Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1372928

GẶP CHÚA Ở ĐÂU ?

Gặp Chúa ở đâu?

Chúa Nhật hôm nay được gọi là "Chúa Nhật Vui". Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này được tiên tri Isai, Đức Maria và thánh Phaolô diễn tả trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay. Thật vậy, còn niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui được cứu độ. Do đó, Thánh Phaolô nói với chúng ta: "Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến". (Phil. 4, 5-5 - Ca nhập lễ).

Tuy nhiên, sự vui mừng và hy vọng này vẫn không trọn vẹn và có thể trở thành mây khói, nếu nhân loại không nhận ra Đấng Cứu Thế thực sự là ai và phải làm gì để gặp Ngài. Đó chính là lý do tại sao nhiều tổ chức đã cử người đến gặp Gioan để hiểu rõ và đúng về Đấng Cứu Thế. Qua cuộc đối thoại với họ, Gioan đã giúp họ tránh được những hiểu lầm, đồng thời giới thiệu cho họ Đấng Cứu Thế đích thực mà các tiên tri đã loan báo. Gioan nói rằng: Ông không phải là Đấng Cứu Thế họ đang mong đợi; nhưng Đấng Cứu Thế sẽ đến sau ông dù Ngài vẫn hiện diện từ muôn thủa; Đấng ấy rất quyền năng và cao sang, đến nỗi Gioan dù làm một tiên tri cũng không đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài. Nhưng có điều lạ, là Đấng Cứu Thế cao cả đó lại đang ở giữa nhân loại mà nhân loại không nhận ra Ngài.

"Có Đấng ở giữa anh em mà anh em không biết". Câu nói của Gioan cho thấy rằng, Đấng Cứu Thế đã thực sự giáng sinh làm người qua thân phận một bé thơ đơn sơ, yếu đuối, trong một gia đình nghèo nàn tại vùng quê Nagiarét. Chính Ngài đang chia sẻ kiếp phàm nhân qua các biến cố vui buồn của từng người. Do đó, nhân loại không thể phác vẽ Ngài như một vị tướng hùng mạnh bách chiến bách thắng, như một hoàng đế trên ngai báu với muôn ngàn kẻ hầu người hạ. Tạo ra một hình ảnh như thế về Đấng Cứu Thế, chúng ta sẽ thất vọng và chẳng bao giờ gặp được Ngài. Chính các nhà đạo sĩ đã cho chúng ta một bài học: các ông tưởng rằng Vị Vua của Do Thái đã hạ sinh tại hoàng cung, nên tìm đến vua Hêrôđê, nhưng các ông đã chỉ gặp được Ngài trong một căn nhà nhỏ bé nghèo nàn tại miền quê. Như vậy, theo sự loan báo của các tiên tri và sự hướng dẫn của Gioan, chúng ta chỉ gặp được Đấng Cứu Độ khi chúng ta biết trở về với cuộc sống đơn sơ nhỏ bé, khi biết gạt bỏ ra khỏi tâm hồn những ý nghĩ kiêu căng, những tư tưởng tự cao tự đại, đồng thời biết khám phá ra sự hiện diện của Ngài qua các biến cố hằng ngày và trong cuộc sống của tha nhân, nhất là cuộc sống của những anh em nghèo nàn khổ đau. Chính Đức Maria đã dạy chúng ta một bài học cụ thể trong kinh Ngợi Khen (Magnificat) qua phần đáp ca của thánh lễ hôm nay: Thiên Chúa chỉ nhìn đến những người nhỏ bé đơn sơ và cứu độ họ; còn người quyền quý kiêu căng, Chúa sẽ loại bỏ.

Như vậy niềm vui cứu độ chỉ có ý nghĩa và mang lại kết quả khi chúng ta biết tìm kiếm Đức Kitô bằng đời sống đơn sơ nhỏ bé. Ngược lại, với tâm hồn kiêu căng tự đắc, hoặc hình dung ra một Đấng Cứu Thế theo quan niệm nhân loại, chúng ta sẽ không bao giờ gặp được Ngài, dù Ngài đang ở giữa chúng ta, trong gia đình và xã hội chúng ta.

