Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 80

Tổng truy cập: 1365998

ĐỨC GIÊSU GỌI ÔNG SIMON PHÊRÔ

ĐỨC GIÊSU GỌI ÔNG SIMON PHÊRÔ- Lm. Augustine SJ

Chúa quen biết Ông Simon

 Tin Mừng theo thánh Máccô đặt câu chuyện Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên vào ngay buổi đầu sứ vụ của Ngài: Ngài đã gọi bốn anh em Phêrô, Anrê, Gioan và Giacôbê (Mc1,16-20) trước khi Ngài trừ quỉ và chữa bệnh ở Capharnaum (1,21-34). Còn trong Tin Mừng thứ ba, thánh Luca lại muốn đặt việc Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên vào sau một loạt những phép lạ (Lc 4,31-41).

Theo thánh Luca, Đức Giêsu đã hoạt động một mình trong thời gian đầu tiên (Lc 4,14-44). Ngài đã giảng dạy ở Nadarét, ở Capharnaum. Người ta “thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài.” (Lc 4,22). Người ta “kinh ngạc về giáo huấn của Ngài, bởi vì lời Ngài là lời có uy quyền.” (Lc 4,32). Ngài đã quát bảo quỉ ô uế và bắt nó xuất ra (4,35). Ngài cũng đã quát bảo cơn sốt và nó đã lui khỏi bà mẹ vợ của ông Simon (4, 39). Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh nhân khác bằng cách đặt tay (4,40). Thời gian hoạt động đầu tiên của Ngài còn là thời gian dành cho cô tịch và cầu nguyện (4,42). Đức Giêsu ý thức về nhiệm vụ của mình: “Tôi còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì Tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” (4,43). Đức Giêsu không dừng lại ở một nơi nào, Ngài muốn đi khắp nơi trong nước Palestine, và Ngài biết mình cần có những người cộng sự trước cánh đồng mênh mông đó.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cảnh đám đông chen chúc bên Đức Giêsu để nghe Lời Thiên Chúa. Ngài đứng bên bờ hồ. Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ, các ngư phủ đang giặt lưới sau một vụ ra khơi đánh cá. Để dễ giảng cho đám đông, Ngài lên một chiếc thuyền, chiếc của ông Simon. Ngài yêu cầu ông cho thuyền ra xa bờ một chút, rồi từ đó Ngài giảng dạy đám đông. Chúng ta thấy rõ Đức Giêsu đã quen biết ông Simon. Cách Ngài gặp ông trong đoạn Tin Mừng này thật tự nhiên. Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông, chắc Simon đã có lần được nghe Đức Giêsu giảng và thấy một vài phép lạ Ngài làm. Ông có thiện cảm đối với Ngài, và ngược lại Ngài cũng “để ý” đến ông, dù Ngài biết ông đã có gia đình. Chúa gọi những người Chúa đã quen biết qua mối liên hệ trong đời thường. Chính qua những cuộc gặp gỡ trên bước đường rao giảng mà Chúa tìm thấy những cộng sự viên do Cha sai đến. Ơn gọi bắt đầu bằng sự quen biết, bằng tương giao giữa Chúa và tôi, giữa tôi và Chúa.

Chúa thử Ông Simon

 Sau khi giảng xong, Đức Giêsu bảo ông Simon chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simon có thể đưa ra nhiều lý do xác đáng để từ chối lời yêu cầu của Đức Giêsu, “Thưa Thày, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì…” chắc phải chờ hôm khác. Có những ngày chẳng thấy bóng một con cá nào. Kinh nghiệm của dân chài chúng tôi cho thấy có thả lưới nữa cũng vô ích. Vả lại, bây giờ, chúng tôi đã mệt nhoài sau một đêm vất vả. Lưới đã được giặt và đem phơi… Simon có thể nghỉ như vậy và từ chối lời gợi ý của Đức Giêsu. Thậm chí, ông còn có thể nghĩ rằng Thày Giêsu đã đi quá phạm vi của mình. Chuyện bắt cá ở chỗ nước sâu không thuộc về nội dung của bài giảng, cũng không phải là nghề chuyên môn của Thày Giêsu, vốn làm nghề mộc. Có cần phải vâng lời không?

Simon đã vâng lời. Ông đã tin vào lời mời của Đức Giêsu: “Nhưng dựa vào lời Thày, tôi sẽ thả lưới.” Ông thả lưới chỉ vì ông tin vào lời của Thày. Chắc ông đã có một kinh nghiệm nào đó về sức mạnh của lời này: lời giảng đầy uy quyền (4,32), lời đuổi quỷ (4,35), lời có uy quyền và uy lực (4,36), lời chữa bệnh (4,39). Thế nên, giờ đây, Simon sẵn sàng làm một điều, tuy không phải là phi lý, nhưng lại vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm nghề nghiệp, vượt trên cả sự mệt mỏi của thân xác.

