Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 26
Tổng truy cập: 1373790
ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH
Sau khi giải tán đám đông Đức Kitô sai các môn đệ xuống thuyền qua bên kia còn Ngài ở lại một mình cầu nguyện. Khoảng gần sáng Ngài đi trên mặt nước đến với các ông. Các tông đồ vất vả chèo chống, đương đầu với sóng to, gió cả, vất vả đến đứt hơi. Giữa biển sóng chập trùng sao như có bóng người đang đi trên sóng, vững vàng như đi trên đất bằng. Có mơ không, có mệt quá nhìn cá hoá sóng, hay phần hồn át phần xác? Xoa mặt, dụi mắt nhìn vẫn thấy hình ảnh đó. Rõ ràng bóng người đang đi đến, mỗi lúc một gần hơn. Đã sợ còn sợ hơn. Bỗng nhiên bóng đó lên tiếng trấn an, dù gió lớn nhưng nghe giọng rất quen thuộc. Dẫu thế lúc hoảng hốt vẫn không nhận rõ giọng của ai: Đừng sợ, Thầy đây. Phêrô, nửa tin, nửa ngờ, lấy hết can đảm lên tiếng nếu là Thầy xin cho con đến với Thầy. Phêrô bước ra khỏi thuyền, lạ thay, sóng gió thế mà ông bước trên đầu sóng, bình yên,đến cùng Thầy . Cái cảm giác lâng lâng đang diễn ra bỗng thấy con sóng khổng lồ ập đến che khuất Thầy, Phêrô đâm hoảng vội la lớn xin Thầy cứu. Đức Kitô nắm tay ông dẫn đi trên sóng cả. Cả hai vào thuyền an toàn. Đức Kitô nhẹ nhàng nhắc Phêrô hãy tin vào sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa. Bão táp, sóng cả, biển gầm sóng vỗ đều qui phục quyền năngThiên Chúa.
Để được cùng đồng hành với Đức Kitô cần đặt trọn tin tưởng vào Ngài. Ngài là người bạn đường, luôn sóng vai, kề bên, mặc dù không nhìn thấy, nhưng Ngài luôn cùng đồng hành với ta khi an vui cũng như khi hoạn nạn. Ta không thấy Ngài nhưng Ngài thấy ta và cùng đi với ta trên đường đời. Mỗi bước chân ta bước đều có bước chân Ngài bước theo nhưng ta không thấy, không nhận biết bởi Ngài luôn theo sát ta như bóng với hình giữa trưa ánh sáng chan hoà. Bởi không thấy Ngài nên khi gặp hoạn nạn ta hay bối rối quên có Ngài hiện diện. Bởi quên và bối rối nên ta không tìm nương tựa nơi Ngài nhưng lại tin vào những gì nhìn thấy, sờ chạm được vì thế nỗi sợ càng tăng, cô đơn càng đặm và thất vọng chập trùng. Phêrô nơi biển khơi, sóng cả đã có kinh nghiệm đó. May mắn cho Phêrô ông đã lên tiếng kêu cầu và đã nhìn thấy bàn tay Thầy dơ ra cho ông nắm lấy. Bao lần trên đời ta cũng kêu cầu, bàn tay Thầy cũng dơ ra cho ta nắm nhưng ta lại không nhận ra bàn tay thần diệu đó, lại đi nắm bàn tay nhân loại và đặt hi vọng vào bàn tay giới hạn của con người nên vấn nạn đã không được giải quyết thấu đáo mà nhiều khi còn gây phức tạp hơn. Cũng là bàn tay nhưng bàn tay Thầy có thần lực giải quyết mọi khó khăn, trong khi đó bàn tay con người bị tiền tài giới hạn thường làm hỏng chuyện lớn. Bao lần trong đời Thiên Chúa đã ban cho ta nhiều ngạc nhiên. Ngạc nhiên đến độ không ngờ và cũng không ai đoán được. Vì thế khi gặp hoạn nạn, gian nan hãy làm sống lại những ngạc nhiên đó, hãy nhớ lại những lần Thầy cùng đồng hành với ta để chạy đến với Thầy, nắm chặt tay Thầy để được kéo lên thuyền an toàn.
Cuộc sống không thể tránh khỏi bão tố trong đời. Khi bão tố đến đừng tự một mình chống đỡ, đừng đặt trọn niềm tin vào bàn tay thế nhân. Nhờ họ giúp sức, an ủi nhưng cần đặt trọn niềm tin vào lòng Chúa xót thương bởi Ngài không bỏ rơi ta bao giờ. Phêrô trong cơn gió bão đã tự tin vào sức mình và đã bị chìm đắm trong khi bạn ông trên thuyền dù thương tiếc nhưng bất lực. May mắn cho Phêrô trong lúc nguy nan ông nhớ đến và xin Thầy kéo khỏi hố sâu bão táp. Thầy không bao giờ ngờ vực ta chỉ có ta ngờ vực Thầy. Thầy luôn đồng hành với ta và luôn trung tín trong lời Thầy hứa. Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế.
Sóng gió cuộc đời nhiều khi to lớn đến độ che phủ cái nhìn của ta, làm ta lầm tưởng tin là sóng gió cuộc đời mãnh liệt đến độ không gì ngăn cản được. Không phải thế, tình yêu và lòng Chúa xót thương lớn hơn sóng to, gió cả, mạnh hơn bão tố có sức tiêu diệt lửa rừng, thác lũ. Khi cứu Phêrô ra khỏi cơn sóng Đức Kitô cũng mời gọi chúng ta hãy vượt qua sóng to, bão tố. bước qua lửa đến với Chúa. Chỉ cần chúng ta dám nhích chân bước tới Thầy sẽ cứu chúng ta khỏi cơn nguy biến. Nhích chân bước đến với Thầy chính là hành động của lòng tin và hành động của lòng tin giúp đức tin triển nở, lớn lên trong tình yêu Thầy.
