đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv 8,18; 19,13-14). Môsê đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài tường thuật Mc, người trừ quỷ đã sử dụng danh Đức Giêsu như một thứ khí cụ đầy sức mạnh (x. Mc 1,24; 5,7). Đức Giêsu dạy các môn đệ tỏ ra khoan dung với người ấy. Thái độ của Người dựa trên ý tưởng này là bất cứ ai đã trừ quỷ nhân danh Người, không thể ngay sau đó lại đi nói xấu Người. Hẳn là Mc đang muốn nêu ví dụ này để phê bình những khuynh hướng độc quyền trong Giáo Hội tiên khởi. Câu 9,40 là một câu tổng-quát-hoá giáo huấn trong c. 39 thành dạng châm ngôn.
Công thức “vì người ấy không theo chúng ta”, chứ không phải là “vì người ấy không theo Thầy” khiến hiểu rằng nhóm các môn đệ là một thực thể khép kín và có thể lời báo cáo của Gioan phản ánh một vấn đề của cộng đoàn.
– Cho anh em uống một chén nước (41): Nên nối kết lời khẳng định này với c. 37: Hai câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy Đức Giêsu nói về em nhỏ bằng những từ ngữ thích hợp với một sứ giả, một vị thừa sai hơn. Chính truyền thống Tin Mừng đã áp dụng cho các môn đệ những lời và những cử chỉ của Đức Giêsu liên hệ đến các em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển đi từ em nhỏ sang người môn đệ được mời trở nên bé mọn (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37) hoặc sang “kẻ bé mọn đang tin”, nghĩa là người môn đệ yếu đuối nhất hoặc tầm thường nhất (Mc 9,42; Mt 18,6). Câu 37 liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là phù hợp với tinh thần và điều răn của Người, dường như nối kết hai câu được nói trong hai hoàn cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về các em nhỏ, câu kia (c. 37b) nói về những sứ giả của Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc 10,16; Ga 13,20). Được diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với người môn đệ được tiếp đón trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho người ấy có giá trị đến thế, chính là vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người ấy (x. Mt 25,35-45).
Nhờ những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý thức rằng họ thuộc về Đức Kitô và do đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện nơi thế gian này.
– Làm cớ cho những kẻ bé mọn đang tin phải sa ngã (42): “Những kẻ bé mọn” đây chính là những Kitô hữu yếu đuối hơn hoặc ít sáng suốt hơn những người khác. Phaolô có lưu ý rằng những người hiểu biết hơn cũng có thể trở thành cớ khiến người yếu phải sa ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29; Rm 14,1-23). Giọng nghiêm khắc của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn trọng phẩm giá của những kẻ ấy và phải ân cần săn sóc họ.
– ai làm cớ cho… sa ngã (43-48): Phân đoạn này có cấu trúc giống nhau (“Nếu tay… nếu chân… nếu mắt…”; x. cc. 43.45.47): nếu một chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ phạm tội, thì loại nó đi để tránh được geenna (hoả ngục) và được vào Nước Thiên Chúa. Không cần phải tìm hiểu xem những tội của tay, của chân, của mắt là những tội nào. Vả lại, loại bỏ những chi thể này đâu hẳn là loại trừ được mối nguy? Chúng tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. Đức Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người (x. Mc 8,35-37 // 10,23-27 // Mt 13,44-45;…).
“Sự sống” thì đối lại với “hoả ngục”, được coi như nơi có những khổ hình dành cho những kẻ tội lỗi bị loại khỏi “sự sống”. Câu trích khá thoáng ở c. 48 gửi chúng ta về với bản văn Is 66,22-24 trong đó vị ngôn sứ gợi lên vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của thế giới, trong khi đó ở bên ngoài thành, tử thi của những kẻ phản loạn chống lại Thiên Chúa đang bị giòi bọ rúc rỉa và lửa thiêu đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm (hoặc “con cái Hinnôm”: ghê-Hinnôm hoặc ghê ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna) gần các cổng thành ở phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc) đã lên tới cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những cách thế xử lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (Híp-ri) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), trở thành biểu tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi hoán cải. Viễn tượng của Mc 9,43-48 là viễn tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa vào những bản văn này mà suy đoán về thế giới bên kia, nhưng mà soi sáng và hỗ trợ sự chọn lựa con đường đưa đến sự sống (x. Mt 7,13-14 so sánh với cc. 24-27).
Ghi chú: C.S. Mann giữ lại một gợi ý thú vị của J.R. Harris: tác giả TM II đã lấy từ La-tinh salis (muối) ở thể accusative (đối-cách) (salem) rồi liên kết từ ấy với Híp-ri salem nghĩa là “bình an, hoà bình” (x. Dt 7,2). Kết quả là chúng ta có một lời khuyến khích các môn đệ giữ cho được sự bình an nơi chính mình và duy trì sự bình an giữa họ với nhau (Mc 9,50).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Người ở ngoài nhóm (38-41)
Khi viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu. Trước tiên, sau 8,33-37, cách xử sự của Gioan lại cung cấp một ví dụ khác về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ và sự cần thiết phải sửa chữa. Các môn đệ không những tranh nhau về chỗ trên trước, các ông còn khoe khoang về những đặc quyền. Đó là một điểm tiêu cực cần điều chỉnh. Kế đó, cách Đức Giêsu đánh giá hoạt động trừ quỷ cho hiểu rằng Người không nhắm thành lập một nhóm khép kín để hưởng các đặc quyền đặc lợi, nhưng là một nhóm biết phục vụ bất cứ ai, trong âm thầm, khiêm tốn.
* Các cớ làm sa ngã (42-48)
Trong khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ, các môn đệ phải sẵn sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi trường hợp và phải sẵn sáng chấp nhận những hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm đạt tới sự hoàn thiện cá nhân nhờ một việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng cố sự hiệp thông giữa các thành viên. Sự hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê quyền trên trước, bởi việc tìm kiếm các đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm sa ngã, bởi thái độ khinh bỉ những người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối cùng là duy trì sự bình an có nghĩa là góp phần giúp người ta vượt lên trên tất cả các mối đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).