 

68. Tiếng kêu nơi sa mạc

Trước đây ít năm, tại Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được dân chúng ca tụng khắp các nẻo đường ông đi. Mười bảy người viết thư cho ông Giám Đốc vệ sinh công cộng Jach Davis, để ca ngợi người phu đổ rác George Cummings là một người hiền lành, niềm nở và lịch thiệp với hết mọi người. Họ còn viết quả quyết rằng: "Chúng tôi đều biết ông ta là một người Công Giáo đơn thành, một công dân ái quốc và là một người bạn thân tình". Họ cũng nhắc lại việc Cummings đã giúp họ mua hoa khi có người hàng xóm qua đời, việc ông nhặt được một chiếc đồng hồ, rồi cố tìm ra chủ nhân để trao trả lại, hoặc một món đồ mà ông cho là chủ của nó vì lầm mà vứt đi, ông cũng tìm hết cách để hoàn lại.

Ông Giám Đốc Davis đã gởi cho Cummings bức thư với những hàng chữ này: "Mọi người đều mến chuộng ông, vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".

I. GIOAN LÀM CHỨNG CHO CHÚA

Bài Tin Mừng hôm nay, cũng thuật truyện một người thật mộc mạc, chất phác quê mùa nghèo nàn, chay tịnh khổ hạnh như một ẩn sĩ từ rừng thẳm đi ra, nhưng lại được nhiều người mến chuộng đến nỗi, từng đoàn lũ đông đảo, gồm đủ mọi thành phần xã hội, từ khắp nơi tuôn đến, say mê nghe lời ông giảng, đấm ngực sám hối cải thiện và cúi đầu chịu Phép Rửa Sám Hối do tay ông tại sông Jordan.

Danh tiếng ông đồn thổi đến tai những vị vọng trong dân; do đó, các ngài đã sai các vị Tư Tế và các thầy Levi đến hỏi xem ông có phải là Đấng Kitô, Thiên Chúa sai đến, Đấng mà muôn dân đang mong đợi không?

Khi họ hỏi: "Ông là ai?" Ông đã thẳng thắn tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ lại nghi ông là đại tiên tri Elia, cũng được ông quả quyết: "Tôi không phải là Elia". Sau cùng, họ lại nghĩ ông là một vị tiên tri Thiên Chúa sai đến, cũng được ông dứt khoát trả lời: "Tôi đâu có đáng là một tiên tri".

Thế rồi họ năn nỉ ông: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời lại cho những người đã sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?"

Gioan khiêm tốn đáp lại: "Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay thẳng đường Chúa đi". Câu trả lời khiêm tốn này, tuy vắn tắt nhưng đã nói lên tất cả sứ mạng của Gioan, là làm chứng nhân cho Chúa Kitô.

II. LÀM CHỨNG CHO CHÚA CÁCH NÀO

Gioan là một vị tiên tri cao trọng và diễm phúc nhất trong các tiên tri từ trước đến nay, đã được Chúa tuyển chọn đặc biệt, được vui sướng nhảy mừng khi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, được thánh hóa ngay từ khi còn trong thai mẫu, để xứng đáng là vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Ngài được Thiên Chúa sai đến chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế một dân tộc thánh thiện, bằng việc rao giảng Phép Rửa Sám Hối, kêu gọi mọi người cải thiện đời sống, để được xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Độ của Người.

Sứ mạng và địa vị của Gioan cao trọng đến nỗi, chính Chúa Kitô đã phải khen thưởng trước mặt mọi người: "Trong các nam nhân do phụ nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tiền Hô" (Lc 7:28). Mặc dầu được vinh dự trước mọi người, được muôn người ngưỡng mộ, ngài không hề tự đắc kiêu căng; trái lại, ngài càng hạ mình xuống thẳm sâu trước nhan Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Ngài đã công khai thú nhận địa vị thấp hèn của mình, khi đáp lại nhóm biệt phái được sai đến hỏi ngài: "Tôi đến làm Phép Rửa trong nước; nhưng ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài".