Dân miền quê ai cũng có kinh nghiệm lội nước. Trong thời kì chiến tranh người ta dùng từ ‘xe lội nước’ để chỉ xe thiết giáp, đi trên khô cũng được mà lội nước cũng được. Tôi muốn nói về trường hợp người không bơi lội trong nước mà đi bằng hai chân hẳn hoi. Lội nước rất gần với đi mà không thấy đường bởi nước không sâu lắm nhưng nước đục che mất tầm nhìn. Ngay cả trường hợp nhìn thấy cũng không chính xác vì nước như lớp kiếng dầy, thay đổi nhãn quang. Đi trong nước là đi trong mò mẫm, dự đoán, phỏng chừng để bước tới. Nếu có hụt hẫng toàn thân chìm sâu vào nước lúc đó phải tận dụng đến bơi lội. Có khi bước vào chỗ trũng toàn thân xiêu nghiêng ngả như người say rượu. Lội nước luôn tiến tới mà không bao giờ đi giật lùi. Lội một mình cần cẩn trọng hơn vì khi gặp nguy không có ai cứu mà tự mình xoay xở thoát hiểm. Người lội nước thường phó mặc cho may rủi. Ai biết dưới sâu kia có miểng chai, cành gai, khúc cây, vỏ tôm, xương cá. Đạp trúng là máu hoà trong nước. Nhiều khi không biết, tối đến thấy đau mới biết bàn chân bị xẻ lúc nào.
Khi biết được người đi trên mặt biển ban đêm là Thầy. Thánh Phêrô mừng lắm, xin Thầy Kitô cho lội nước để đến với Thầy vì lòng mến, vì khát khao được là người trước hết đến với Thầy. Lời yêu cầu được chấp thuận Phêrô nhảy tòm xuống biển, thế mà người không chìm, ông bắt đầu bước đi, được bao xa không rõ, thấy cơn sóng lớn ập đến, Phêrô đâm hoảng, cơn sóng dường như lớn mạnh che phủ, lấn át che khuất tầm nhìn của Phêrô. Trong khoảng khắc ngăn cách ngắn ngủi không nhìn thấy Thầy. Phêrô hoảng sợ, bối rối hoảng hốt, la lớn,
Lậy Thầy, xin cứu con
Đức Kitô đã giơ tay cứu Phêrô. Ngài mắng yêu,
Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?
Hình ảnh Phêrô bước đi trên sóng nước cũng là hình ảnh của mỗi người trong chúng ta bước đi trong sóng nước cuộc đời. Phêrô thực sự chìm sâu trong nước hay con sóng lớn bao bọc che phủ thân hình ông. Điều chắc chắn là Phêrô chưa sặc nước, ông còn đủ tỉnh táo bám víu lấy Thầy. Cuộc đời mỗi chúng ta cũng nhiều khi tưởng ngập chìm trong đau khổ nhưng thực ra đau khổ chỉ bao bọc thân ta, vây quanh như bức tường tù hãm khiến ta cảm thấy mình ngụp lặn trong khổ đau. Những lúc như thế hãy cố nhớ lại việc làm của Phêrô. Lậy Thầy, xin cứu con. Cũng hãy nhớ lại lời Chúa nói cùng Phêrô. Người hèn tin, sao mà nghi ngờ. Quả thế vì yếu tin, vì kém lòng mến cho nên nghi ngờ tình yêu Chúa là điều không thể tránh. Biến cố xảy đến trong đời cách nào đó giúp chúng ta nhận biết tình yêu ta dành cho Chúa mạnh yếu, nhiều ít. Biến cố là thước đo đức tin vào Chúa.
Qua màn đêm, Phêrô nhận ra hình bóng người lướt trên sóng nước. Ông không nhìn rõ đó là hình bóng nào. Mãi cho đến khi Đức Kitô lên tiếng ông mới nhận ra đó là Thầy. Bao lần trong đời chúng ta bỏ qua, làm lơ hình bóng chập chờn, mập mờ trong đầu, nhất là những hình bóng khuyên chúng ta làm việc lành, ngăn cản chúng ta làm sự dữ. Những hình bóng đó như giấc mộng, giấc chiêm bao, không rõ nét nhưng khá thật và khá mạnh bạo. Phải chăng đó cũng là hình ảnh Chúa lúc ẩn, lúc hiện trong cuộc sống mỗi người chúng ta. Đi theo Chúa cũng phải mò mẫm, cũng dò dẫm từng bước để tiến tới. Điều may mắn nếu có vấp ngã Chúa không bắt lỗi nhưng sẵn sàng tha thứ và đến nắm tay trợ giúp.
Chúa đến một cách thanh thiên bạch nhật nhưng hình ảnh Ngài lại mờ ảo. Vì sao? Thưa sóng gió cuộc đời che lấp tầm nhìn. Thưa sóng nước cuộc đời bủa quanh khiến ta lo sợ trong cô đơn. Thưa vì ý định ta đã quyết, định trước cho nên ta từ chối tất cả các ý định khác. Tiếng lương tâm rõ ràng, quyết liệt nhưng không cuỡng bức. Vì sao? Vì Chúa ban cho ta tự do và tôn trọng quyền tự do cá nhân mỗi người. Ngài không định thay ta hay cưỡng ép ta theo ý Ngài. Ta hoàn toàn tự do quyết định và chịu trách nhiệm về hậu quả quyết định ta chọn.