+ Kết luận
Cho dù là tản mạn, các lời nói trên đây của Đức Giêsu luôn luôn có thể giáo huấn các Kitô hữu. Mc đã trình bày các lời này như những chỉ thị ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo đường đã từng đưa Đức Kitô đến những đau khổ thập giá. Toàn bộ những giáo huấn này nhắm tới lý tưởng một cộng đoàn trong đó mọi người sống hoà thuận với nhau (c. 50b) bởi vì sẵn sàng phục vụ lẫn nhau (cc. 33-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho những người ở ngoài nhóm trừ quỷ! Người đang khuyến khích người ta làm những việc phục vụ ít lộ liễu. Quan trọng không phải là làm những việc ngoạn mục, tạo cảm giác mạnh, nhưng là tình yêu diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao một ly nước cho người đang khát.
2. Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu đối với kẻ làm cớ cho người khác sa ngã có thể hiểu như là một lời an ủi khích lệ hay một lời răn đe tùy người được nhận lời nói này. Là lời an ủi khích lệ cho những người đạo đức, để họ cứ vững vàng sống đúng tư cách dù có bị thế gian khinh bỉ. Là lời răn đe đối với những người lãnh đạo cộng đoàn: coi chừng kẻo lối ăn nói, cư xử của các ngài lại thành cớ cho những kẻ mà các ngài đã đưa vào đức tin phải mất tinh thần và buông xuôi, hoặc học lấy một cách sống không phù hợp với người môn đệ của Đức Kitô.
3. Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải phục vụ như Người: quan tâm đến những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thế cô thân, và cứ phục vụ họ trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những người đó, vì kiến tạo được sự hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể làm chứng cho thế giới thấy rằng Nước Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
4. Thế giới và lịch sử đều những hạt giống Lời Chúa. Ở bên ngoài Hội Thánh, nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những người đang mở ra với làn hơi Thánh Thần, hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên Chúa. Chức năng của Hội Thánh là làm bừng lên và kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu chỉ thực tại hợp nhất của bất cứ điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người. Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc vào điển hình này. Lời đã được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể thấy cả nơi các cá nhân và trong các nghi thức và tập tục của các dân tộc. Lời này được Thánh Thần đưa tới chỗ hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội. Tất cả mọi người đều cần được liên tục kéo đến dấu chỉ hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin Mừng.
63. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
HUẤN DỤ TRUYỀN CHO CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU (9,38-50)
Những gì chúng ta đang đọc xem ra không có liên hệ rõ ràng với diễn tiến trước đó (9,33-37). Người ta vẫn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi dạy dỗ các môn đệ. Tuy nhiên rõ ràng các vấn đề đang được bàn đến vượt quá giới hạn của vấn đề trước đó. Với tư cách một giáo lý viên giàu kinh nghiệm, Maccô đã gom góp ở đây nhiều huấn lệnh Chúa Giêsu nói với cộng đoàn Kitô hữu. Sự thu gom này được xác định bởi cách dùng một phương thức cổ xưa của các nền văn minh truyền khẩu để giúp cho dễ nhớ: đó là kỹ thuật dùng các “từ móc”. Các lời nói của Chúa Giêsu thoạt đầu không liên hệ với nhau đã được ghép lại với nhau bằng một từ, một lối diễn tả. Việc này được khởi đầu bằng lối nói: “Vì danh Thầy”. Lối nói này kết bốn câu lại với nhau: 37,38,39 và 41. Tiếp đó, một chuỗi lời nói được dệt chung quanh các từ “làm cớ cho sa ngã” mà người ta gặp bốn lần ở các câu 42,43,45 và 47. Cuối cùng hai đơn ngữ “lửa” và “muối” được dùng để làm cho ba câu 48,49 và 50 ăn khớp với nhau.
Lời giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu được nói lên nhân việc can thiệp của Gioan, một trong nhóm Muời Hai (c. 38). Lời đề nghị của một trong hai anh em vừa mới được phong biệt danh “Con của Sấm Sét” (3,17) quả đáng ngạc nhiên. Nó bộc lộ cho thấy một tính cách bất bao dung nào đó nói nhóm các tông đồ. Nhóm này có khuynh hướng khai trừ những kẻ đang đứng ngoài lề, dù họ không hoàn toàn bộc lộ ra điều này. Chúa Giêsu không cổ vũ “anh thần pháo đài” (khép kín) trong Giáo Hội Ngài. Ngài nhắc nhở các môn đệ phải biết cởi mở với người anh em lân cận (c. 39). Ngài truyền họ phải rộng mở tiếp đón tối đa mọi kẻ công khai thù nghịch với họ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Ta hãy nghĩ đến tầm quan trọng của những lời này đối với một Giáo Hội như Giáo Hội của Maccô hiện đang vị sự bách hại dồn vào thế co cụm, khép kín. Chúa Giêsu còn đi xa hơn với thí dụ về ly nước, dùng để giải khát và tăng sinh lực theo quan niệm Đông phương. Hành vi bác ái nhỏ nhặt nhất mà một kẻ đối nghịch làm cho một Kitô hữu trong một khu vực hết sức thú hằn với nhau, mang rất nhiều giá trị. Chúa Kitô sẽ nhớ đến hành vi ấy trong ngày chung thẩm (x. Mt 25,31-46).
Trong các câu tiếp theo (42-47) cung giọng thay đổi và trở nên nặng nề nghiêm trọng hơn. Một chuỗi lời nói tác động vào nhau nhờ động từ tiếng Hy Lạp “làm cớ cho sa ngã” (c. 42a). Lời cảnh giác rất nghiêm trọng. Dứt khoát không được “dựng lên chướng ngại” trên con đường của những kẻ tin Chúa. “Những tín hữu bé mọn này” chính là các Kitô hữu mà đức tin phôi thai của họ vẫn còn mỏng manh. Mọi “gương xấu”, theo nghĩa mạnh có thể ví như bẫy gài dưới chân họ, đều sẽ gây tai hại trầm trọng cho lòng trung thành của họ. Phải tuyệt đối đề phòng mọi việc làm gương xấu. Vì thế mỗi anh em trong cộng đoàn phải chú tâm đến tương giao giữa mình và kẻ khác. Chúa Giêsu ra lệnh tới ba lần: “Nếu tay con… nếu chân con… nếu mắt con làm cớ cho con sa ngã”, thì hãy cắt, chặt, móc nó đi! (c. 43a; 45a; 47a). Tay, chân, mắt là những bộ phận chính của cơ thể dùng để liên lạc. Mỗi bộ phận này đều tác động đến cả thân thể. Nếu chúng là cớ gây thương tổn cho kẻ khác thì thà quẳng chúng đi. Đã có trường hợp cắt một phần chi thể bệnh hoạn có thể cứu sống toàn bộ cơ thể. Về mặt thiêng liêng, vấn đề này rất trọng yếu. Thà cụt tay, thọt cẳng, chột mắt mà được vào chốn trường sinh còn hơn là nguyên vẹn mà bị quẳng vào “hỏa ngục là nơi sâu bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (c. 43b; 45b; 47b-49).