Lời rao giảng chân thành, đi đôi với cuộc sống khổ hạnh và khiêm nhu, đã đáng cho mọi người khâm phục và tin theo; bởi lẽ ngài luôn tôn cao Đấng ngài rao giảng, còn riêng bản thân ngài, ngài chỉ tự nhận thân phận tôi tá của Chúa, chỉ là người được sai đến để dọn đường cho Chúa.

Đời sống khiêm nhu thánh thiện đó, được chứa đựng tất cả ý nghĩa trong lời châm ngôn, chính Thánh Nhân đã tuyên bố trước mặt mọi người về Chúa Cứu Thế: "Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ thấp xuống" (Ga 3:30).

III. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ

Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta đều đã được Chúa tuyển chọn và ủy thác sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, ngày chúng ta được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Cũng ngày đó, chúng ta được Thánh Thần Chúa xức dầu hoan lạc, ban cho chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, phong chúng ta làm tiên tri và sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó, an ủi những tâm hồn đau thương buồn tủi, thăm viếng những tù nhân trong ngục thất, giúp đỡ chia sẻ với những người cùng khổ, những người mang số phận hẩm hiu bị đời quên lãng.

Mỗi người trong chúng ta tùy theo địa vị, chức phận mình trong xã hội, đều phải làm chứng nhân cho Chúa, rao giảng Chúa Kitô bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của mình.

Để chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta cũng không thể dùng phương thế nào khác, ngoài phương thế Thánh Gioan Tiền Hô đã dùng, là luôn đề cao Đấng mình rao giảng: "Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ xuống". Chúng ta cần phải đi ngược lại tâm tính tự nhiên của con người là kiêu căng, luôn thích đưa mình lên trên mọi người, đã bị lưu truyền do nguyên tội, vì: "Chúa thường chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm hạ" (Gc 4,6), như chính lời Chúa Kitô đã dạy: "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14,11).

Lênin, ông tổ đảng cộng sản quốc tế, chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, với tham vọng sẽ bá chủ hoàn cần, tiêu diệt mọi thứ tôn giáo mà ông cho là "Một thứ á phiện nguy hiểm" do bọn tư bản tạo ra. Mộng ước ngông cuồng của ông đã chẳng bao giờ thực hiện được. Lòng kiêu căng phạm thượng của ông thấu đến trời cao, đã bị uy quyền Thiên Chúa hủy diệt. Ông đã chết trong cơn hấp hối kinh hoàng, đau đớn dằm vặt đến tột độ, như chính lời Trosky, một người bạn thân tín của ông đã chứng kiến cảnh hấp hối hãi hùng đó đã quả quyết: "Nếu bọn ác quỉ có thể chết, thì tôi thiết tưởng: Chúng cũng chỉ chết cách ghê sợ đến thế là cùng!"

Kết Luận

Để dọn lòng xứng đáng đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy thực thi sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, bằng lời rao giảng sống động qua chính đời sống khiêm nhu thánh thiện của chúng ta, như Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gương: "Chúa cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải được hạ xuống" (Ga 3:30).

Hoặc như người phu đổ rác George Cummings Dalas luôn làm vừa lòng mọi người, để mọi người phải thán phục quả quyết về ông: "Chúng tôi biết ông ta là một người Công Giáo đơn sơ, một công dân ái quốc, và là một người bạn thân tình". Lại được ông Giám Đốc công ty vệ sinh công cộng để lời khen tặng: "Mọi người đều mến chuộng ông vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".

 

69. Dấu chỉ Đấng Messia - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống phục vụ, sống dấn thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng tiếc lại rất ít người dám cúi mình phục vụ tha nhân. Bản tính con người thường ham sướng sợ khổ. Con người luôn thích lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh. Người ta tìm hưởng thụ và sự an nhàn cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.

Dầu vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay vẫn còn đó những con chim én đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó vẫn còn đó những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên đường do bọn đinh tặc mất tính người rải ra. Đâu đó vẫn còn đó những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân đang nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn còn đó những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong...

Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng: có một cha già cố cả đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại cho mình cái gì. Ngài luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo trong xứ cái ăn, cái mặc mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt xuôi tay, người ta muốn tìm một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm thấy. Lúc đó, người giúp việc bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả, chỉ còn một bộ mặc trên mình và một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu gương sống đơn sơ và nghèo khó. Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ của Chúa. Một cuộc sống yêu thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho bản thân. Vì "cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu".

Đức Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân nhận thấy Ngài là Đấng Messia, Ngài đã tỏ mình ra trong thân phận một người tôi tớ phục vụ. Ngài đến trần gian trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo nàn trong thân phận bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: "Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng".

Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để yêu thương và phục vụ chúng ta.

Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Kitô, vì "người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau". Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.

Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.

 

70. Để con nên hình bóng Ngài

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Con người thời đại nào cũng cần chứng nhân. Một đời sống chứng nhân đích thực không dừng lại ở lời nói hoa mỹ mà ở chính cung cách sống phù hợp với lời rao giảng của mình. Có ai đó nói rằng: người ta chỉ thán phục những người nói hay nhưng họ sẽ kính phục những ai thực thi điều mình nói.

Đây chính là lời chứng hùng hồn của thánh Gioan B. Ngài đã sống trọn cuộc đời thanh thoát với chốn bụi trần để tâm hồn chỉ còn một niềm vui là ra đi làm chứng cho Đấng Cứu Thế giữa dòng đời. Lời rao giảng và kèm theo cách sống thanh thoát của ngài đã khơi gợi lên cho dân chúng một niềm vui của thời đại Messia đã đến. Niềm vui đó đã khiến hàng ngàn người thay đổi đời sống bằng sám hối và canh tân.

Trên dòng sông Jourdan năm đó người ta tuôn đến rất đông không chỉ để mong được nghe Gioan rao giảng mà quan yếu được gột rửa mình trong sông Jourdan. Dòng nước sông Jourdan được gột rửa với lòng sám hối đã mang lại niềm vui hoan lạc cho tâm hồn con người.

Xem ra dòng đời hôm nay rất cần những chứng nhân của Đức Ky-tô. Một đời sống chứng nhân có thể thay đổi lòng người và mang lại niềm vui nội tại cho những người mà ta đang sống. Một đời sống chứng nhân bằng bác ái, bằng dấn thân phục vụ cho người nghèo, người bệnh tật, già nua chính là phương thức hữu hiệu để dọn đường cho Chúa đến với thế gian.

Cám ơn Chúa trong dòng đời hôm nay ta vẫn thấy thấp thoáng những chứng nhân của Đức Ky-tô đang dấn thân trong mọi môi trường. Họ chính là những con chim én đang tìm đàn để tạo nên mùa xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó ta vẫn thấy những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên quốc lộ do người xấu rải ra. Đâu đó ta vẫn thấy những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó ta vẫn thấy những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó ta vẫn thấy những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong . . .

Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Đây cũng chính là dấu chỉ về thời đại Messia mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài mang tình thương đến cho muôn người.

Ngày 19.11 vừa qua Đức Thánh Cha Phanxico phát động ngày vì người nghèo, với chủ đề “tình yêu không bằng môi miệng mà phải hành động cụ thể”. Và chính ngài cũng mời người nghèo vào trong quảng trường dùng cơm với ngài trong tinh thần hòa đồng yêu thương. Phải chăng Đức Thánh Cha đang mời gọi chúng ta hãy trở nên dấu chỉ cho tình yêu Chúa bằng những công việc cụ thể “chia cơm sẻ áo”? Tình thương và lòng bác ái vốn dĩ là dấu chỉ về người môn đệ Chúa Ky-tô. Vì khi ta sống tình yêu ấy là ta đang họa lại chân dung về Đấng Messia cho nhân loại hôm nay.

Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Lễ giáng sinh cũng chính là lễ của tình yêu. Đấng Messia đã đến để mang lại niềm vui cho con người khi Ngài băng bó, chữa lành mọi tật nguyền cho dân. Khi Ngài dám chết cho người mình yêu. Chính cuộc đời của Ngài trở thành Tin mừng cho nhân thế.