Tiên tri Elia diễn tả sự hiện diện của Chúa trong đời bằng hình ảnh rất dễ thương. Thiên Chúa phán cùng ông hãy đứng trên đỉnh núi đón Chúa đi ngang. Cơn gió mạnh đi qua, cơn bão táp thổi đến, động đất tiếp theo, lửa cháy ào ào. Elia chờ đón mãi mới gặp Ngài trong cơn gió hiêu hiêu thổi. Chúa đến trong đời ta cũng nhẹ nhàng như thế. lời Ngài ban sự sống, đầy sinh động cũng đến nhẹ nhàng như gió thoảng. Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết nhận ra Chúa trong những hình ảnh, hoàn cảnh khác nhau trong đời.
Nhà văn Mark Twain cùng đi với vợ viếng thăm Đất Thánh. Họ đến Capharnaum, nơi Chúa Giêsu khởi sự đời sống mục vụ công khai và trải qua nhiều biến cố quan trọng ở đây. Thị trấn nằm trên bờ biển Galilêa. Vào một đêm trăng, hai vợ chồng bước đi dọc theo bờ biển và quyết định mướn một chiếc thuyền chèo ra biển hóng gió. Mark Twain hỏi một người đàn ông đang ngồi trên thuyền phải trả bao nhiêu tiền để đưa họ ra biển. Mark Twain thường mặc bộ com-plê trắng, giầy trắng và đội mũ cao bồi rộng vành của người Texas. Với phong cách và kiểu ăn mặc như vậy, người chủ thuyền nghĩ Mark Twain phải là một người Mỹ giàu sang nên ra giá 25 đôla cho một chuyến du thuyền. Nghe vậy, Mark Twain đành cám ơn ông chủ thuyền rồi bỏ đi. Đi được vài bước ông quay sang nói với vợ: “Bây giờ tôi mới biết tại sao Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước!” Có phải ý ông muốn nói vì đi thuyền đắt quá, Chúa Giêsu không có tiền, nên phải bước đi trên mặt nước không?
Mark Twain đã nghĩ ra một cách cắt nghĩa khôi hài về phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên biển trong bài Phúc Âm hôm nay. Một sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của câu chuyện Chúa Giêsu bước đi trên biển, ắt phải nói về con người Chúa Giêsu là ai, về Giáo Hội và về đời sống đức tin của mỗi người Kitô hữu.
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước biển, kết hợp với câu chuyện hóa bánh ra nhiều trong bài Phúc Âm tuần trước, chứng tỏ rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Ngài có quyền hành trên tất cả mọi sức mạnh tự nhiên và siêu nhiên.
Người Do Thái tin tưởng rằng biển cả thuộc lãnh vực của các quyền lực ma quỉ siêu nhiên, chẳng hạn bọn quỉ nhập vào bầy heo, rồi lao xuống biển (Mt 8,32). Một trận cuồng phong bão tố ở biển khơi được coi là công việc của những thần thù nghịch. Bằng việc bước đi trên những ngọn sóng thần hung dữ và làm yên lặng biển động, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng có quyền lực và hoàn toàn làm chủ trên những sức mạnh thù nghịch này.
Rất nhiều người Kitô hữu thờ lạy Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần, ma quỉ, và có khi lại còn tin vào bùa ngải nữa. Phúc Âm hôm nay mang lại cho chúng ta một niềm tin tưởng rằng những quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa Giêsu đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta.
Con tàu trên đại dương là một trong những biểu tượng của Giáo Hội mà những người Kitô hữu tiên khởi đã sử dụng để ám chỉ cuộc hành trình đức tin trên trần gian. Giống như con tàu nghiêng ngả trên sóng nước, Giáo Hội cũng bị tấn công từ mọi phía bởi những quyền lực trần gian như thánh Augustinô đã nói: “Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa”. Ở giữa những khủng hoảng, Chúa Giêsu đến mang lại sự bình an và hòa khí êm dịu trong Giáo Hội. Thế nhưng, Ngài lại đến dưới một hình thức và cách thế làm nhiều người Kitô hữu sợ hãi và la lên: “Ma kìa!” Họ muốn Ngài tránh xa khỏi họ. Nếu biết lắng nghe, trong bão tố chúng ta sẽ nhận ra tiếng Ngài thì thầm trong gió: “Hãy an tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Ngài hứa, sự hiện diện của Ngài sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn loài, vì thế Ngài có toàn quyền trên thiên nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để chúng ta quả quyết điều trên: Chúa đi trên mặt biển nổi sóng và gió yên lặng ngay khi có lệnh của Ngài hoặc khi có sự hiện diện của Ngài. Hoàn cảnh của phép lạ: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn suy tôn Chúa làm vua, nhưng Chúa thì không đồng tình như vậy, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền ra khơi đi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ, Ngài giải tán dân chúng rồi một mình lên núi cầu nguyện. Các môn đệ ra đi được khoảng vài cây số thì gặp sóng to gió lớn. Thánh Luca ghi lại: gió ngược thổi mạnh dữ dội, thánh Matthêu cho biết: lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào khoảng ba giờ sáng, như vậy lúc đó các môn đệ đã rất mệt mỏi sau mấy tiếng đồng hồ chèo chống. Giữa lúc ấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, hình như Ngài muốn đi ngang qua các ông. Vừa mệt mỏi, vừa đêm tối, các môn đệ thấy có bóng người đi trên mặt biển, tưởng là ma quái hiện hình, nên hoảng sợ, nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng Chúa: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Qua bài Tin Mừng này, chúng ta ghi nhận được ba bài học: Bài học thứ nhất, việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa. Đối với Chúa, việc này không có gì là khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngài quyền phép vô cùng. Chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Ngài đi trên sóng nước không có gì là phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy được chứng kiến tận mắt và ghi nhận sự kiện tỏ tường Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng, truyền cho chúng yên lặng. Vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: Chúng ta phải tin Chúa Giêsu tuyệt đối và thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống theo những lời Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê nói: đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Bài học thứ hai, đang khi các môn đệ gặp bão táp, sóng gió thì Chúa xuất hiện để cứu giúp ho. Trong khoảnh khắc mọi sự đều thay đổi vì có Chúa. Điều này cho chúng ta biết: Ở đâu có Chúa là có bình an. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có giông tố bão táp, có thử thách khó khăn, nhưng chúng ta đừng bao giờ thất vọng nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, Chúa ở xa chúng ta hay không để ý gì đến chúng ta. Không, Chúa luôn ở với chúng ta, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Chúng ta có thể nói: trong những giờ phút khó khăn, nguy hiểm, khổ đau, chẳng những Chúa đi bên cạnh chúng ta, mà Chúa còn bồng bế chúng ta trên cánh tay toàn năng của Ngài.