Tin vào Lời Chúa đòi hỏi một sự từ bỏ cái lý luận rất vững chắc xét theo kiểu người đời, để sống cái mong manh của Thiên Chúa trong một niềm tin không lay chuyển. Tin vào Lời Chúa đòi ra khơi buông lưới một lần nữa, lúc đã mệt nhoài. Ơn gọi của Simon được lớn lên nhờ đón nhận và vượt qua những thử thách của niềm tin.

Chúa tỏ Mình cho Ông Simon

 Mẻ cá lạ là phương tiện để Đức Giêsu tỏ mình, là sự đáp trả của Ngài trước niềm tin của ông Simon. Nhiều cá đến nỗi hầu như lưới bị rách (c.6), hai thuyền đầy cá gần chìm (c.7). Simon và những người trong thuyền của ông đã phải cầu cứu sự trợ giúp từ thuyền của Gioan và Giacôbê (c.10).

Điều mà tôi đã vất vả tìm kiếm thì không được gì. Bây giờ tôi không phải vất vả tìm kiếm mà lại được dư dật. Dư dật tràn trề là dấu hiệu cho thấy bàn tay quảng đại của Thiên Chúa: rượu đầy 6 chum lớn ở Cana, bánh hoá nhiều còn dư để nuôi dân chúng.

Trước mẻ cá lạ lùng, bất ngờ, vượt quá điều trí khôn có thể nghĩ, Simon thấy ngay mình đang sống trong một bầu khí linh thánh. Ông chợt nhận ra Đức Giêsu trong một ánh sáng rạng ngời, và với ánh sáng đó, ông cũng chợt nhận ra bản thân. “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi.” Xin tránh xa con vì con biết Ngài là ai: Ngài là Đấng có quyền năng của Thiên Chúa. Xin tránh xa con vì con biết con là ai: một tội nhân trước Đấng Thánh của Thiên Chúa.

Trong đời tôi, Chúa cũng có lần cho tôi một kinh nghiệm chói loà, khiến tôi kinh ngạc, ngây ngất. Ngài cho tôi gặp Ngài và gặp bản thân, sau một lần tôi vượt qua chính mình, gạt bỏ những dụ phóng riêng tư, những tính toán khôn khéo, để buông mình sống theo ý Chúa.

Chúa gọi Ông Simon

 Đứng trước việc Chúa tỏ mình, Simon và các bạn của ông cảm thấy run sợ. Họ nhận ra khoảng cách lớn lao giữa bản thân mình với Đấng Thánh. “Đừng sợ”, đó là lời trấn an thường gặp trong Cựu Ước và đặc biệt trong Tin Mừng Luca (1,13.30; 2,10; 5,10; 8,50; 12, 7.32). Sau lời trấn an là lời trao sứ mạng: “Từ nay về sau, con sẽ đi bắt người ta.” Cuộc đời ông Simon như được chia làm hai phần: bắt cá và “bắt” người, ngư phủ và tông đồ. Bây giờ mối quan tâm của ông Simon không phải là cá mà là con người. Một cuộc đời mới đang mở ra trước mắt ông. Ông không thấy rõ con đường mình sắp đi, cũng không thấy có gì bảo đảm cho tương lai. Ông cũng chưa rõ phải giải quyết chuyện gia đình như thế nào. Nhưng phép lạ vừa rồi lại khiến ông vững tâm trước lời mời của Đức Giêsu, lời quyền năng, lời thực hiện những gì đã nói.

Trong niềm tín thác vô bờ vào Thày Giêsu, Simon đã bước một bước quyết định: “Sau khi đưa thuyền vào bờ, họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài.” Bỏ mọi sự, bỏ cả những điều mà mình yêu mến và vẫn còn yêu mến: gia đình, cha mẹ, vợ con, thuyền bè và biển cả. Bỏ vì được cuốn hút bởi một tình yêu lớn hơn. Bỏ là để đi theo một Người và cùng với Người đó phục vụ cho nhiều người.