Hôm nay Đấng Messia vẫn đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.

Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu muôn dân sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.

 

71. Hãy vui lên, vì Chúa đang ở giữa dân Người

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Khi nhìn vào cuộc đời bể dâu, Nguyễn Du đã từng thốt lên lời thơ ai oán qua truyện Kiều:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Cuộc đời buồn nhiều hơn vui. Dòng đời nước mắt nhiều hơn nụ cười. Kiếp nhân sinh vẫn đong đầy khổ đau của cái nghèo, cái bất công, cái áp bức, và bất hạnh. Cuộc sống vẫn đầy những lắng lo về cơm áo gạo tiền, về tương lai còn đầy đen tối.

Đó cũng chính là thảm cảnh của dân lưu lạc Israel. Họ phải sống kiếp nô lệ bên Babylon. Cuộc đời họ chìm đắm trong bể khổ trần ai. Chính trong thảm cảnh đầy nước mắt của kẻ lưu đầy, họ đã ngước về trời cao, trông mong Đấng Cứu Tinh giải thoát nhân trần. Biết bao lời ca ai oán: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây ơi, hãy mưa Đấng cứu tinh”, là bằng chứng cho thấy sự khát khao chờ mong sự giải thoát của Thiên Chúa dành cho họ.

Hôm nay, chúng ta nghe lời của tiên tri Isaia loan báo cho dân sứ điệp về niềm vui đã gần kề. Isaia mời gọi: Hãy vui lên vì ngày giải phóng đã đến. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Thiên Chúa sẽ lau khô giọt nước mắt. Thiên Chúa sẽ băng bó những vết thương. Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Người để ban bình an, hoà bình và thịnh vượng cho dân. Và niềm vui đó càng dâng cao khi Gioan rao giảng về triều đại Messia đã đến. Gioan đã chỉ cho dân thấy triều đại của Đấng Thiên Sai đã bắt đầu. Gioan còn mời gọi dân chúng đón nhận niềm vui bằng đời sống sám hối ăn năn. Gioan còn cảnh tỉnh dân chúng hãy tỉnh thức vì Chúa đã đến giữa dân Người. Gioan đã nhận mình là người làm chứng cho Đấng Messia. Ông chĩ là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

Vâng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bất công và hận thù, vẫn còn đó những giọt nước mắt lầm than, cơ cực. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người đau khổ triền miên, vẫn còn đó những mảnh đời đói khát cơ hàn. Họ đang cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Chúa giữa thế gian. Họ cần chúng ta làm chứng, không phải bằng lời nói mà bẳng hành động. Họ cần chúng ta dám dành cho họ những cái nhìn cảm thông, những lời ủi an khích lệ, thay cho thái độ bàng quan, dửng dưng trước nỗi khổ của đồng loại. Họ cần chúng ta dành cho họ những nghĩa cử bác ái, vị tha. Họ cần chúng ta sống yêu thương, để giới thiệu cho họ một Thiên Chúa đầy yêu thương đang hiện hữu giữa cuộc đời hôm nay. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ đem lại niềm vui cho những ai khổ đau. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ mang lại niềm vui cho những ai đang thất vọng, đang lần mò trong đêm tối của cô đơn, buồn chán.

Có ai đó đã nói thật chí lý rằng: “sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”. Lối sống của Gioan đã lôi kéo hàng ngàn người đến với ông, nhưng liệu rằng lối sống của chúng ta có thu phục người khác hay làm cho họ thất vọng về lối sống của chúng ta? Cuộc sống của chúng ta có thực sự là món quá mang lại niềm vui cho anh em hay là gánh nặng cho anh em?

Ước gì khi nhìn vào đời sống của chúng ta, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, vì chúng ta dám sống yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.

 

72. Bệnh thành tích

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Con người thường thích tạo ra vẻ hào nhoáng cho mình. Đó là điều mà thế gian bảo là thích đánh bóng cho bản thân. Bệnh thích đánh bóng cho bản thân mù quáng đến độ tự tạo cho mình một cái vỏ bọc hào nhoáng nhằm tìm kiếm những fan hâm mộ cho mình.