Bài học thứ ba, thánh Phêrô thấy Chúa đi trên sóng nước ngon lành nên đã phản ứng khá mau lẹ, có thể nói quá vội vàng trước khi kịp suy nghĩ, là xin Chúa cho ông cũng đi trên sóng nước như Chúa. Chúa bằng lòng ngay, nhưng vì yếu lòng tin, lo sợ nên Phêrô đã bị chìm xuống. Ông lại vội vàng kêu xin Chúa và Chúa cũng cứu giúp ngay. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: một quyết định hay một hành động vội vàng thường dễ sai lầm và gặp khó khăn. Vì thế, cần suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định một điều gì hay làm một việc gì, cần phải xác định được nên làm hay không nên làm và làm lúc nào. Đó là hai vấn đề: chúng ta phải cầu nguyện nhiều trước khi làm, một khi đã làm thì làm cho đến nơi đến chốn. Nếu chẳng may thất bại thì cố gắng làm lại, đừng chán nản thất vọng. Thánh Phêrô đã làm như thế: đã tin cậy Chúa, rồi càng yêu mến Chúa hơn trước và được Chúa tín nhiệm nhiều hơn.
Chi tiết hay
Thánh Matthêu chỉ kể hai lần về việc Chúa cầu nguyện, trong đoạn này và trong vườn cây dầu (Mt 26, 36..). Đối với dân vùng Địa Trung Hải, cầu nguyện là “liên lạc với đấng nắm sự hiện hữu của mình. Cầu cho một kết quả nào đó” [Pilch]. Trong đoạn này, kết quả là Chúa Cha đáp ứng lời nguyện của Chúa Con là cho sóng lặng.
Đức tin còn có nghĩa là trung thành. Phêrô vì sợ hãi mà sao lãng việc trung thành với Chúa, nên bị chìm (c. 30). Lời khẩn cầu của ông: “Thưa Ngài, xin cứu con với” cũng là lời cầu trong Mt 8, 25 và Thánh Vịnh 69.
“Kém tin” (c.31) là tình cảnh của Phêrô cũng như của đa số các tông đồ và tín hữu khác. Chúng ta tin Ngài là Chúa, nhưng đôi khi cũng hoài nghi. Có trung thành, nhưng không phải trong mọi lúc. Tuy nhiên những kẻ yếu tin vẫn còn hy vọng vì “Đức Giêsu đưa tay ra” cứu giúp.
Một điểm chính
Chúa Giêsu là Thiên Chúa
“Chính Thầy đây” (c. 27) có thể được dịch chính xác hơn thành “Ta đây”, là cách mà Chúa tỏ thiên tính trong Cựu Ước (Is 41, 4 và 43, 10). Đi trên sóng biển cũng là dấu chỉ Thiên Chúa, như trong Job 9, 8 có câu “Mình Ngài là đấng trải ra các tầng trời và đạp chân trên sóng biển”. (Có thể xem thêm Ex 14, 13-31, Ps 77, 20, Is 43, 16, Hab 3, 15). Thấy quyền năng Ngài, dân chúng bái lạy và nói: “Ngài là Con Thiên Chúa” (c.33).
Suy Niệm
Đức tin của tôi lớn tới độ nào? Tôi có kinh nghiệm gì trong cuộc sống để tuyên xưng rằng “Ngài là con Thiên Chúa”?
Đời tôi đã gặp những sóng gió nào? Có làm tôi sao lãng việc trung thành với Chúa không? Hiện giờ tôi đang sợ những sóng gió nào?
Than thở cùng Chúa, “Thưa Ngài, xin cứu con với”. Chúa trả lời ra sao?
“Đấng Cứu Thế? — Ai Cần Đấng Cứu Thế?” chính là tựa đề của một chương trong cuốn “Những Dụ Ngôn của Peanuts”. Chương bao gồm những mảnh hoạt họa mà trong đó Linus và Lucy đang theo dõi một em bé đang bò trên sàn nhà. “Mày nghĩ coi còn bao lâu nữa thì Sally mới biết đi?” Linus hỏi. “Lạy Chúa tôi!” Lucy nói, “vội vàng làm gì? Cứ để nó bò vòng vòng một thời gian nữa! Đừng thúc nó làm gì! Nó còn có nhiều ngày giờ mà.” Lucy ngừng để suy tư trong giây lát. Rồi cô nói: “Một khi mà mày đứng dậy, và khởi đầu bước đi, thì mày đã phải cam kết cho đến chết!”