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay nổi bật lên khuôn mặt ông Simon. Chúng ta nên nhớ ông Simon là một ngư phủ, không có học thức cao và đã lập gia đình. Ông giống như một giáo dân bình thường ở một họ đạo gần vùng biển. Chẳng ai dám nghĩ tới đời ông có thể rẽ sang một hướng mới. Ay thế mà chuyện ấy lại xảy ra cho ông. Ông trở thành Đá Tảng cho toà nhà Hội Thánh. Hội Thánh được xây dựng trên những ông đánh cá ở hồ Galilê, và đã đứng vững suốt 20 thế kỷ. Phép lạ đó lớn gấp ngàn lần phép lạ bắt được nhiều cá. Vậy đoạn Tin Mừng hôm nay không chỉ dành cho linh mục, tu sĩ, mà dành cho mọi giáo dân. Ai cũng phải sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, xuyên qua những biến cố bình thường hay lạ lùng của cuộc sống hàng ngày. Ai cũng phải vui lòng để Chúa đưa mình đi vào hướng mới, khác với những lối mòn quen thuộc. Và nhất là ai cũng phải mau mắn bỏ mọi sự mà theo Chúa. Bỏ mọi sự chính là đặt mọi sự dưới Chúa và sử dụng mọi sự trong Chúa.

Một số câu hỏi gợi ý

*1.Vâng theo Lời Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả bất ngờ. Có khi nào trong đời bạn, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của ông Simon không?

*2.Theo ý bạn, bỏ mọi sự như ông Simon có khó không? Điều gì đối với bạn là khó bỏ hơn cả?

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- NĂM C

ĐÀO TẠO TÔNG ĐỒ- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt

Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phê-rô và các bạn được chứng kiến. Đây không phải chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giê-su còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giê-su đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phê-rô, người đứng đầu các môn đệ.  Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.

Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phê-rô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giê-su lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phê-rô đã gặp thất bại. Chúa Giê-su muốn Phê-rô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giê-su muốn Phê-rô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giê-su muốn gửi đến các môn đệ của Người.

Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình ra cho Mô-sê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phao-lô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa-mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phê-rô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phê-rô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phê-rô vội quì xuống xin Chúa rời xa. Phê-rô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là  để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.

Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phê-rô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giê-su bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phê-rô là người miền biển trong khi Chúa Giê-su là người miền núi. Phê-rô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giê-su chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giê-su bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phê-rô đã vâng lời tuyệt đối. Phê-rô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.

Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.

Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả : gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.

Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm.  Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.

Mỗi người đang được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.

Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1-Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không ?

2- Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không ?

3- Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa ?

4-Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không ?

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- NĂM C

ĐƯỢC GỌI CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ

Các bài đọc trong thánh lễ Chúa Nhật hôm nay đều đề cập đến ơn gọi. Tiên tri Isaia đã được thấy Thiên Chúa và cảm nhận thân phận nhơ uế của mình. Thiên Chúa đã xá tội bằng thanh tẩy đôi môi nhơ uế của Ysaya với than hồng nơi bàn thờ. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Isaia đã lên tiếng đáp lời: “Dạ, con đây, xin hãy sai con”. Thiên Chúa cần con người, và Isaia đã sẵn sàng đáp trả.

Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô trở nên thợ lưới người sau khi Phêrô nhận ra mình tội lỗi bất xứng ở bên Đức Giêsu: “Lạy thầy, xin xa tôi ra vì tôi là kẻ tội lỗi”: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới người”. Chèo thuyền vào bờ, Phêrô và các bạn đã bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu. Phêrô và các bạn đã quảng đại bỏ tất cả để theo Đức Giêsu.

Phaolô đã từng giữ áo cho những người Do Thái ném đá Stephen (Cv.7, 58); ông cũng tán thành việc giết Stephen (Cv.8, 1). Tuy nhiên, trên đường đi Đamas để bắt các Kitô hữu đem về Giêrusalem trị tội, Phaolô đã được ơn trở lại. Từ đó, Phaolô là khí cụ đặc biệt Thiên Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô: “Thưa anh em, trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta… Người đã trỗi dậy và đã hiện ra với Kêpha và với nhóm mười hai” (1Cr. 15, 3-5).

Cả ba người được gọi trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay đều đã là tội nhân hoặc đã ý thức mình là tội nhân. Chính Thiên Chúa đã tha thứ tội cho họ, và gọi họ cộng tác với Ngài. Được Thiên Chúa mời gọi cộng tác, là vinh dự đặc biệt cho những ai đã từng phạm tội chống cưỡng Ngài. Và rồi ngay cả khi đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa mà vẫn còn vấp ngã, thì Thiên Chúa vẫn tiếp tục trung thành mời gọi con người vươn lên. Điều này cũng đúng đối với các người theo Chúa, đặc biệt như các tông đồ. Dù đã là môn đệ, Phêrô cũng có lúc chối Thầy (Mc.14, 71), và có lúc chưa can đảm sống như mình phải sống (Gl.2, 11-14). Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi những người Ngài mời gọi, cho du họ giới hạn khiếm khuyết. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn yêu thương và liên lỉ mời gọi con người cho dù họ bất trung.

