Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 45

Tổng truy cập: 1373270

Đừng Có Vô Cảm

Cập nhật : 03-06-2016
 

ĐỪNG CÓ VÔ CẢM

 ( Lc 7, 11-17)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

  Chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm mà Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta “xóa bỏ sự thờ ơ, vô cảm, đánh mất cảm xúc …” (x.Misericordiae Vultus số 15).

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót“. Ngài cũng bày tỏ: “Tôi mong muốn biết bao rằng nơi nào Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và các cộng đoàn của chúng ta, nơi ấy sẽ trở thành những hải đảo thương xót giữa lòng đại dương vô cảm!

Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, người ta đang cố gắng tạo ra rô-bốt thật giống người hơn để giúp con người trong các việc nặng nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều, trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chíp “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình. Thấy Chân, Thiện, Mỹ mà không ngưỡng mộ. Gặp cảnh bi thương lại thờ ơ, không động lòng thương xót, không rung động tâm can. Giá trị đạo đức bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật và cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến “bệnh vô cảm“. Bệnh này thể hiện ở chỗ, không động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác, cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xã hội đang xảy ra. Con người hầu như trở nên vô tình trước cuộc sống của người khác. Vậy đó còn là con người không, hay chỉ là xác khô của một cỗ máy?

Lời Chúa hôm nay vang lên như tiếng chuông báo động về lòng thương xót :  “Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương xót: bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Một Thiên Chúa động lòng thương xót khi thấy đám đông đi theo mình và đã làm phép lạ để nuôi sống nhiều ngàn người ăn. Chúa chạnh lòng thương chữa lành những người mang bệnh hoạn tật nguyền. Chúa động lòng thương khi thấy đứa con trai hoang đàng của mình trở về. Và trong đoạn Tin Mừng hôm, Chúa Giêsu đã cảm động khi thấy bà góa bên cạnh quan tài của con một đã chết. Cảm thông với nỗi đau khổ của người đàn bà góa, Chúa bảo bà: “Bà đừng khóc nữa“(Lc 7,13), làm cho bà đầy hy vọng.

Lòng thương xót vô điều kiện, bằng chứng là không ai xin Chúa và Chúa cũng không đòi hỏi lòng tin nơi người được chữa lành, hay nơi những người liên quan. Chỉ đơn thuần trên đường đi, Chúa Giêsu bà đang đi chôn cậu con trai yêu quí Chúa đã ra tay phục sinh cho con của bà.

Chúa thấy hoàn cảnh của bà thật đáng thương. Đáng thương vì chồng bà mất sớm, khiến bà trở nên mẹ góa con côi. Đáng thương hơn nữa, vì giờ đây đứa con trai duy nhất của bà cũng bỏ bà ra đi vĩnh viễn. Bà lâm vào cảnh “Tre già phải khóc măng non”, và thành người bơ vơ không nơi nương tựa. Tất cả dường như sụp đổ, cuộc sống bà xem ra không còn hy vọng gì cả, bà chỉ có một niềm an ủi, một động lực để sống là đứa con thì nay niềm hy vọng cuối cùng đó cũng không còn nữa.

Sống ở trên đời,  nhiều người trong chúng ta cũng muốn lau những giọt nước mắt của tha nhân và nói với họ rằng: “Đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay, các phương tiện truyền thông cho chúng ta thấy rõ những khổ đau của nhân loại, nhiều vô kể! Nếu có thể được, chúng ta sẽ nói với những người ấy rằng : “Hãy đứng dậy” (Lc 7,14). Nhưng rất tiếc chúng ta không phải là Thiên Chúa nên không thể! Tận đáy lòng, chúng muốn nói với họ:  trong lúc bị đau khổ bủa vây, hãy nhìn lên Chúa Giêsu và xin Chúa giúp!

Động lòng thương” với những người sầu khổ, là thái độ của những người nhận ra hình ảnh của mình nơi người khác thật [mong manh]. Chăm sóc vết thương của tha nhân là điều trị vết thương của chính mình. Lòng trắc ẩn trở thành một sự hiệp thông, cầu nối, thêu dệt tình bằng hữu.