Hành động trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay khởi đầu liền ngay sau khi Chúa Giêsu đã nuôi 5 ngàn ăn no nê qua phép lạ hóa mấy chiếc bánh và mấy con cá ra nhiều. Giờ đây, Chúa Giêsu nói các môn đệ hãy xuống thuyền trước Ngài sang bên kia bờ hồ Galilê. Thế nhưng sóng gió nổi lên trong khi họ vượt hồ. Rồi họ thấy một hình bóng đang đi trên mặt nước. Đấy chính là Chúa Giêsu, đang tiến đến để giúp họ. Các môn đệ thì đang khiếp sợ. Mặc dầu họ mới được chứng kiến “Phép Lạ của Bánh và Cá” của Chúa Giêsu, đức tin chưa hoàn toàn cam kết và ngay cả trí óc nhỏ nhen hẹp hòi sẽ không thừa nhận trình trạng có thể rằng Chúa Giêsu có thể làm được việc này. Đi trên mặt nước? Họ nói: “Ma đấy!” và họ “hoảng hốt la lên.” Ngay cả sau khi Chúa Giêsu trấn tĩnh sự sợ hãi của họ, thế mà đức tin của Phêrô vẫn còn quá nhỏ nhen. Chúa Giêsu ra lệnh cho ông đi trên mặt nước. “Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống đi trên mặt nước mà đến với Chúa Giêsu”, Matthêu nói với chúng ta. Thế nhưng ngay khi ông cảm thấy sóng gió nổi lên, ông đã run sợ và cảm thấy mình bị chìm xuống. “Thầy ơi, xin hãy cứu con,” ông la lên (Mt 14, 30). Ông bị chìm xuống bởi vì ông từ chối tin rằng Chúa Giêsu có quyền tạo dựng các kinh nghiệm ngoại thường này trong cuộc sống của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô thôi “bò quanh” với đức tin của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô đứng dậy trong đức tin, và tập đi. Chúa Giêsu muốn Phêrô hoàn toàn cam kết với Ngài, trong đức tin, cho đến chết!
Có nhiều lúc khi mà nỗ lực của bạn để làm việc đúng, làm tốt bất kể việc gì mà bạn được kêu gọi để thi hành, dù khó khăn và thất vọng như là đi trên mặt nước: cố là người cha hay người mẹ tốt; cố làm cho cha mẹ hiểu mình; cố không giữ lòng thù hằn; cố loại trừ đi những tập tục xấu; cố không uống miếng rượu đầu tiên đấy hay hút điếu thuốc đầu tiên đấy; cố tiếp tục kiêng cữ ăn uống cần thiết; cố chấm dứt sự cô đơn và buồn rầu sau khi mất đi người thân yêu. Đấy giống như cố đi trên mặt nước vậy. Bạn cảm thấy không có gì vững chắc dưới chân cả. Bạn có cảm giác khủng khiếp như bị hút vào hố sâu đen tối.
Phêrô đã cảm nghiệm cảm giác này trong khi ông đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu. Phêrô đã để chính ông bị chìm vào vực sâu bởi vì ông đã mất lòng tin. Khi mọi sự dường như hợp với ý hướng của ta, và khi gánh nhẹ nhàng, thì Hành Vi Đức Tin chính là lúc dễ dàng nhất. Thế nhưng khi sự thể bắt đầu đi ngược ý ta, khi gánh trở nên nặng nề, và chúng ta cảm thấy tinh thần sa sút, thì Hành Vi Đức Tin đi đến chỗ khó khăn nhất. Các môn đệ đã học biết thực thi những công tác dường như bất khả mà Thiên Chúa trao cho họ để thực hành, dưới ánh sáng Đức Tin. Họ phải học biết rằng họ không bao giờ cô đơn lẻ loi, không bao giờ bị ruồng bỏ, dù tình thế khủng khiếp cảm thấy đến đâu, dù cái chết vì chính Chúa Giêsu đã chết cho ta.
Có những người nói với ta rằng thật vô ý nghĩa khi nói về cái chết của Chúa Giêsu. Có phải sự sống của Ngài mới là quan trọng đấy sao? Nó chả có nghĩa lý gì bao lâu chúng ta nhận thức rằng chính trong sự chết, trong Cuộc Đóng Đinh, tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta được tỏ rõ nhất, mạnh liệt nhất, nồng nhiệt nhất, và trực tiếp nhất. Đấy chính là vì sao Thập Giá trở nên trung tâm cho Đức Tin Kitô Giáo từ ngay lúc khởi đầu. Đấy chính là tột đỉnh của mọi sự mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm để mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.
Có một người đàn ông bị lôi cuốn bởi Phúc Âm Chúa Giêsu và ông đã đi Nhà Thờ trong vòng vài tháng nay. Khi ông được hỏi là tại sao ông chưa tiến bước nữa để chịu phép Rửa Tội, ông nói rằng toàn bộ kinh nghiệm đi Nhà Thờ cũng giống như lên tàu lửa và hỏi ông tài xế: “Bao nhiêu tiền?” Và ông tài xế trả lời: “Cuộc sống của ông.” “Khi tôi nghe thấy điều đó, tôi cảm thấy run sợ và tôi đã trốn cho đến giờ.” Chúa Giêsu kêu mời chúng ta lên xe và tiến vào sứ mệnh mục vụ của người Kitô hữu đã chịu phép Thánh Tẩy.
Trong đoạn kết bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu và Phêrô lên thuyền và gió bão liền ngừng. Chúa Giêsu làm lặng biển cả. Các môn đệ phủ phục trước Ngài, và tuyên xưng, “Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 33).
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Chuyện kể rằng: Một gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát ở miền quê. Trong khi nô đùa, cậu con trai ngã xuống một suối nước sâu.
Nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé lem luốc, con bác nông dân, đã chạy đến tiếp cứu. Và số phận của cậu bé thượng lưu, không biết bơi kia tưởng như ngàn cân treo sợi tóc, giờ đã được cứu sống.
Nhà quý tộc vô cùng biết ơn chú bé nhà quê nghèo. Ông hỏi chú có mơ ước gì không. Chú trả lời: “Cháu muốn được đi học để trở thành bác sĩ cứu người”.