Các lời nói này xem ra quá cứng cỏi nếu không muốn nói là tàn bạo! Ở đây người ta gợi lên số phận của kẻ tội lỗi bằng những hình ảnh về cái chết vĩnh cửu kèm theo các nhục hình gớm ghiếc (sâu bọ và lửa). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vấn đề này. Trước hết chúng ta hãy bỏ đi lối đọc theo nghĩa đen các hình ảnh được sử dụng. Không bao giờ Giáo Hội đọc thấy nơi trong Phúc Âm này lời kêu gọi hủy hoại thân thể. Đối với mỗi Kitô hữu, đây chính là lời mời gọi thúc bách họ tự thoát khỏi những gì xấu xa nơi bản thân để đảm bảo phần rỗi cho mình. Quả thế, điều này có liên quan đến sự thành công hay thất bại của cuộc sống loài người. Một bên là cuộc sống đời đời vô tận với Chúa Kitô Phục Sinh, còn một bên là “địa ngục”, từ này muốn nói lên điều gì? Đây là hình ảnh bắt nguồn từ thụ kiến bi đát về hỏa ngục xét như một tình trạng hủy diệt đớn đau những kẻ tội lỗi cứng lòng! “Địa ngục” ở đây là một thung lũng sỏi đá nằm ở mạn nam ngọn đồi của thành Giêrusalem. Vào thời Chúa Giêsu, kể từ các cuộc điều tra dân số, chốn hoang dã ấy được dùng làm chỗ xả rác công cộng của thành đô. Ở đây người ta có thể thấy hàng đống rác rưởi, thú vật hoặc cây cối bị dòi bọ đục khoét; thường xuyên người ta thiêu cả những xác người. Tóm lại, đối với những kẻ do Thầy với Chúa Giêsu, địa ngục gợi lên số phận thích đáng dành cho những kẻ khép lòng lại trước lời kêu gọi của Thiên Chúa. Thị kiến kinh khiếp này đã từng được tiên tri Isaia mô tả: “Trong khi bước ra (khỏi thành phố), người ta có thể trông thấy các thây người từng nổi dậy chống đối ta (Chúa phán). Dòi bọ rúc rỉa chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tắt. Mọi xác thịt sẽ nhờm tởm chúng (Is 66,24).
Quang cảnh được hình dung ở đây tác động mạnh đến các trí tưởng tượng, nhất là từ thời Dantê (thi sĩ nổi tiếng người Ý thể kỷ XIV) đối với nhiều người hỏa ngục và lửa thiêu kinh khiếp nơi đó từ một hình ảnh tượng trưng đơn sơ đã biến thành một thực tế không thể nào chịu nổi. Vì vậy cần phải tái lập lại chân lý. Dù cho lối dùng khoáng đại của nó, Kinh Thánh cũng chỉ muốn diễn đạt một ý tưởng đơn giản đó là Thiên Chúa công bình sẽ trừng phạt tất cả những kẻ hoàn toàn khép lòng lại trước Tình yêu Ngài. Họ sẽ không được hiệp thông với Chúa, bị xa cách Chúa Kitô và các thánh. Mặc dù được Kinh Thánh xác nhận, hỏa ngục vẫn còn là một thực tại mầu nhiệm, khó dung hòa được với hình ảnh một vị Thiên Chúa Tình yêu!
64. Chú giải của Noel Quesson.
Trên con đường đi Xêdarê – Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của “Con Người” cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:
– Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một “luật lệ” được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.
Ông Gioan nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.
Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.
Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố” nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?
Gioan đã thấy một “người trừ quỷ” mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).
Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).
Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có “những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.
Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những “con quỷ” này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé… tất cả đều phải “khử trừ” sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.
Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.
Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo… hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến… Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.
Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.
Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên “kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người”. Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh “Quyền lực của Đức Kitô”. Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.
Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới “thấy được” của Giáo Hội hay sao?
Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?
Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:
“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như gió” (Ga 3,8).
Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài “nhóm” (Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ “đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ông đã nói: “ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những “người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất chúng con”.
Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài” nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu “các con đừng ngăn cản người ấy” đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.
Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa… Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là “những con người phổ quát”, “nhưng con người biết thông cảm những khác biệt” như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: “Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ” (GS 9,2).
Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. “Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn”. Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, những điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?
Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).
Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
‘Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước” lạ thường của người môn đệ: “Người ấy thuộc về Đức Kitô”. Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.
Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). “Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đó là sự lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?
Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.
Sau những lời khuyên luận lý tích cực (“cho một chén nước”), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực (“không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã”). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.
Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.
Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.
Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.
65. Chú giải mục vụ của William Barclay.
MỘT BÀI HỌC VỀ KHOAN DUNG (9,38-40)
Như chúng ta chúng ta được biết nhiều lần, vào thời Chúa Giêsu, ai nấy đều tin có ma quỷ. Mọi người đều tin rằng các thứ bệnh tật của thân thể lẫn tâm thần, đều do ma quỷ tà linh ám ảnh. Có một phương pháp hết sức thông thường để trục xuất ma quỷ. Nếu ai biết được tên của một tà linh nào mạnh hơn, thì có thể nhân danh tà linh ấy truyền lệnh cho tà linh đang ám ảnh nạn nhân đó ra khỏi người đó và con quỷ đó phải nhượng bộ. Nó không dám chống lại danh của một tà linh khác có thế lực hơn nó. Đó là loại sự việc đang xảy ra ở đây. Gioan thấy có người nhân danh uy quyền của Chúa Giêsu để đuổi quỷ, ông đã ngăn cấm vì người ấy không phải là một trong số thân cận với Chúa Giêsu như các tông đồ. Nhưng Chúa Giêsu tuyên bố rằng chẳng hề có ai hoàn toàn thù địch với Ngài mà có thể nhân danh Ngài mà làm được việc quyền năng nào. Rồi Ngài quy định một đại nguyên tắc là “hễ ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Đây là một bài học về khoan dung mà mọi người cần học tập:
1/ Mỗi người đều có quyền tự do tư tưởng. Mỗi người đều có quyền suy nghĩ về mọi sự việc cho đến khi nào tìm ra kết luận cho những điều mình tin. Đây là một nguyên tắc mà chúng ta phải tôn trọng. Chúng ta thường vội vàng lên án những điều mình không hiểu. Penn có nói “Đừng bao giờ khinh dể hoặc chống lại những gì bạn không hiểu”. Trong bản dịch Tân Ước của Kinsley Williams.