Hãy “tiêu diệt” căn bệnh vô cảm một cách triệt để, hãy trao yêu thương và nhận thật nhiều yêu thương. Một xã hội vô cảm là một xã hội chết! Một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt của một cỗ máy vô tri, hẳn không ai muốn. Một nhà văn Nga đã từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương“. Con người sống mà không có tình thương thì chẳng khác chi con vật, giống cái xác không hồn, tồn tại giữa dòng đời một cách vô nghĩa, và sẽ chết dần mòn trong cô đơn, lạnh lẽo. Thế nên, chúng ta hãy tích cực chống lại “bệnh vô cảm”, phải sống có tình thương, có trách nhiệm với cộng đồng và đặc biệt là phải mở lòng mình ra với cuộc sống.

Xin Chúa cất khỏi chúng ta trái tim chai cứng và ban tặng cho chúng ta trái tim mềm mại của Chúa, trái tim biết yêu thương, để chúng ta luôn biết thổn thức, biết chạnh lòng trước những hoàn cảnh, trước những mảnh đời đau khổ và bất hạnh để ra tay trợ giúp họ. Amen

******************************************

ĐỪNG KHÓC NỮA

 (Lc 7, 11-17)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật X thương niên, Giáo hội muốn giúp chúng ta khám phá ra khuôn mặt của một Vì Thiên Chúa giầu lòng thương xót, thể hiện qua lời nói và việc làm của Đức Giêsu làm cho con trai bà góa thành Na-im chỗi dậy từ cõi chết. Đây là dấu chỉ vĩ đại của Thiên Chúa là làm cho kẻ chết sống lại, khiến cho dân chúng phải kêu lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.” (Lc 7, 16)

Sống mãi, sống vui và sống hạnh phúc là ước muốn của con người. Tiếc thay, cái chết là rào cản lớn nhất khiến con người buồn sầu, thất vọng. Đức Giêsu phục sinh con trai bà góa thành Na-im chứng tỏ Thiên Chúa viếng thăm không chỉ một số người Ít-ra-en, mà là toàn thể nhân loại; không chỉ hoàn sinh để rồi lại chết như một vài trường hợp được sống lại từ cõi chết, nhưng cứu con người khỏi chết đời đời, nhờ đó con người hy vọng và tin tưởng: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của con, con còn sợ người nào ? Chúa là thành lũy bảo vệ đời con, con khiếp gì ai nữa? Chính bọn thù địch, bọn làm khổ con phải lảo đảo té nhào.” (Ca nhập lễ)

Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vì yêu thương đã tạo dựng con người, cho con người chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, vì yêu thương, Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người trong đau khổ, Ngài chữa lành mọi bệnh tật, trả lại sự sống cho con người, mang lại cho con người sự bình an, niềm hy vọng. Thiên Chúa vẫn mãi mãi là Thiên Chúa yêu thương con người. Nếu như thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã nhận lời Ngôn sứ Ê-li-a cầu xin Chúa cho đứa con của bà goá nghèo thành Xê-rép-ta được sống (x. 1V 17,17-24), thì thời Tân Ước, trước nỗi đau khổ tột cùng của bà goá thánh Na-im khi đứa con duy nhất, là niềm vui, chỗ dựa tinh thần của bà chết, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, cho anh thanh niên trỗi dậy từ cõi chết, mang lại niềm vui mẹ anh và cho mọi người.

Thiên Chúa luôn đồng hành với con người, bởi con người được sáng tạo giống hình ảnh Chúa. Con Thiên Chúa là Đức Giêsu đã làm người, sống kiếp phận con người, để phục hồi phẩm giá con người đã bị méo mó do tội lồi.

Trong Hiến chế (Gaudium et Spes), § 22 Công đồng Vaticanô II dậy: Chúa Kitô, Con Người Mới là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Col 1,15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.

Là Chiên vô tội Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính trong Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa chúng ta với nhau cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi, do đó mỗi người chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Ðồ rằng: Con Thiên Chúa “đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi nữa” (Gal 2,20). Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Người nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo Người thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.

Con người Kitô hữu khi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đúc, họ nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23)… Nhờ Thánh Thần làm “bảo chứng cho quyền thừa tự” (Eph 1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi “thân xác được cứu rỗi” (Rm 8,23): “Nếu Thánh Thần Chúa là Ðấng đã khiến Chúa Giêsu từ kẻ chết sống lại cư ngụ trong anh em, chính Ðấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay hư nát của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em“, (Rm 8,11)…

Ðó là tính chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo soi sáng cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự sống để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha!

 
Nguồn : gxta 

home Mục lục Lưu trữ