Ngày nay với công nghệ thông tin hiện đại, con người lại càng dễ dàng đánh bóng bản thân. Họ tự do tô vẽ mình trên các diễn đàn online, blog cá nhân, nơi mà mọi thứ, kể cả cuộc sống, đều là ảo. Họ sống ảo và ảo tưởng về chính bản thân mình. Đôi khi sự ảo tưởng còn trở thành lố bịch cho thiên hạ.

Có một chàng trai từng sinh ra và lớn lên ở một thị trấn nhỏ. Anh lên thành phố học và trở thành một luật sư.

Ra trường thất nghiệp, anh ta quay trở về quê mở một văn phòng luật sư ở ngay trung tâm thị trấn và trang trí cực kỳ bắt mắt.

Tuy nhiên, thị trấn nơi anh ở vốn rất yên bình và chẳng mấy khi người ta cần luật sư cả. Chờ mãi mà không thấy khách hàng nào đến, anh chàng lấy làm rầu lòng lắm!

Một hôm, anh ta nhìn thấy một người đàn ông bước vào văn phòng của mình. Để ra oai, ngay khi người đàn ông bước vào, anh ta liền nhấc ngay điện thoại và nói một cách lưu loát, vừa nói vừa ra hiệu cho người đàn ông ngồi chờ:

- Không, tất nhiên là không thể được! Tên tội phạm đó nổi tiếng nguy hiểm ở thành phố này và tôi không thể chấp nhận vụ này với giá ít hơn 100 ngàn đôla... Thật sao? Tại sao Tòa án tối cao lại có thể đưa ra phán quyết như thế cơ chứ?... Được rồi, anh yên tâm, vài ngày nữa tôi sẽ đến gặp ông chủ của anh để bàn bạc chi tiết hơn về vấn đề này… Yên tâm nhé! Tôi quyết theo vụ này đến cùng… Rồi! Ok! Ok!…

Đoạn anh ta gác máy và bước đến bắt tay người đàn ông nãy giờ đang ngồi chờ:

- Tôi thật sự xin lỗi vì đã để ngài chờ lâu như thế. Nhưng mà ngài thấy đấy, tôi quả là rất bận rộn… À, mà ngài đến đây có việc gì vậy nhỉ?

Người đàn ông trả lời:

- Tôi là nhân viên bưu điện đến để nối dây điện thoại cho anh thôi. Điện thoại anh hư rồi mà sao anh vẫn nói chuyện được nhỉ?

Thật xấu khổ khi tự đánh bóng mình mà bị phát hiện. Thật không có sự xấu hổ nào đáng thương khi giả dối bị phơi bày ra ánh sáng. Điều đáng sợ là người đánh bóng chính mình sẽ tự giết mình trong cô độc và cô đơn.

Trong Thần thoại Hy Lạp có một chàng trai tên là Narcisse, con của thần sông và tiên nữ Liriopé. Chàng đẹp đến nỗi có quá nhiều nữ thần say mê van xin tình yêu nhưng chàng vẫn một mực lạnh lùng từ chối.

Trong số những kẻ thất tình có Echo. Đau khổ vì bị Narcisse từ chối, Echo cầu xin các vị thần và các nữ thần cùng yêu chàng tập hợp lại để trừng phạt chàng. Từ đó, Narcisse sẽ chỉ được phép yêu chính bản thân chàng.

Một lần, Narcisse nghỉ ngơi bên bờ suối, chợt nhìn thấy bóng mình dưới nước, chàng ngẩn ra ngắm mình và chợt hiểu vì sao biết bao con tim của các cô gái lại tan vỡ vì mình. Càng ngắm, chàng càng ngưỡng mộ và say đắm cái bóng của mình. Nhưng cứ đụng tay vào nước suối, cái bóng lại tan vỡ. Cuối cùng, chàng chết trong mòn mỏi, với một khối tương tư cái bóng của chính mình.