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi đã được cứu sống, nay trở thành vĩ nhân của thế giới, thủ tướng nước Anh, Winston Churchill. Và chú bé nhà quê, nhờ sự giúp đỡ của nhà quý tộc, cha của Churchill bây giờ đã là bác sĩ danh tiếng, và là ân nhân của cả nhân loại, người đã tìm ra thuốc Penicilin. Tên của ông Fleming.
Có ai ngờ, khi thủ tướng nước Anh lâm trọng bệnh, các bác sĩ nổi tiếng đều bó tay, thì chính Fleming, lại cứu sống ông một lần nữa.
Fleming đã cứu vớt sinh mạng của Churchill khỏi dòng nước oan nghiệt, để rồi sau này Churchill trở thành thủ tướng lừng danh, niềm hãnh diện và tự hào của cả nước Anh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, đã kéo ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Đức Giêsu đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và dẹp yên sóng gió không phải là để làm trò biểu diễn cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Thực vậy, con thuyền Giáo Hội ngay từ đầu, đã không giương cao cánh buồm đức tin mà lao thẳng về phía trước, nhưng cũng phải vật lộn với phong ba bão táp, “bị sóng đánh vì ngược gió”.
Các môn đệ, cột trụ của Giáo Hội cũng hốt hoảng, sợ hãi, phải có Đức Giêsu bên cạnh để trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”.
Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin “đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Cho dù là đá tảng, Phêrô cũng đã bị Đức Giêsu mắng: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”.
Đó là hành trình Đức tin của Phêrô, của các môn đệ, và của mỗi người tín hữu chúng ta. Đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu “cứ đến”, mà chúng ta bước đi trên vực thẳm, sóng gió. Rồi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi làm chúng ta hụt chân. Để cuối cùng, chính Đấng nắm lấy tay chúng ta kéo lên sẽ củng cố đức tin của chúng ta thêm vững mạnh.
Có một điều đáng làm mẫu mực cho những kẻ tin, là chính khi lòng tin bị chao đảo theo sóng gió, thì Phêrô đã cầu nguyện: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Có một thước phim mà người xem chớ vội bỏ qua, là “Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay”. Chính Đức Giêsu và Phêrô đã cứu con thuyền trong cơn sóng gió.
Có một lời tuyên xưng mà người tín hữu Kitô không ngừng thốt lên trong các cơn giông tố của cuộc đời: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Người tín hữu như chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Muốn đưa đời mình về với trùng khơi hãy xác tín như thánh Phanxicô Salêsiô: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
***
Lạy Chúa, sóng gió cuộc đời luôn làm chúng con chao đảo, vực thẳm lòng đời luôn làm chúng con sợ hãi.
Xin cứu lấy chúng con khi chúng con sắp chìm, xin nắm tay chúng con lúc chúng con hụt chân. Xin cùng lên thuyền với chúng con, vì thuyền đời chúng con có Chúa là có bình an. Amen.
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh sóng gió nhiều quá” hay nói: “anh phong trần quá” – phong là gió, trần là cát bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội, hạn hán, giông tố, động đất…
Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng điếm, sida…
Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng, bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và tính mê đắm giai nhân.
Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải điêu đứng.
Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.
Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ, là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).
Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).
Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn khó cho mình. Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được hưởng ơn lạ như thế;ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.
“Lạy Thầy, xin cứu con”. Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã gây ra…
Lời cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17 của Tin Mừng Matthêu. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: “Tiến tới việc loan báo Giáo Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc “Hành trình đức tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các chương này, tác giả Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
– Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin…” (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
– Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
Về thể văn, truyện Đức Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là thể văn “hiển linh” (épiphanie. Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27). Thể văn này được định nghĩa là: Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường thuật một cuộc tỏ mình bất ngờ và lạ thường của một hữu thể thần linh hoặc thiên quốc, được một số người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh mạc khải một phẩm tính, một hành động hoặc một mạc khải thần linh. Đặc điểm của thể “hiển linh” là nó cho thấy một vài phương diện của hoạt động Thiên Chúa nhằm cứu độ dân Ngài.
Ở bên trong tác phẩm Mt, truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió (8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung cấp một lời tuyên xưng mào đầu của các môn đệ, chuẩn bị cho lời tuyên xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với TM I để minh họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu trong tư cách là Con Thiên Chúa.
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A – Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (14,22-24):
- a) (22)
- b) (23a)
b’) (23b)
a’) (24)
B – Đức Giêsu đi trên mặt biển (14,25-27):
- a) (25)
- b) (26)
a’) (27)
B’- Phêrô đi trên mặt biển (14,28-31):
- a) (28-29a)
- b) (29b)
b’) (30)
a’) (31)
A’- Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (14,32-33):
- a) (32)
- b) (33)
3.- Vài điểm chú giải
– cây số (24): Từ ngữ Hy Lạp gốc là stadion, “dặm” (NTT) = 192 m. Hồ Ghennêsarét có chu vi khoảng 53 km (33 miles), dài khoảng 21 km (13 miles), và rộng khoảng 13 km (8 miles). Diện tích khoảng 166 km2 (64 sq mi), và sâu tối đa khoảng 43 m (141 feet). Hồ thấp hơn mặt biển 214 m (702 ft).
– Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong Tin Mừng Matthêu, “con thuyền” là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được xác nhận khi tác giả viết rằng con thuyền bị “tra tấn (hành hạ)” (basanizô) bởi các con sóng (chứ không nói như Mc 6,48: “các ông phải vất vả chèo chống”). Kiểu nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có “động đất” (seismos) trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ đến các đau khổ Hội Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “biển” là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7…). Nói rằng “đang ở trên mặt biển” có nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy “biển” ở đây là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu.