Kitô hữu cũng là những người đã được Thiên Chúa mời gọi. Ngài mời gọi con người hãy sống như con cái Thiên Chúa, trở thành tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy yêu thương mọi người, để mỗi người cảm được Thiên Chúa yêu thương qua những người sống xung quanh mình.

Người đời thường tìm tiền tài, danh vọng, địa vị. Thiên Chúa mời gọi con người trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Bao nhiêu người nghèo cần sự giúp đỡ của người khác. Ngày nay Thiên Chúa không làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng Ngài mong những người nghèo hôm nay nhận được tấm bánh từ tay anh chị em mình. Những ân nhân của người nghèo thực sự là đại diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa cho họ ăn và giúp họ những gì họ cần thiết qua trung gian những ân nhân này. Thiên Chúa hiện diện với tôi qua anh chị em. Phần tôi, tôi được mời gọi để trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho người khác.

Nhiều người tưởng rằng tiền của, địa vị, danh vọng chức quyền, sự thỏa mãn về thể xác làm cho người ta hạnh phúc, nên họ đã đi tìm những điều đó. Nhưng nếu biết quan sát và nhận định, họ sẽ thấy tiền bạc, danh vọng chức quyền địa vị, thỏa mãn vật chất, không làm con người được hạnh phúc đích thực. Chính khi giúp đỡ tha nhân, khi yêu thương vượt qua chính mình, khi hy sinh để giúp đỡ người khác, con người tìm được hạnh phúc thực. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng về điều này. Phục vụ làm con người hạnh phúc.

Kitô hữu được mời gọi để làm vua. Không nô lệ vật chất, làm chủ, tự do với tất cả để chỉ có Thiên Chúa là nhất đối với mình; đó là nét vua mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người. Ai thua thì bị làm nô lệ. Thiên Chúa không muốn con người nô lệ cho xác thịt, cho vật chất; Ngài mời gọi con người vượt lên, chiến thắng, làm chủ làm vua. Thiên Chúa mời gọi con người trở nên người tự do thật sự.

Kitô hữu được mời gọi để trở thành tiên tri. Tiên tri là người của Thiên Chúa, người nói nhân danh Thiên Chúa cho con người hôm nay. Nói cho người khác biết Đức Giêsu đã phục sinh, Ngài là người của Thiên Chúa, Ngài thuộc về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Một khi con người nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng và chính yếu bắng chính cuộc sống của mình. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh bằng niềm tin và cách sống thấm nhuần đức tin của mình. Kitô hữu không phải là người không cảm thấy những khó khăn trong cuộc sống, cũng không phải là người không bị cám dỗ; Kitô hữu là người chia sẻ thân phận con người như bất cứ ai khác, nhưng vẫn có thái độ và cách hành xử khác với những người có lối sống không theo Tin Mừng. Kitô hữu được mời gọi sống vui và phó thác trong mọi hoàn cảnh vì họ biết Thiên Chúa yêu thương họ, và thế gian này không có giá trị tuyệt đối.

Kitô hữu được mời gọi để trở thành tư tế của Thiên Chúa, người đại diện con người tôn thờ Thiên Chúa. Cầu nguyện, dâng chính con người mình lên Thiên Chúa, là thái độ tôn thờ Thiên Chúa đích thực. Cầu nguyện phải là chính sức sống và hạnh phúc của con người. Được đại diện con người dâng lên Thiên Chúa lễ tế là chính con người mình, là một hạnh phúc của Kitô hữu. Chính khi kết hiệp với Thiên Chúa, con người được hạnh phúc đích thực.

Thiên Chúa mời gọi con người, đặc biệt là Kitô hữu, làm cho thế giới này vui hơn tươi hơn đẹp hơn, làm cho con người ngày hôm nay tin tưởng vào nhau hơn, sống vui và hạnh phúc với nhau hơn. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Xin cho Kitô hữu ý thức sứ mạng của mình, và cảm nghiệm hạnh phúc khi thực hiện sứ mạng này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

Theo bạn, nơi con người Đức Giêsu có gì đặc biệt không? Ơn gọi của Đức Giêsu là gì? Sứ mạng của Đức Giêsu là gì?

Thiên Chúa có mời gọi bạn đặc biệt điều gì không? Thiên Chúa muốn bạn sống như thế nào? Thiên Chúa mời gọi bạn làm gì cho Thiên Chúa và con người ngày nay?  

home Mục lục Lưu trữ