Giuđa 10 được dịch là “số người này phát ngôn bừa bãi về mọi điều họ không biết”. Chúng ta phải nhớ hai điều:
(a) Có nhiều cách thức để người ta đến được với Chúa như Tennyson nói “Chúa tự bày tỏ mình theo nhiều cách”. Cervantes cũng bảo “Chúa có nhiều đường lối để đưa những người thuộc về Ngài vào thiên đàng”. Trái đất vốn tròn, hai người bắt đầu đi về hai hướng ngước nhau, cuối cùng vẫn gặp nhau tại một điểm. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến Chúa, nếu chúng ta theo đuổi chúng lâu đủ và dài đủ. Thật là điều đáng sợ nếu có ai nghĩ chỉ có họ độc quyền về ơn cứu rỗi.
(b) Điều cần nhớ là chân lý luôn luôn lớn hơn điều mà bất cứ người nào có thể lãnh hội được. Chẳng hề có ai thâu tóm được toàn thể chân lý. Nền tảng của khoan dung không phải là thái độ lười biếng chấp nhận bất cứ điều gì. Đó không phải là cảm nghĩ cho rằng không thể có được sự bảo đảm ở bất kỳ nơi nào. Nền tảng của thái độ khoan dung chỉ đơn giản là nhận thức được tính cách bao la của quỹ đạo chân lý. John Morley viết “khoan dung là tôn trọng khả năng của chân lý, có nghĩa là thừa nhận chân lý có thể cư trú trong mọi nhà, mặc lấy mọi màu sắc và nói bằng đủ các thứ tiếng lạ. Nó có nghĩa là phải thật lòng tôn trọng quyền tự do của lương tâm ngự trị bên trong, chống lại mọi hình thức máy móc. Nó có nghĩa là tình yêu lớn hơn cả đức tin lẫn hy vọng”. Sự không khoan dung là dấu hiệu của cả kiêu ngạo lẫn dốt nát, nó là dấu hiệu của kẻ tin là không hề có chân lý nào khác ngoài chân lý mình thấy.
2/ Chẳng những phải nhường lại cho mọi người quyền làm theo những gì họ nghĩ, mà chúng ta phải nhường quyền để họ tự phát biểu những điều riêng của họ. Trong tất cả các quyền tự do dân chủ, quyền quan trọng nhất là quyền tự do phát biểu ý kiến. Dĩ nhiên là phải có giới hạn. Nếu có đưa ra những giáo lý được tính toán trước nhằm phá hoại luân lý, lật đổ mọi nền tảng của xã hội văn minh và Kitô giáo, thì kẻ ấy bị chống lại. Nhưng phương pháp để chống lại người ấy chắc chắn không phải là một loại trừ người ấy bằng vũ lực, nhưng bằng cách chứng minh cho người ấy thấy họ đã sai lầm. Voltaire từng quy định quan niệm về tự do ngôn ngữ bằng một câu sống động “tôi ghét điều anh nói, nhưng tôi sẵn sàng chịu chết để anh có quyền được nói ra nó”.
3/ Cuối cùng, chúng ta phải nhớ, mọi giáo lý và mọi quan niệm đức tin đều phải được xét đoán căn cứ vào các hạng người mà nó đã sản sinh ra. Câu hỏi tối hậu phải luôn luôn được nêu lên, không phải là “Giáo Hội được điều hành như thế nào?” nhưng là “Giáo Hội đã sản sinh loại người như thế nào?”. Ngụ ngôn phương Đông có câu chuyện như sau: Người kia có một chiếc nhẫn bích ngọc rất lạ. Hễ ai đeo nhẫn ấy vào thì tính tình trở nên hiền hậu, chân thực khiến mọi người đều yêu mến. Chiếc nhẫn là một thứ phép màu. Nó được truyền từ đời cha sang đời con luôn luôn linh nghiệm. Thời gian trôi qua, chiếc nhẫn được truyền đến một người có ba con trai, mà đứa nào ông cũng yêu quý cả. Khi biết mình sắp chết, ông ta băn khoăn sẽ để lại chiếc nhẫn lại cho đứa nào đây? Ông đã liều thuê thợ bạc làm thêm hai chiếc khác, y hệt như chiếc nhẫn thật, đến nỗi chẳng ai phân biệt được chiếc nào là chiếc thật, chiếc nào là giả. Lúc hấp hối, ông gọi riêng từng đứa con trối trăn riêng với từng người, sau đó ông cho riêng mỗi người một chiếc nhẫn mà người kia không biết. Nhưng về sau, cả ba người đều khám phá ra rằng mỗi người đều được nhẫn, thế là một cuộc tranh cãi dữ dội đã bùng nổ xem ai được chiếc nhẫn có thể đem lại nhiều điều có lợi cho chủ nó. Nội vụ được đưa đến một quan tòa khôn ngoan xét xử. Quan tòa xem xét thật kỹ các chiếc nhẫn rồi nói “ta không biếc chiếc nhẫn nào là chiếc nhẫn thật, nhưng chính các người có thể chứng nghiệm điều đó”. Ba người con ngạc nhiên hỏi “chúng tôi à?”. Quan tòa bảo “phải, và nếu chiếc nhẫn thật tạo cho người đeo nó một bản chất dịu hiền thật bởi đời sống thiện hảo của người ấy. Cho nên, các anh hãy về đi, sống cho tử tế, trung thực, dũng cảm ngay thẳng trong mối liên hệ với mọi người, và ai làm như thế chính là người được chiếc nhẫn thật”. Vấn đề phải chứng nghiệm bằng đời sống. Không ai lên án được một giáo lý đã khiến một người xấu trở nên tốt. Nếu chúng ta nhớ được điều ấy, có thể giảm bớt sự thiếu khoan dung.
4/ Chúng ta có thể ghen ghét niềm tin của một người nhưng đừng bao giờ ghét người ấy. Chúng ta có thể muốn loại bỏ những gì người ấy giảng dạy nhưng đừng bao giờ có ước muốn loại trừ chính người ấy.
THƯỞNG VÀ PHẠT (9,41-42)
Lời giáo huấn trong đoạn này thật đơn sơ, không thể lầm lẫn được, rất bổ ích.