– canh tư (25): Canh (phylakê) tư ở vào khoảng từ 3g đến 6g sáng.
– đi trên mặt biển (25): Cụm từ epi tên thalaasan có thể có nghĩa là “về phía biển”. Do đó, có những tác giả cho rằng Đức Giêsu đứng trên bờ mà làm yên sóng gió (Paulus; Jeremias; J. Duncan Derrett). Tuy nhiên, theo ngữ cảnh, phải hiểu là “trên biển”.
– hoảng hốt (26): Đây là phản ứng của con người khi tiếp cận với thần linh (x. Xh 19,16; Ed một,4…).
– Chính Thầy đây (27): Trước tiên, egô eimi là một lời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ không phải là ma như anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên Chúa dùng dể tự giới thiệu với Môsê (Yhwh: x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có một sự song đối giữa Đức Giêsu và Yhwh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (22-24)
Vừa cho đám đông ăn no xong, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền. Chúng ta nhớ đến 8,23; nhưng lần này Đức Giêsu không đi với các ông. Tác giả Mt không nói là các môn đệ đi Bếtxaiđa như Mc (6,45), vì biết rằng Bếtxaiđa không gần Ghennêsarét. Ngài sửa một sai lầm của Mc mà không quan tâm đến địa lý. Đức Giêsu lên núi một mình để cầu nguyện. Cũng như ở 17,1-8, “núi” là nơi đặc biệt gần kề Thiên Chúa. Lúc này, trời đã tối.
Thuyền của các môn đệ đã xa bờ nhiều stadia và đang bị sóng “tra tấn” (basanizomenon). Hẳn là tác giả chủ ý dùng từ thuộc thế giới con người cho con thuyền. Nước, bão, và đêm là những biểu tượng của tình trạng cùng quẫn, sợ hãi và chết chóc, rất quen thuộc với Hội Thánh, được rút ra từ các Thánh vịnh (nước: Tv 18,16-17; 32,6; 69,2-3.15; đêm: Tv 91,5; 107,10-12; bão: Tv 107,23-32; Gn 1–2).
* Đức Giêsu đi trên mặt biển (25-27)
Canh tư, từ 3g đến 6g sáng, cũng là giờ mà theo Kinh Thánh, Thiên Chúa can thiệp để cứu trợ Dân Ngài (x. Xh 14,24; Tv 46,6; Is 17,14), và theo truyền thống Kitô giáo, là giờ Đức Giêsu sống lại (x. 28, 1). Vào giờ này, Đức Giêsu băng qua hồ, bước trên mặt nước, mà đến với các môn đệ (c. 25). Thấy một dáng người di chuyển trên mặt biển, dễ hiểu vì sao các môn đệ nghĩ đây là một hữu thể siêu nhiên, một bóng ma, và các ông hốt hoảng.
Nhân vật thần linh bắt đầu lên tiếng: egô eimi không kèm theo một túc từ nào cả. Đức Giêsu không nói rằng Người là cái này hay cái kia, nhưng chỉ nói: “Là Thầy”. Ở bề mặt, đây là cách người nói quy về chính mình. Vậy Đức Giêsu đã đánh đổ “bóng ma” bằng cách chỉ vào chính bản thân Người, và các môn đệ thì biết Người. Tuy nhiên, ở bề sâu, công thức egô eimi (Híp-ri: ‘aný hu’) nhắc lại lời Đức Chúa (Yhwh) tự giới thiệu mình trong Kinh Thánh (x. Đnl 32,39; Is 41,4; 43,10; 45,18-19; 48,12; 51,12). Đức Giêsu bảo: “Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Ở trong Kinh Thánh, Thiên Chúa ngỏ lời với các tổ phụ và Israel bằng câu: “Đừng sợ, Ta là…” (St 15,1; 26,14; 28,13; 46,3; Is 41,13. x. c. 10; 43,1.3). Vậy lời nói của Đức Giêsu là một bản văn đa chiều kích: Với câu “Là Thầy”, ở bề mặt, các môn đệ được quy hướng về con người Giêsu mà họ biết. Còn bên trong, họ trải nghiệm một điều thuộc vị Thiên Chúa của Kinh Thánh.
* Phêrô đi trên mặt biển (28-31)
Đức Giêsu chưa làm yên sóng gió. Thay vào đó, Phêrô trả lời Người. Ông thưa với Đức Giêsu bằng công thức của người môn đệ, “Thưa Ngài (kyrie)”, và xin vị Chúa này truyền lệnh cho ông đến với Người. Thế là thay vì vị “thần”, Giêsu, thì lại là con người, Phêrô, muốn bước đi trên mặt nước. Ai cũng biết rằng việc này không thể làm được, cũng như không thể xê dịch núi non (x. 17,20). Lời thỉnh cầu này nhắm đến một điều không thể được cho thấy đức tin của Phêrô, nghĩa là niềm tin tưởng ông đặt vào con người có mọi quyền trên trời dưới đất (Mt 28,18). Tuy nhiên, câu nói “nếu quả là Ngài” lại báo trước sự hoài nghi sẽ xuất hiện trong nỗi sợ hãi của ông khi bước đi trên mặt nước. Đức Giêsu ban lệnh truyền như Phêrô xin (“Cứ đến”). Đây là nền tảng trên đó ông có thể hành động. Lệnh truyền của Đức Giêsu là nền tảng để con người có thể hoạt động. Vậy, nếu có đi được trên mặt nước, Phêrô cũng chẳng phải là một thầy phù thủy hay một siêu nhân; ông chỉ vâng lời Chúa của ông thôi.
Nhưng ông đâm sợ. Không phải là nỗi sợ hãi do gặp một nhân vật thiên giới, nhưng là sợ bão, sợ bị đe dọa, sợ không được an toàn. Tác giả Mt dùng các từ của Tv 69,2-3 (x. cc. 15-16): Khi bước đi trên mặt “nước”, “nhìn vào gió” (blepôn ton anemon) thay vì nhìn vào Chúa của ông, ông bắt đầu “chìm” (c. 30), ông liền “kêu” lên: Thưa Ngài, “xin cứu con” (các từ trong ngoặc đều trích từ Tv 69).
Đức Giêsu đưa tay ra nắm lấy Phêrô và nói với ông. Ở bề mặt, cử chỉ này của Người là cần thiết để cho Phêrô khỏi bị chìm. Nhưng ở một chiều sâu khác, hẳn là tác giả Mt nghĩ đến Tv 143,7: Đức Giêsu cung cấp sự che chở của Thiên Chúa. Đối với tác giả, điều quan trọng là sự hiện diện cứu độ này của Thiên Chúa không có nghĩa là không còn bão tố, nhưng là ta trải nghiệm được sự hiện diện này ngay trong gió bão. Những ai dám vâng lời và di chuyển ra bên ngoài sự an toàn của mình sẽ trải nghiệm được sự hiện diện này. Một lần nữa, Phêrô vẫn chỉ là “người có đức tin nhỏ bé” (= người kém tin, oligopistos), và đức tin là một sự pha trộn giữa can đảm và sợ hãi, vâng nghe Chúa và nhìn vào gió, tin tưởng và hoài nghi, và đây là đặc tính căn bản của đời Kitô hữu (x. 28,17).
* Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (32-33)
Câu chuyện kết thúc rất nhanh. Đức Giêsu và Phêrô cùng lên thuyền với nhau và gió lặng ngay (c. 32). Một lần nữa, phép lạ Đức Giêsu làm xảy ra sau khi đức tin đã được chấn chỉnh.
Các môn đệ quỳ xuống (= thờ lạy): Cung cách này dễ hình dung hơn nếu ở trên “con thuyền Hội Thánh”, chứ không phải trên một con thuyền trên hồ vừa ra khỏi sóng gió. Họ tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”. Đây là danh hiệu Kitô học quan trọng nhất đối với tác giả Mt, đồng thời hầu chắc cũng là lời tuyên xưng trung tâm nhất của Hội Thánh. Cách nào đó, ngược lại với Mc, tác giả Mt muốn phác vẽ ra các môn đệ như là những con người có lòng tin và hiểu biết, dù có lúc họ đã tỏ ra thất vọng và dù vẫn cần học hỏi thêm nữa.
+ Nhận định & Kết luận
Có thể nói bài tường thuật chuyến vượt “biển” (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật một phương diện mới và có một không hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Hội Thánh Người trên “tảng đá” là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả là hiển nhiên, được diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu không những tỏ ra mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Tuy nhiên, phương diện Cứu độ học phải được cứu xét trong tương quan hữu cơ với chiều kích Kitô học. Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên trong câu nói của các môn đệ: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (14,33; x. 8,27). Như thế, chiều kích Kitô học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào quyền lực và bản thân của Đấng cứu hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng quyền năng thần linh tuyệt đối để mà bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy không những Người có thể cứu khỏi bất cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu có thể cứu các môn đệ Người bằng cách siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì Người cũng có đầy đủ quyền năng cần thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ dân Người.
Phương diện Giáo hội học được diễn tả qua các vai trò của các môn đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh túng cực, các độc giả có thể hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô. Các môn đệ và Phêrô, do đã trải nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng không những họ phải tin vào Đức Giêsu như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt tin tưởng rằng Hội Thánh gồm những ai tin và đi theo Đức Giêsu thì được che chở bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.
Có thể nói hoạt cảnh cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Hội Thánh mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.
Tác giả Matthêu trình bày một cuộc thần hiển cho “những người đang ở trong thuyền”, nghĩa là Hội Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho đức tin của các tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
- Khác với Lc, Mt hiếm khi cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23). Đây là một đòi hỏi thông thường của tinh thần Người, một nhu cầu có thực là được hiệp thông với Chúa Cha và tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là vào lúc này, thời gian quyết liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi hỏi làm sáng tỏ đã trở nên cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng Người ở một mình; một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là một báo trước sự cô độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu của cá nhân mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức mạnh và sự an toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người là Đấng cứu độ họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.
- Đối với tác giả Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái (x. c. 28). Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị “tra tấn” vì cơn giông trên biển. Lúc này là “đêm tối” (c. 25), là giờ của thử thách, của “quyền lực bóng tối” (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
- Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất Người. Phản ứng kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu như thế (c. 26). Đây là một hình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các cuộc hiện ra sau Phục Sinh. Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh.
- Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Hội Thánh. Ông phản ứng nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu lạ, các bằng cớ chứng tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là một đòi hỏi không thể bỏ qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần những dấu chỉ, để có thể dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong lòng Hội Thánh, cũng cần có những bằng cớ mới, nhưng ta không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy đây” (= Ta là), “Cứ đến!” (cc. 27-29).
- Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là chấp nhận một chiều kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc chiều kích thể lý, là mở tâm hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực tại siêu nhiên. Đây là vượt lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn thế, cần tin vượt quá cái hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp nhận “hỏng chân”. Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm tựa vững chắc kiểu loài người.
- Các độc giả Tin Mừng, rất quen với Tv 69, cùng cầu nguyện với Phêrô. Họ nhận ra mình nơi Phêrô và thấy nước chính là tất cả những mối đe dọa trong đời họ: cái chết, tình trạng thiếu an toàn, sự thù nghịch, bệnh tật, tội lỗi… Họ biết rằng nếu chỉ “nhìn vào” gió chứ không nhìn vào Chúa, họ sẽ không đứng vững được.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam