Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 30

Tổng truy cập: 1373741

GÁNH NẶNG

Gánh nặng

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.

Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, thì chữ “vất vả mang gánh nặng nề” Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.

Thực vậy, đời người giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Trăm năm nào có gì đâu? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói: “Gánh khổ mà đổ lên non. Còng lưng mà chạy khổ còn chạy theo”. Đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ: “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hằng theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của riêng mình.

Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng “vất vả và gánh nặng”, và Chúa động viên, khích lệ, kêu gọi: “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.

Ngoài ra, “gánh nặng” còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng mình: người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế.

Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận: vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu và chúng ta cũng nhìn nhận rằng: trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi, chán nản ư? Thậm chí có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than thân trách phận, hoặc chỉ cầu xin, khấn vái thôi thì chưa đủ.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay khổ đau, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.


 

27. Vượt qua khổ đau

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Người ta luôn không hài lòng về số phận của mình (On n’est pas toujours content de son sort). Câu ngạn ngữ trên đây một cách nào đó nói lên thực trạng của con người trong kiếp nhân sinh lữ thứ. Đời là một bể trời khổ dâu. “Thoặt sinh ra thì đà khóc chóe. Trần có vui sao chẳng cười khì?” Lời than của một thi nhân Việt Nam như chứng thực điều này. Hết chuyện ngày ngày lo kế sinh nhai “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, thì lại đến chuyện gia thất “con là nợ, vợ (chồng) là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng ! Những cảnh vui, cảnh an bình thì thấp thoáng như vó câu qua cửa, còn các chuyện buồn, cảnh khổ thì cứ đằng đẵng tiếp nối dù lòng chẳng mong, chẳng đợi bao giờ.

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Một lời mời gọi vừa đượm tình vừa rất hiện sinh. Hiện sinh vì nó nó đáp ứng nhu cầu của mọi người mọi thời và mọi nơi. Ngoại trừ các em bé còn trong nôi hay các bé thơ chưa biết nhìn đời với con mắt phản tỉnh, hầu như khi đã biết nghĩ suy một cách nào đó thì ngay cả các bé thiếu nhi, thiếu niên cũng không thoát được sự “bể dâu” của cuộc đời. Nó đượm tình vì nó nói lên việc Đức Kitô đã chung thân, đồng phận với nhân trần chúng ta khi làm người, đặc biệt trong mọi cảnh tình khốn khó.

Cũng có thể như lời Đức Phật dạy: vì quá ham muốn (dục), mà không toại nguyện thì chuốc lấy sự khổ đau. Nhưng đã là người thì tránh sao được cái sự muốn. Ý chí tự do là một trong nhữg ưu phẩm của con người trổi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Khi anh không muốn cũng là lúc anh muốn cái sự không muốn. Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, Đức Phật đề ra con đường “tri –kiến” là nhận thức sự vô thường của vạn vật để rồi tạo lập một thái độ tạm gọi là “dửng dưng” vô niệm, vô úy, vô chấp. Đây là một trong những con đường tự giải thoát bản thân khỏi cái vòng lẫn quẩn của vô minh. Thế nhưng, dù sao đó cũng là một kiểu “giác ngộ” của con người, là sản phẩm của loài thụ tạo. Đức Khổng Tử thì đề ra con đường “trung dung”, chính danh, chính phận. Tức là sống đúng danh phận của mình cách hài hòa cân đối, không bất cập mà cũng chẳng thái quá. Khi mọi sự ở trong trật tự của chúng thì cái sự khổ sẽ dần mất đi. Lão Tử thì vẽ ra con đường “vô vi”: Làm mà như không làm… Mỗi hiền nhân mỗi con đường, nhưng thảy đếu là những con đường xuất phát từ người trần gian.

Để vượt qua bao khổ lụy kiếp người, Chúa Kitô mời gọi nhân trần chúng ta hãy mang lấy ách của Người, tức là hãy làm môn đệ của Người. Làm môn đệ của Người là bước đi theo con đường Người đã đi. Để có thể tiếp bước theo Người thì Người mời gọi chúng ta là hãy học cùng Người sự hiền lành và khiêm nhượng. “Hãy học cùng tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).

Hai từ khiêm nhu rất dễ khiến chúng ta liên tưởng đến thái độ, cung cách hạ mình. Thế nhưng, thái độ khiêm nhường đích thực là nhìn nhận bản thân đúng như mình là trong các mối tương quan với tha nhân, với các loài thụ tạo và với Thiên Chúa, Đấng Tạo thành mọi sự. Người khiêm nhu là người trên hết, trước hết, biết nhìn nhận mình là loài được tạo nên và vì thế, mình chỉ là mình, khi sống, hoạt động theo ý muốn của Đấng dựng nên mình. Ý thức được điều này và tin nhận sự thật này, đồng thời tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật thì việc bước theo Đức Kitô, làm môn đệ của Người, là lẽ tất yếu đương nhiên.