1/ Bất kỳ một việc tốt nào, một sự giúp đỡ nào làm cho người của Chúa, đều không bị mất phần thưởng. Lý do để giúp đỡ là vì người ấy cần được giúp đỡ thuộc về Chúa Giêsu. Mỗi người có nhu cầu đều có thể đòi hỏi chúng ta giúp đỡ, người ấy được Chúa Kitô yêu thương. Nếu Chúa Giêsu còn tại thế, chắc Ngài cũng đã giúp đờ họ cách thực tiễn và bổn phận cứu trợ, giúp đỡ, đã được giao lại cho chúng ta. Cần chú ý là sự trợ giúp rất đơn giản. Của cho có thể chỉ là một ly nước. Không đòi hỏi ta làm những chuyện lớn lao, những việc vượt quá khả năng của ta. Chỉ đòi hỏi ta phải làm những việc mà bất cứ ai cũng có thể làm, cũng có thể cho.
Một giáo sĩ kể lại một câu chuyện sau đây: Bà giáo vừa dậy các học sinh cấp 1 người Phi châu về việc nhân danh Chúa Giêsu cho người ta một chén nước lạnh. Hôm ấy, bà đang ngồi trước nhà, thấy một đám phu khuân vác người bản xứ đi vào làng. Họ vác những kiện hàng thật nặng. Ai nấy đều mỏi mệt, khát nước và ngồi bệt xuống đất để nghỉ ngơi. Họ là người thuộc bộ tộc khác và nếu họ xin nước nơi những thường dân không theo Kitô giáo, sẽ được bảo: hãy tự đi tìm lấy mà uống, vì có một bức tường ngăn cách ở giữa họ. Nhưng đang khi số người mệt mỏi kia ngồi đó và bà đang nhìn họ thì một đám trẻ gái người Phi Châu từ trường học đi ra, mỗi em đội trên đầu một vò nước. Cả bọn rụt rè, sợ sệt tiến đến gần những người khuân vác đang mỏi mệt và quỳ xuống, đưa các vò nước cho họ. Những người khuân vác ngạc nhiên, tiếp lấy rồi uống ngon lành và trả vò lại. Các bé gái vội vàng chạy nhanh đến với bà giáo, và nói “chúng cháu vừa nhân danh Chúa Giêsu cho những người khát uống nước”. Các bé gái đã tiếp nhận lời dạy dỗ ấy theo nghĩa đen của nó. Ước gì cũng có nhiều người làm vậy. Chính những việc làm đơn sơ với tấm lòng tử tế là những việc hết sức cần thiết. Mahomet đã nói “Đặt người lạc lối vào đúng con đường, cho một nguơì khát uống nước, mỉm cười với anh em mình, đó là đức ái”.
2/ Nhưng việc trái lại cũng được nghiệm đúng. Giúp người thì sẽ được phần thưởng đời đời, còn làm cho một anh em yếu đuối hơn vấp phạm là tự chuộc lấy hình phạt đời đời. Phần thưởng rất nghiêm khắc. Tại Palestine có hai loại cối: cối đá xay bằng tay mà phụ nữ dùng trong nhà và loại cối đá lớn đến nỗi phải cột một con lừa mới kéo nổi. Loại cối đá nói ở đây là loại lớn. Bị ném xuống biển với một thớt cối như thế cột vào người, chắc chắn không hy vọng trở về. Thật ra, đây là cách xử tử cả tai Roma lẫn tại Palestine. Sử gia Josephus kể rằng, lúc một số người Galilê thành công trong một cuộc nổi dậy, “họ bắt được những người thuộc đảng Hêrôđê và ném xuống biển hồ”. Suetonius, sử gia Roma kể lại về Augustus rằng “vì ông thầy dạy học và bọn người hầu hạ hoàng tử là Gaius lợi dụng căn bệnh của chủ để lạm quyền và tham nhũng trong tỉnh, nên hoàng đế truyền cột vật nặng vào cổ và ném họ xuống sông”.
Tự mình phạm tội đã là chuyện khủng khiếp rồi, nhưng dạy kẻ khác phạm tội, lại càng tệ hại. O. Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về truyện ngắn đã sáng tác câu chuyện về một bé gái mồ côi mẹ. Cha cô bé có thói quen hễ đi làm về là ngồi ngay xuống ghế mở cặp lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Cô bé vào, xin cha chơi đùa với mình một lát vì em rất cô đơn. Nhưng người cha bảo ông mệt lắm, hãy để cho ông yên. Ông bảo cô bé hãy ra đường mà chơi. Thế là cô đi chơi ngoài đường, và chuyện không tránh được đã xảy ra, cô trở thành người sống ngoài đường phố. Thời gian trôi qua, cô gái chết. Linh hồn cô gái đến thiên đàng. Phêrô trông thấy cô ta liền thưa với Chúa Giêsu “Thưa Thầy, đây là một bé gái gặp số phận xấu. Con nghĩ chúng ta phải đưa thẳng nó xuống hỏa ngục”. Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp “Không, hãy cho nó vào”. Rồi đôi mắt Ngài trở nên nghiêm nghị “Nhưng hãy tìm con người đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của mình, đuổi con ra đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục”. Chúa không nghiêm khắc đối với tội nhân, nhưng Ngài hết sức nghiêm khắc đối với kẻ đã làm cho người khác sa vào tội lỗi, kẻ mà vô tình hay cố ý, đã đặt một tảng đá vấp chân trên lối đi của một người anh em yếu đuối hơn mình.
MỘT MỤC TIÊU ĐÁNG CHO CHÚNG TA HY SINH (9,43-48)
Bằng ngôn ngữ sinh động kiểu phương Đông, đoạn này nêu lên một chân lý căn bản, có một mục tiêu trong cuộc sống đáng cho chúng ta hy sinh bất cứ điều nào để đạt đến. Về phương diện thuộc thể, có lẽ người ta sẵn sàng chịu mất chân, tay hay một phần thân thể nào đó, để được sự sống cho toàn thân. Có những truờng hợp mà phương thế duy nhất để bảo tồn đuợc sự sống cho toàn thể là phải cưa tay, chân, hoặc phải chịu giải phẫu cắt bỏ một phần nào đó trong cơ thể. Về phương diện thuộc linh trường hợp như trên cũng có thể xảy ra.