Yêu mình và đánh bóng chính mình là chúng ta đang tự cắt đứt liên hệ với tha nhân. Điều đó dẫn con người đến chết trong cô độc. Nhưng tiếc thay, con người qua mọi thời đại lại thích đáng bóng chính mình. Họ tự phô diễn mình, đề cao mình và điều đó khiến họ trở nên cô đơn giữa anh em, và đôi khi chết trong cô độc.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã không đánh bóng chính mình. Ông đã làm mọi việc chỉ để giới thiệu Chúa cho tha nhân. Ông không ảo tưởng về mình, dù cho nhiều người từng ngộ nhận ông là Đấng Messia, nhưng ông đã tự biện bạch cho mình và còn lợi dụng cơ hội tốt lành này để giới thiệu Chúa cho tha nhân. Ông không nhận mình là ánh sáng mà chỉ là người được phản chiếu từ ánh sáng Thiên Chúa. Ông chỉ nhận mình là chứng nhân cho Đấng phải đền trong thế gian.

Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ được một vài thành tích đã nghĩ mình là Thiên Chúa. Họ ảo tưởng về những gì mình có là do tài trí, khôn ngoan của mình. Họ cố tình gạt Thiên Chúa để nhận mình là trung tâm mọi sự. Họ còn thêu dệt quanh đời mình bằng những thành tích, những hư danh để đánh bóng chính mình. Điều không ai ngờ là càng đánh bóng chính mình thì lại càng thất vọng về mình. Càng đề cao mình thì càng làm cho mình không bao giờ thỏa mãn về những gì mình đang có. Đó là điều khiến con người không bao giờ hạnh phúc về mình, và càng không bao giờ hạnh phúc về những gì mình đang có. Chỉ khi nào nhìn nhận những gì mình có là ân ban của Trời thì lúc đó con người mới hạnh phúc vì ân lộc trời ban. Chỉ khi nào con người gỡ bỏ đi những bệnh thành tích, ảo tưởng, đánh bóng chính mình thì lúc đó con người mới cảm thấy hạnh phúc về những gì mình đang có, lúc đó con người mới vui với phận mình mà cám ơn Thiên Chúa.

Mùa vọng nhắc nhở chúng ta Thiên Chúa đã đến với chúng ta và ở cùng chúng ta. Ngài hiện diện trong những thăng trầm cuộc đời chúng ta. Chính Ngài sẽ dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi trong tình yêu quan phòng của Ngài. Ngài sẽ bảo vệ, chở che nâng đỡ chúng ta. Thế nên, chúng ta hãy vui mừng vì Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta. Hãy vui mừng vì Ngài đang đồng hành với chúng ta. Hãy vui mừng vì Thiên Chúa đang can thiệp vào từng cuộc đời chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời còn đó những ngổn ngang lo lắng. Sự tín thác sẽ giúp chúng ta an vui trong cuộc sống và bước đi trong sự tin tưởng nơi Ngài. Amen.

 

73. Tiếng kêu trong hoang mạc

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

Mẹ Têrêsa có dịp qua Việt Nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ. Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình. Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ. Khi đến Việt Nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương. Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi). Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại. Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.

Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3. Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy. Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa,” với một thái độ tự nhiên, giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về. Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút, trước khi bắt đầu câu chuyện. Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về. Thái độ Mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ. Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ. Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một. Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai. Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình. Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị… (Trần Duy Nhiên, Hình ảnh Mẹ Têrêsa đối với tôi)

Bước vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), hay Chúa Nhật Hồng, vì Thánh Gioan Tiền Hô đem niềm vui cứu độ đến nhân loại. Ngài là chứng nhân của Ánh Sáng, cũng như Mẹ Têrêsa gần đây là chứng nhân hiện đại của Đức Giêsu.

Chứng nhân Gioan đã làm gì để thuyết phục dân chúng tuôn đến nghe rao giảng và ăn năn sám hối? Nếu không phải là ngài đã dám nói thật, sống thật và chết cho sự thật.

Nói thật

Thánh Gioan liên tiếp ba lần thưa “Không,” khi các tư tế và các thầy Lêvi xét hỏi, điều tra về nhân thân. Ngài quyết liệt phủ nhận những danh xưng ngộ nhận. Nói thẳng, nói thật, nói đúng lúc, nói chính xác, là đức tính cần thiết và tiên quyết của người chứng. Danh chính, ngôn thuận, sự tất thành.

Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải nói thật, huống chi chứng nhân: “Có” thì nói “có”, “không” thì nói “không.” Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5, 37) Thánh Giacôbê lập lại lời Chúa dạy và khuyên nhủ: “Nhưng hễ “có” thì phải nói “có’, “không” thì phải nói “không,” như thế anh em sẽ không bị xét xử.” (Gc 5, 12)

Chứng nhân Gioan không hề lợi khẩu, bẻo mép, xảo ngôn, ngụy biện hòng mê hoặc, hay mị dân như xưa nay người ta quen ứng xử. Ngài không bạc nhược, nể nang, sợ hãi, cũng chẳng ấm ớ hội tề, rằng, thì, là, mà, cũng như không hề giấu diếm nỗi bất bình, khi chỉ tận tay, day tận mặt nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến với ngài, chịu phép rửa: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7)

Sống thật

Ngôn hành hợp nhất, nói sao làm thế, chứng nhân Gioan sống hoàn toàn chay tịnh, đơn giản từ cái ăn đến cái mặc, vô gia cư, vô sản chuyên chính nghiêm minh, chẳng hề môi mép, vờ vịt, giả vờ nghèo khó.“Rượu lạt, rượu nồng em sẽ đều không uống.” (Lc 1, 17) Nếp sống thanh bần tận cùng đã lay động lòng người, cảm hóa, thuyết phục mọi người vội vã tìm đến nghe giảng dạy, ăn năn sám hối và chịu phép rửa.

Khổ tu với thái độ khiêm nhường, hãm mình, chuyên tâm cầu nguyện và thực hiện hoàn hảo Thánh Ý Chúa, Thánh Gioan chỉ dám đơn sơ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đánh động lòng người quay về đường ngay nẻo chính. Đức Giêsu ngợi khen thánh Gioan: “Tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa….Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan.” (Lc 7, 26-28)

Chết cho Sự Thật

Không những sống theo lời chứng, thánh Gioan còn sẵn sàng chịu chết cho Sự Thật, khi công khai can ngăn vua Hêrôđê lấy chị dâu làm vợ. “Ngài không được phép lấy bà ấy.” (Mt 14, 4) Không hề run sợ trước bạo quyền, Ngài không hèn nhác tránh né nhiệm vụ ngôn sứ. Cũng chẳng làm ngơ, giả mù sa mưa trước gương mù, gương xấu của nhà lãnh đạo, sẵn sàng đánh cược mạng sống để bảo vệ luân lý, đạo đức và Sự Thật.

Thời nay càng khẩn thiết cần đến chứng nhân trung tín, nhiệt thành và dám hy sinh trọn vẹn, như Thánh Gioan Tiền Hô. ĐTC Phaolô VI đã thao thức trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi: “Ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy.” Bởi vì Giáo Hội quá dư thừa thầy dạy, thầy giảng, thầy lý thuyết, mà quá thiếu thốn chứng nhân hợp nhất ngôn hành.

“Thủy thủ lặn dưới đáy biển, phi hành gia bay trên phi thuyền đều dấn thân mạo hiểm vì khoa học. Ngày nào con bỏ tất cả và bất cứ giây phút nào cũng sẵn sàng liều mình vì Chúa, người ta mới tin đời nội tâm con.” (Đường Hy Vọng, số 84)

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi, cải hóa tâm hồn chúng con, loại bỏ tất cả những gì thuộc về cái tôi, bản ngã, tất cả những đam mê thế gian, trần tục, của cải, danh vọng, chức tước, quyền lực, ham muốn, để xứng đáng đón Chúa ngự vào.

Lạy Mẹ Maria, mẫu gương khiêm nhường và dấn thân xả kỷ, xin giúp chúng con thoát tục tòng thiên, biết ưu tiên chọn Chúa, theo Chúa và sống Lời Chúa luôn. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