Hai từ hiền lành cũng đễ làm ta liên tưởng đến một thái độ sống mềm mại, dịu dàng. Thế nhưng sự hiền lành đích thực là một thái độ sống vuông tròn bổn phận trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch. Hình ảnh người mẹ hiền, cô dâu hiền minh chứng cho sự thật này. Học ở Đức Kitô sự hiền lành là biết đi đến cùng trong bổn phận của “người tôi tớ vô dụng” (x. Lc 177-10) chỉ làm những gì phải làm. Và điều chúng ta cần phải làm xuyên suốt mọi hoạt động đó là trả món nợ yêu thương. Bởi tình yêu, ta được chào đời, thì cho tình yêu ta sống kiếp người.

Khi đã tự nguyện làm môn đệ Đức Kitô thì chúng ta cần phải bước đi trên con đường đạo lý yêu thương Người đã đi. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Đây chính là giới răn mới, giới răn mà Chúa Kitô truyền lại khi Người sắp từ bỏ trần gian mà về cùng Chúa Cha. Sự êm ái ngọt ngào khi mang lấy ách của Chúa Kitô đó là biết sống yêu thương như Người đã yêu.

Thánh giáo phụ Âugustinô đã nói: “ Hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm”. Khi đã yêu thì sẽ không còn đau khổ. Dù cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không còn là sự điên rồ hay nổi ô nhục mà trở thành niềm vinh dự.

Đau khổ phát sinh, có thể là do lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù sao đi nữa vẫn có đó nhiều nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau khổ là một huyền nhiệm. Chúa Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về nguyên nhân của khổ đau, nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu. Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ, nhưng nó sẽ chẳng là gì trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô đã biến khổ đau thành ân phúc.

Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng… Nếu ta vẫn đang ngụp lặn trong bao đau khổ, chắc hẳn vì ta chưa đáp lại lời mời của Đấng Cứu Độ là hãy đến với Người. Đến với Người ta sẽ gặp “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…, Đấng bẻ gãy mọi cung nỏ của chiến tranh, Đấng công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9,9-10). Đến với Đấng Cứu độ, ta sẽ được Thần Khí của Người đổi mới và “chúng ta sẽ diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta và chúng ta sẽ được sống, sống trong an bình.” (x. Rm 8,13).


 

28. Con số không

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)

Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh Kinh, đem về phổ biến cho dân gian.

Trên cuộc ra ra đi đầy gian nan thử thách của thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ quái, mà còn là những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng ham vật dục và sự lười biếng.

***

Trên cuộc hành trình về quê trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, pải chiến đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con người, hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng” (Mt 11,28).

Hãy đến với Người, tất cả những ai đang phải “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt mặt tối” để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ cho họ được an dưỡng nghỉ ngơi.

Hãy đến với Người, tất cả những ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của tương lai chống chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh thản.

Đức Giêsu còn tha thiết mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi… Vì ách của tôi êm ái, và gánh tội nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Nếu bất ngờ chúng ta bị một “cái ách giữa đàng mà quàng vào cổ” thì thật là gay go. Nhưng nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và gánh kia sẽ nhẹ nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con đường tình yêu, hành trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.

Chính trong tình yêu mà chúng ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ đau.

Chính trong tình yêu mà cái ách sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề hóa ra nhẹ nhàng.

Thánh Augustine nói: “Nơi đâu có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta cũng yêu cả nỗi vất vả ấy”.

Để có được thanh thản giữa bao lo toan của cuộc sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được thư thái giữa bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu: “Hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).

Kẻ kiêu ngạo phô trương, cậy mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng khinh chê loại bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban cho Nước Trời, Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Một ly nước đầy không thể đổ thêm thứ gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng.

Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy chúng ta này sống “hiền lành và khiêm nhường”.

Là Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng Người lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân để yêu thương và cứu chộc con người (Pl 2,7-8).

Người không lên án người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang mà còn cứu bà khỏi trận mưa đá hãi hùng.

Người không khiến lửa trời xuống đốt cả làng Samari theo đề nghị của hai môn đệ háo thắng.

Người ví mình như người cha nhân hậu tha thứ cho đứa con hoang đàng.

Người xem mình như mục tử nhân lành chăm sóc từng con chiên.

Người xin Cha tha thứ cho những kẻ lăng nhục, hành hạ, và đóng đinh Người.

Tột đỉnh của sự “hiền lành và khiêm nhường” nơi Đức Giêsu chính là Người đã hạ mình, vâng lời cho đến chết, và chết trên cây thập tự mây cứ thong thả bay, suối cứ lững lờ trôi. Và lời kinh cứ tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Trong cõi lòng hiền lành và khiêm nhường bao giờ cũng gói trọn con tim bao dung độ lượng.

***

Lạy Chúa, xin dạy chúng con sự hiền lành , để chúng con có được tất cả thế giới là anh em. Xin dạy chúng con sự khiêm nhường, để chúng con có Chúa là tất cả cho cuộc đời chúng con. Amen.


 

29. Chướng ngại

Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.

Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?

Cụ già thản nhiên đáp:

- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:

- Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.

Cụ già khiêm tốn hỏi:

- Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?

Anh sinh viên hăng hái trả lời:

- Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.

Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.

Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.

Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.

Phần chúng ta thì sao? Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu chuyện trên?


 

30. Hiền lành

Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người chung quanh.

Quả thực, Chúa Giêsu đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn: “Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.

Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.

Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác xuống.

Cũng thế, người hiền lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.

Lại nữa, bao lâu còn là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập tha thứ.

Có lẽ tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương mẫu hiền lành của Ngài.

home Mục lục Lưu trữ