Các Rabbi người Do Thái cũng có một câu cách ngôn đại ý một vài phần trong thân thể người ta có thể đưa họ đến chỗ phạm tội. “Con mắt và tấm lòng là hai tên mai mối cho người ta phạm tội”. “Con mắt và tấm lòng là hai đứa đầy tớ cho tội lỗi”. Đam mê chỉ ở trọ nơi kẻ có mắt để trông thấy. “Khốn thay cho kẻ nào chạy theo con mắt, vì con mắt vốn dâm tà”. Trong con người, có một số bản năng, một số các chi thể bẩm sinh dễ xui khiến người ta phạm tội. Chúng ta không nên hiểu câu nói này của Chúa Giêsu theo nghĩa đen, nhưng đây là một cách nói hết sức gợi hình theo lối người phương Đông, ngụ ý ở đời, người ta có một mục đích để sẵn sàng vì đó mà hy sinh bất cứ điều gì để đạt được.
Đoạn này nhắc đi nhắc lại nhiều lần về đia ngục. Tân Ước đề cập đến địa ngục trong Matthêu 5,22.29.30; 10,28; 18,9; 23,15.33; Luca 12,5; Giacôbê 3,6, đây là những chữ được dùng để dịch từ Gehenna. Từ này có một lịch sử. Nó là một dạng từ của của từ Hinnom. Hinnom là một thung lũng ở bên ngoài thành Giêrusalem. Nó có một lịch sử xấu xa. Đó là thung lũng mà xưa kia Acha đã lập đền thờ thần lửa và dâng trẻ con làm sinh tế trong lửa. “Người đốt hương trong thung lũng Hinnom và thiêu con cái mình trong lửa” (2Sk 28,3). Manase cũng tiếp tục việc thờ phượng ngoại giáo khủng khiếp này (2Sk 33,6). Do đó, Hinnom, Gehenna, là một cảnh tượng về một trong những lần Israel sa vào các phong tục tập quán khủng khiếp nhất của ngoại giáo. Vào thời phục hưng của Giôsia, nhà vua đã tuyên bố Hinnom là chỗ ô uế. “Người cũng làm ô uế Tôphết tại thung lũng con cái Hinnom hầu cho từ rày về sau, không ai được đưa con trai hay con gái mình qua lửa cho Môlóc” (2V 23,10). Một khi thung lũng ấy đã bị công bố là ô uế, nó bị đặt riêng ra làm nơi đổ rác và đốt rác của thành phố Giêrusalem. Kết quả là nó trở thành một nơi dơ dáy đáng ghê tởm, đầy rác rến giòi bọ, khói và lửa cháy âm ỉ không ngừng giống như một lò thiêu vĩ đại. Câu nói về nơi giòi bọ chẳng hề chết và lửa chẳng hề tắt có xuất xứ từ Israel 66,24, mô tả về số phận kẻ thù gian ác của dân Israel, vì tất cả các lý do trên đây, thung lũng Hinnom, Gehenna, trở thành một loại biểu tượng cho địa ngục, là nơi linh hồn kẻ ác sẽ bị hành hạ, hủy diệt. Nó được dùng như thế trong kinh Talmud “Tội nhân không tuân hành luật lệ, cuối cùng phải xuống địa ngục (gehenna)”. Vậy, địa ngục tượng trưng cho nơi giam phạt, và từ này gợi lên trong tâm trí người Israel những hình ảnh ảm đạm và khủng khiếp nhất.
Nhưng vì mục đích gì mà chúng ta có thể hy sinh mọi sự? Có lần nói về sự sống và một lần vì Nước Trời. Có thể định nghĩa Nước Trời như thế nào? Chúng ta lấy câu định nghĩa cho chúng ta trong Kinh Cầu Nguyện Chung. Kinh cầu nguyện ấy, có hai lời cầu xin đã được đặt bên cạnh nhau “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Một đặc điểm trong ngữ pháp Do Thái, là thể loại song hành. Trong thể loại song hành người ta viết hai câu cạnh nhau, mà câu này nhấn mạnh, bàn rộng, giải thích hoặc khai triển câu kia. Ta có thể lấy bất cứ bài nào trong Thánh Vịnh để minh họa cho phương pháp đó. Vậy, trong Kinh Cầu Nguyện Chung, chúng ta có thể hiểu là lời cầu xin này đã giải thích và bàn rộng, triển khai lời cầu xin kia. Khi xếp hai câu chung với nhau, chúng ta có câu định nghĩa là “Nước Thiên Đàng là một xã hội trần gian, trong đó, ý Chúa được thực hiện trọn vẹn dưới đất cũng như trên trời”. Có thể nói thật đơn giản, người nào hoàn toàn vâng theo ý Chúa là công dân Nước Chúa. Nếu lấy câu đó làm ứng dụng cho đoạn sách chúng ta đang nghiên cứu, nó sẽ có nghĩa là “làm theo ý Cha là điều xứng đáng cho mọi hy sinh, mọi trường hợp khép mình vào kỷ luật, mọi trường hợp từ chối mình”. Chỉ có việc làm theo ý Chúa chúng ta mới có được sự sống đích thực, có được bình an tối hậu, hoàn toàn và mãn nguyện.
Origen đã hiểu ý này theo nghĩa biểu tượng. Ông bảo có lẽ cần phải khai trừ vài kẻ theo tà giáo hoặc vài kẻ gian ác nào đó, không được hiệp thông trong Hội Thánh để giữ thân thể Chúa Kitô được thuần khiết. Nhưng câu này ngụ ý dạy chúng ta phải ứng dụng nó cho chính mình trước nhất. Nó ngụ ý dạy chúng ta cần từ bỏ, khai trừ một thứ xấu, từ bỏ một thú vui, tuyệt giao với một số bạn bè, cắt đứt một điều nào đó vốn rất thiết thân với chúng ta để vâng phục trọn vẹn ý Chúa. Đây không phải là một điều mà bất cứ ai cũng có thể làm đối với người khác. Nó là vấn đề lương tâm mỗi cá nhân, và nó có nghĩa là nếu có bất cứ việc gì ngăn trở chúng ta vâng phục hoàn toàn ý Chúa, thì dù vật hay người ấy vốn rất thân thiết với chúng ta, dù thói quen phong tục tập quán đó đã trở thành một phần của chính đời sống. Thì chúng ta cũng phải nhổ bỏ tận gốc. Việc dứt bỏ đó có thể gây đau đớn như một cuộc giải phẫu, có thể giống như phải chặt bỏ đi một chi thể. Nhưng nếu muốn được sự sống đích thực, hạnh phúc đích thực và bình an đích thực, chúng ta phải quyết tâm thi hành. Câu nói nghe có vẻ lạnh lùng, nghiêm khắc, nhưng thật ra, đó là thái độ phải đối diện với các sự kiện của đời sống.
66. Sống yêu thương hiệp nhất
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Sự gần gũi sẽ ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn mạnh và quyết liệt hơn. Có thể nói con người ảnh hưởng tốt đến người khác và ngược lại. Nói cách khác, nếu không tỉnh táo và ý thức, chúng ta có có thể gây cớ vấp ngã cho người khác khó vượt qua trở ngại trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta cái nhìn về điều đó. Ông Gioan ngăn cản những người không theo “phe” mình, không thuộc nhóm mình. Tưởng mình làm như vậy là điều tốt và có thể sẽ làm cho Chúa Giêsu hài lòng nên ông đem việc này kể công với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9,38). Ông Gioan rất có lý khi ngăn cản những người không cùng hội cùng thuyền với mình mà dám ngang nhiên “trổ tài oanh liệt”. Họ không phải là những người chính uy. Họ không được cấp giấy phép hành nghề. Họ phải ngưng mọi hoạt động. Sao mà có thể chấp nhận hành động của họ được!
Thế nhưng Gioan không ngờ rằng Chúa Giêsu đã sửa lại quan điểm cục bộ, hẹp hòi của ông bằng bài học mới. Chúa Giêsu dạy biết sống cởi mở và quảng đại với mọi người: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9,39–40). Tình thương và ý muốn của Thiên Chúa thì kỳ diệu và tuyệt vời lắm thay! Đường nẻo Chúa làm thay đổi tư tưởng cục bộ và não trạng hẹp hòi của nhân loại. Tình thương Chúa dành cho hết mọi người.
Người môn đệ Chúa Giêsu phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và có thể mời mọi người cộng tác vào những việc hữu ích chung, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu không biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm hay một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt. Có gì tuyệt vời cho bằng chân lý yêu thương của Chúa Giêsu được hết mọi người thuộc mọi tôn giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện. Bất cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào cũng đều được chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào đều được Chúa thưởng công, dù chỉ là một nụ cười tươi, một ly nước lã: “ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41). Ngược lại Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm. Hơn nữa, bản thân chúng ta can đảm dứt khoát nói không với tội ác, sự xấu. Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình nhưng hãy sống chan hoà yêu thương và chia sẻ sự sống, hạnh phúc cho mọi người. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác ngay trong suy nghĩ, thái độ ứng xử và cách thức hành động để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy sống tinh thần yêu thương, vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Hãy sống trong tinh thần hiệp nhất trong Chúa (Ga 17,21).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quảng đại, liên đới với nhau trong yêu thương và hiệp nhất với mọi người. Xin cho tình thương của Chúa được thể hiện trong cuộc đời chúng con và mọi người được biết đến. Xin cho chúng con trở thành khí cụ yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu Chúa. Amen.
67. Nhãn hiệu không cần đăng ký chủ quyền
Trong việc kinh doanh, ai cũng muốn có lợi. làm lợi một cách ngay thẳng do tài khéo, công sức, do chất xám là một việc đáng hoan nghênh. thế nhưng có những người làm lợi một cách phi pháp, làm hàng nhái, hàng giả, hàng dỏm, làm hại người khác thì đáng chê trách và đáng phạt.
Chính vì thế mà các nhà cầm quyền buộc người kinh doanh phải đăng ký bản quyền, đăng ký chất lượng, đăng ký mẫu mã, đăng ký nhãn hiệu sản phẩm… cốt bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và cả nhà sản xuất.
Không biết luật độc quyền kinh doanh này đã có từ bao giờ mà ở đây, chúng ta thấy các tông đồ đã áp dụng luật “nhãn hiệu độc quyền” rồi. Khi thấy người ta nhân danh thầy để trừ quỷ, các ông đã ngăn cấm, không cho phép họ sử dụng danh của thầy mình để làm chuyện đó. Có lẽ các ông lo xa, sợ người ta xử dụng danh Thầy một cách bừa bãi, làm chuyện không tốt nên đã cấm như vậy. Chủ ý tốt, nhưng dường như đã không được Chúa Giêsu tán thưởng. Tại sao?
Việc làm của Chúa Giêsu là việc làm từ thiện giúp người, đó không phải làm việc làm để trục lợi cho cá nhân, mà đã là từ thiện giúp đời thì càng nhiều người làm càng tốt, không nên độc quyền làm gì, như thế sẽ hạn chế hiệu quả, như thế không còn từ thiện thực sự mà ngược lại nhiều khi còn bị rơi vào cám dỗ về danh và lợi. Không ít những cá nhân, những tổ chức lấy danh nghĩa làm từ thiện để được nổi danh, để được ủng hộ, sau đó, trích lại một phần để bỏ túi riêng, chia chác cho nhau. Lúc đầu là làm từ thiện nhưng sau đó đổi lại là thiện từ từ (từ Hán- Việt, thiện có nghĩa là ăn.)
Lý do thứ hai: Chúa Giêsu không sợ bị người ta lợi dụng danh của mình để làm bậy. Bởi vì vàng thật thì không sợ lửa. Nếu như có ai đó giả danh Người để trục lợi, để làm chuyện xấu thì sớm muộn mọi việc cũng được phơi bày, bởi vì Ngài chính là sự thật, sự thật thì không thể bị lẫn lộn với gian trá được, dù cho gian trá có xảo huyệt tới mức nào. Không phải là chúng ta đã từng thấy những kẻ hô hào, khua môi múa mép thay trời hành đạo, nhưng rồi ai cũng thấy rõ đó chỉ là “hàng giả”! chỉ là lường gạt đó sao? Bác ái thật chỉ có ở nơi Chúa, bởi vì Chúa chính là Tình Yêu và những kẻ ở trong tình yêu thì thuộc về Chúa. Những kẻ tâm địa bất chính thì không thuộc về Chúa, dù có che đậy, hóa trang cách cũng không thể giống Chúa được, vậy thì việc gì phải lo sợ người la đội lớp giả danh?
Tóm lại khi bảo các tông đồ không nên cấm người ta nhân danh Chúa để trừ quỷ, Chúa Giêsu đã mở đường, cấp phép cho mọi người được tự do làm việc thiện giúp ích cho đời, đem lại hạnh phúc cho con người. Người cũng thách thức những kẻ có dã tâm muốn mượn danh đội lớp Chúa để làm chuyện xấu, vì không ai có thể mạo danh sự thiện để làm điều ác mà không bị lật tẩy.
68. Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta
(Suy niệm của Phêrô Võ Tá Đương, OP)
Đọc lại lịch sư, ta thấy một thực trạng chung của các dân tộc là thường có tranh dành nhau trong việc làm chính trị. Người ta sẵn sàng làm tất cả mọi sự, kể cả việc thanh toán nhau để chiếm được chức quyền, địa vị và danh vọng. Tham vọng chức quyền là một trong những dục vọng lớn của con người. Nó được cắm rễ sâu vào trong bản tính tự nhiên của con người. Vì thế bất cứ ai cũng có thể bị chức quyền và danh vọng cám dỗ. Trước khi được Đức Ki tô biến đổi, các Tông đồ của Chúa cũng không ngoại lệ trong số đó. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy được phần nào điều đó. Cụ thể là qua sự việc tông đồ Gioan báo với Chúa Giêsu về việc ông đã ngăn cấm một người xa lạ lấy danh Thầy mình mà trừ quỷ. Tại sao vậy? Tin mừng cho thấy rõ lý do ấy, rất đơn giản đó là: “Vì người ấy không theo nhóm chúng ta”.[1]
Chính óc độc quyền phe nhóm và lòng ganh tị đã thúc đẩy tông đồ Gioan hành động như thế. Ông tưởng rằng, mình đã làm được một việc tốt, việc đúng và hữu ích cho nhóm mình để bảo vệ danh tánh thầy mình. Ông hy vọng là Thầy mình sẽ ban lời khen tặng. Thế nhưng không, Chúa Giêsu không ban tặng lời khen ngợi cho Gioan nhưng qua đó, Người đã dạy cho Gioan và các tông đồ một bài học và đưa ra một nguyên tắc để phân biệt: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”[2]
Thái độ và hành động của Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay có lẽ cũng là thái độ của các môn đệ và cả chúng ta nữa. Nó phản ánh một thái độ khép kín, không muốn cho người khác được hưởng ân huệ Thiên Chúa nếu người đó không chịu theo các ông, không thuộc về nhóm các ông. Nói cách khác, các ông tự coi mình là những người thừa kế duy nhất của Chúa Giêsu. Ai muốn hưởng ân huệ của Thiên Chúa thì phải theo các ông hay nhập vào nhóm các ông. Chính vì thế khi thấy một người xa lạ không thuộc nhóm các ông nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ thì các ông đã ngăn cản họ. Đó là một quan niệm sai lầm và ích kỷ. Trước quan niệm sai lầm đo, Chúa Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu về Thầy.”[3] Như vậy, việc trừ quỷ nhân danh Chúa, dù thế nào đi nữa cũng là việc tôn vinh Chúa, vì khi giải thoát cho một người bị quỷ ám là làm một việc tốt, một việc nên làm cho nên không được ngăn cản mà còn phải ủng hộ nữa là khác.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng đã để cho óc độc quyền và lòng ganh tị chi phối như thế, nên đã hạn chế lòng nhiệt thành của người khác, áp đặt ý riêng của mình lên người khác, gây chia rẽ và đánh mất bình an trong gia đình, trong cộng đoàn. Tin mừng hôm nay là lời cảnh giác của Chúa Giêsu đối với tông đồ Gioan, cũng là lời cảnh giác cho mỗi người chúng ta, nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi và ban ơn cho những ai có lòng thiện chí, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền đó, nhưng ơn Chúa thì vô biên, không hạn chế, không dành riêng cho người nào, nhóm nào. Bất cứ ai tin tưởng cầu xin hoặc nhân danh Chúa mà làm việc tốt đều được Chúa nhận lời. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo hội và trong lịch sử nhân loại, không ai có thể sống ngoài quỹ đạo của Ngài. Người ta chỉ có thể chọn lựa hoặc là theo Ngài hoặc là chống lại Ngài. Nhiều người không biết Chúa nhưng họ vẫn theo tiếng lương tâm mà ăn ở ngay lành và làm việc thiện, những người ấy cũng thuộc về Chúa. Trái lại có biết bao người mang danh Kitô hữu, kêu tên Chúa nhưng lại không theo đường lối của Chúa, thậm chí còn dửng dưng trước lời mời gọi của Chúa, vô tâm trước người nghèo khổ, lạnh nhạt với anh em, hờ hững với cuộc sống… thì quả thực những người đó cũng đang chống lại chính Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mình, xem chúng ta đang ủng hộ hay chống đối Chúa? Danh hiệu Kitô hữu của chúng ta có là một thực tại sống động hay chỉ là một tiếng kêu rỗng tuếch? Đức tin của chúng ta có đi đôi với cuộc sống của chúng ta hay không? Ủng hộ Chúa là sống kết hiệp mật thiết với Ngài, thực thi Lời Ngài dạy, sống bác ái yêu thương và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Để thực thi lời Chúa, chúng ta phải có một thái độ dứt khoát với tội lỗi, với những đam mê dục vọng… chấp nhận những hy sinh khổ chế để lướt thắng những cạm bẫy của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Nếu tay chân anh làm dịp cho anh thì hãy chặt nó đi, nếu mắt anh làm nên dịp tội thì hãy móc nó đi”.[4] Nghĩa là chúng ta phải dứt khoát ngay mọi dịp tội, không chần chừ, không khất lần vì những điều đó là cớ làm cho ta vấp phạm, đánh mất sự sống đời đời, mất ơn cứu độ Thiên Chúa ban mà bị đọa đày trong chốn khốn cùng “nơi giòi mọt không hề chết và lửa không hề tắt”.[5]
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết rộng mở cõi lòng mình ra để đón nhận Chúa và mọi ân huệ của Ngài, để rồi chúng con cũng biết sẵn sàng mở rộng con tim của mình ra để tiếp đón những người khác, sẵn sàng chia sẻ với những người xung quanh chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin giúp chúng con dẹp bỏ tính ích kỷ, phe nhóm, sự độc quyền, độc đoán và độc tài để chúng con biết đón nhận nhau, chân thành yêu thương nhau, cộng tác với nhau để cùng nhau xây dựng Nước Chúa, cho danh Chúa được rạng ngời trên khắp hoàn cầu, và để tất cả mọi người được hưởng ơn cứu độ Chúa ban. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam