Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 61
Tổng truy cập: 1372647
GẶP ĐƯỢC CHÚA CỨU THẾ
Gặp được Chúa Cứu Thế
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.
Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên Chúa.
Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.
72. Thắp đèn cho ai? - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một anh mù đến nhà cậu bạn chơi. Khi trời tối, anh muốn về nhà, người bạn liền thắp một chiếc đèn lồng, đưa cho anh rồi bảo: “Ngoài trời tối rồi, anh cầm cái đèn này đi cho sáng nhé”.
Anh mù nghe vậy tức giận nói: “Sao cậu lại nói vậy. Rõ ràng ai cũng biết tôi bị mù. Tôi cầm đèn lồng để soi đường không phải để người đời cười nhạo sao?”.
Người bạn nhẹ nhàng giải thích: “Anh hiểu lầm ý của tôi. Vì tôi nghĩ giờ này rất nhiều người cũng đi trên đường. Anh cầm đèn lồng, người khác có thể nhìn thấy anh, vì vậy sẽ không thể đụng vào anh được”.
Anh mù nghĩ một lát rồi nói: “Ừ, cậu nói có lý. Cảm ơn nhé! Tôi về đây”.
Hóa ra thắp đèn sáng không hẳn cho mình mà còn cho người khác. Ở đâu đó trong một góc khuất có ánh đèn sáng sẽ làm cho khách bộ hành an tâm. Ở đâu đó có ngọn hải đăng sẽ làm cho người đi biển biết hướng về bình an.
Nếu hiểu rằng mỗi người là một ánh sao thì cuộc đời chúng ta cũng cần được thắp lên để mang lại bình an hạnh phúc cho tha nhân. Ở tuổi thiếu niên chúng ta vẫn hát với nhau về một niềm mơ ước rằng:
"Đếm ánh sao đêm tôi gọi người,
Hồng xanh xanh hồng xanh xám xanh.
Ngôi sao xanh chính là anh đó,
Ngôi sao vàng đó của chị đây.
Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen."
Chúng ta mơ ước mình là một ánh sao. Ánh sao thì có đủ màu. Ánh sao thì luôn tỏa sáng. Không bao giờ có ánh sao đen. Nếu ý thức mình là những vì sao trên trời, chúng ta phải sống cuộc sống của những vì sao: thoải mái trong một không gian mênh mông và chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh tùy theo sức sáng mình có. Đất đáthì sống cuộc đời chật hẹp, tăm tối, kèn cựa nhau, nhưng những vì sao thì sống thanh thoát, vừa thi đua tỏa sáng vừa tôn trọng sự sáng của nhau.
Hành trình Ba Vua đến gặp hài nhi Giêsu cũng cần một ánh sao dẫn lối. Tuy hành trình cũng có lúc bế tắc vì không có ánh sao nhưng với sự kiên nhẫn họ đã vượt qua. Họ từng lần mò trong thành phố nhưng chỉ gặp những người chỉ đường đầy toan tính, vụ lợi. Họ thất vọng vì giữa thủ đô lại thiếu một ánh sao thanh thoát tô thêm vẻ đẹp cho bầu trời. Nhưng họ không bỏ cuộc. Họ tiếp tục lần mò trong bóng đêm của thế giới đầy tội ác. Và rồi sự kiên trì đã được đền đáp. Ánh sao lại xuất hiện dẫn họ đến triều bái Hài Nhi mới giáng sinh nơi hang đá Belem.
Cuộc đời hôm nay vẫn có những người đang đi tìm chân lý, tìm lẽ sống. Có rất nhiều người đang mong mỏi có một ánh sao dẫn lối đưa đường cho họ. Họ cần nơi người tín hữu hãy sống thanh thoát như những vì sao không bon chen ngụp lặn trong bóng tối tham lam, ghen ghét, lừa đảo. Họ cần người tín hữu tỏa sáng giữa bầu trời ích kỷ này một ánh sáng bác ái vị tha.
Vâng giữa một thế giới mà bóng tối của thù hận, ghen ghét, tham lam, lừa đảo và hưởng thụ thì rất cần một ánh sao sáng giúp con người biết nhìn nhận nhau là anh em để rồi biết sống kính trọng và yêu thương nhau hơn. Giữa một thế giới đang khao khát gương sáng cũng đòi hỏi người ky-tô hữu hãy tỏa sáng phúc âm để mang tình yêu và hy vọng cho nhân gian.
Ước gì từng người chúng ta hãy trở thành ánh sao sáng để xóa tan bóng đêm của tội lỗi. Xin đừng vì ích kỷ và đam mê mà dập tắt ánh sáng tình thương nơi họa ảnh Thiên Chúa là con người chúng ta. Amen.
73. Đường đến với Chúa
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống người ta vẫn gọi là chốn ba đào. Cuộc sống chẳng mấy khi bình yên. Con người luôn phải tất bật vì cơm áo gạo tiền, vì công danh sự nghiệp, vì bổn phận với gia đình và xã hội. Có nhiều người cảm thấy cuộc sống mệt mỏi quá! Cuộc sống sao cứ đưa đến cho ta biết bao khó khăn thử thách! Những lúc ấy chúng ta cảm thấy mình đơn độc. Chúng ta cảm thấy mọi người bỏ mình để lại khó khăn cho một mình ta. Chính lúc ấy ta cũng cảm thấy Chúa cũng bỏ rơi. Làm sao có thể đến với Chúa, tin vào Chúa khi cuộc đời cứ trăm bề khổ đau?
Vâng, có bao giờ bạn cảm thấy như Chúa bỏ rơi bạn không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc bạn rất cần đến Ngài. Giữa những lúc túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bạn kêu cầu: Lạy Chúa, xin đừng để chuyện này xảy đến cho con. Nhưng chuyện vẫn xảy ra. Dường như lúc nào bạn cũng đứng về phe thua bại. Bạn hãy nghe câu chuyện sau đây:
Một người nằm mộng thấy mỗi lần mình đồng hành với Chúa đều thấy để lại trên bãi cát dấu chân của Chúa và của mình song hành nhau. Nhưng mỗi lần gặp bão tố, thì thấy chỉ có một dấu chân mà thôi.
Người ấy hỏi Chúa rằng:
Thưa Chúa! Tại sao lúc cuộc đời của con bình yên, thoải mái, êm đềm, con thấy hằn lên trên bãi cát dấu chân của Chúa và của con song song với nhau. Nhưng trong những lúc đời con gặp khó khăn, sóng to gió lớn dập vùi, đau khổ tối tăm, thì con chỉ thấy có một dấu chân của con hằn lên bãi cát mà thôi? Phải chăng đó là những lúc Ngài bỏ rơi con, để con một mình giữa trần gian giông tố? Phải chăng đó là lúc Ngài không còn quan tâm đến con và phó mặc con cho số phận cuộc đời?
Nhưng Chúa nhẹ nhàng trả lời rằng:
- Con ơi! Những dấu chân độc hành con thấy trên bãi cát trắng đó không phải là của con đâu! Đó là dấu chân của ta, ta bước đi một mình, còn con thì ta đã bồng ẵm vào lòng của ta.
Niềm tin vào Chúa mời gọi chúng ta hãy vững tin vì Chúa Giêsu đã từng nói: "Ta chẳng lìa con, chẳng bỏ con bao giờ" (Dt 13,5).
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: "Chúa hằng hữu bênh vực tôi, tôi còn sợ loài người làm chi tôi nữa" (Tv 118,6).
Hôm nay lễ Ba Vua cho chúng ta nhìn lại hành trình đến với Chúa của Ba Vua. Đó là hành trình vượt ngàn gian khổ. Gian khổ về địa lý đồi núi, hiểm trở xa cách ngàn trùng. Gian khổ vì bế tắc đôi khi không biết mình đi đâu? Hỏi đường thì gặp các Vua Chúa quan quyền thâm độc nguy hiểm. Giữa những bơ vơ cuộc đời họ lại được ánh sáo dẫn dắt đưa đường. Dù là ánh sao lẻ loi nhưng cũng cho họ niềm tin và nghị lực.
Ánh sao đó định hướng cho Ba Vua tìm gặp vị quân vương mới sinh. Ánh sao đó cho Ba Vua niềm tin để bước đi. Khi có niềm tin và hy vọng gặp được Chúa thì mọi lo âu, ưu phiền hay gian khổ cũng sẽ qua. Vì cuối hành trình ta luôn gặp được Đấng mà ta tôn thờ.
Vâng thưa anh chị em, con đường đến với Chúa, tìm gặp Chúa luôn gặp khó khăn nhưng không có đường cùng nhất là còn có Chúa đồng hành. Chúa sẽ cho ta những ánh sao là những ân nhân, những phương tiện để giúp chúng ta vượt qua. Hãy tin tưởng và bước đi theo ánh sao là tiếng nói của con tim yêu mến Chúa trên hết mọi sự, của lương tâm ngay thẳng, của lòng trung kiên với Chúa.
Hành trình cuộc đời nào cũng có khó khăn. Con đường nào cũng có gian khổ. Hãy tin rằng cuối chân trời ta luôn có Chúa. Hãy tin tưởng vào sự dắt dắt của Chúa mà mạnh dạn bước đi. Hãy phó thác đường đời trong tay Chúa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ và phù giúp đời ta.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa mà bước đi theo thánh ý Thiên Chúa. Ước gì cuộc đời ta luôn có ánh sao dẫn dắt để ta đi theo con đường của Chúa, con đường của tin yêu và hy vọng. Amen.
74. Lý do Chúa làm người
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Có anh chàng trai chẳng hề tin hay nghĩ tưởng gì đến Chúa. Chàng cũng làm ngơ các thánh lễ hằng tuần. Vợ chàng trái lại rất sùng đạo. Nàng cố gắng nuôi dạy con cái thấm nhuần lòng tin vào Chúa, mặc kệ những lời xỏ xiên của người chồng cứng lòng.
Đêm vọng Giáng Sinh, khi nghe vợ con ngỏ ý mời mình đi dự lễ đêm, chàng càu nhàu: “Vô nghĩa! Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế! Nghe như chuyện khôi hài!”
Vợ con đi rồi, chàng ở nhà một mình. Qua khung cửa sổ, chàng thấy những mảng tuyết đang đổ xuống theo từng đợt gió giật. Nhìn ra khoảnh sân, chàng thấy cả một bầy ngỗng trời ở đâu kéo tới. Chắc hẳn, trên đường xuôi nam, bọn ngỗng gặp bão thành ra lưu lạc chốn này. Chúng như mất hướng, bay lòng vòng quanh quẩn, chắc đang tìm thức ăn và chỗ nào đó kín khuất để tá túc. Chàng bỗng động lòng, nghĩ đến dãy trại sau nhà, nơi được coi là ấm cúng và yên ổn cho chúng tạm trú qua đêm chờ cơn bão tan. Nghĩ thế, chàng mò ra phía sau nhà, đến đầu dãy trại, mở toang cánh cửa lớn ra như để đón chào đàn ngỗng lưu lạc. Thế nhưng, dường như mắt chúng ra như mù loà, không hề nhìn thấy cánh cửa trại đã mở toang hoác, càng không hề biết đến hảo ý của chàng. Chúng cứ tiếp tục bay nhảy vô định, lại chạm vào khung kính, và đụng vào hàng giậu thưa. Càng cố làm cho chúng chú ý đến mình, thì chúng lại càng tỏ ra hoảng sợ chàng, và tản ra xa hơn. Càng cố lùa chúng hướng về phía cửa trại thì chúng lại càng đi sang hướng khác. Thì ra chúng vẫn sợ chàng, vẫn không dám theo chàng, bởi vì chàng đâu phải đồng loại của chúng đâu. Nghĩ thế rồi, chàng bước vào trại, ôm lấy một con ngỗng đang nuôi trong trại, mang ra nhử nhử rồi thả chung với đàn ngỗng trời. Con ngỗng của chàng đã quen thuộc với đường đi lối về, liền lăm lăm đi trở vào cổng trại để trốn giá lạnh mùa đông. Thế là từng con ngỗng trời nối đuôi theo nó, đi dần vào bên trong trại, ấm áp và an toàn.
Như chợt nhận ra điều gì đó, chàng suy nghĩ về lời mình đã càu nhàu với vợ: “Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế!”. Rồi chàng bỗng thấy đây không còn là chuyện khôi hài nữa. Lần đầu tiên trong đời, chàng hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Giáng Sinh.
Ngoài trời, bão tuyết đã ngừng, và gió đã lặng. Trong tâm tư chàng, cơn bão hoài nghi cũng biến tan. Có một chút yên lành len lỏi vào tâm hồn chàng. Bỗng dưng, chàng quỳ gối xuống, chắp đôi tay lại. Lời kinh từ thuở tấm bé mà chàng đã được học bỗng nhiên khe khẽ rung trên bờ môi: “Con cám ơn Đức Chúa Trời… đã cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết vì con…”.
Thiên Chúa làm người để cho con người làm con Thiên Chúa. Chúa cúi xuống thân phận loài người để dẫn loài người về bến bờ bình yên là hạnh phúc Nước Trời. Đàn ngỗng cần lắm một con ngỗng quen thuộc đường đi lối về mới có thể dẫn cả đàn thoát giông bão hiểm nguy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời xuống trần, thế nên, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn con người về với trời cao. Cũng như chiếc phi cơ phải hạ cánh thì mới đưa hành khách bay bổng lên trời. Không có sự xuống thế của Ngôi Hai Thiên Chúa thì không có cuộc về trời của con người.
Nhưng đâu là dấu chỉ về Con Thiên Chúa làm người? Làm sao con người có thể nhận ra đâu là Thiên Chúa qua thân phận con người? Năm xưa, các mục đồng đã nhờ thiên thần loan báo mà biết Con Thiên Chúa hạ sinh. Ba vua từ phương đông đã nhờ ánh sao dẫn đường để tới bái kiến Vua Trời giáng sinh. Chúa Giêsu đã nhờ Gioan để dọn đường và giới thiệu khi người đến.
Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đang cần chúng ta là những mục đồng loan tin Chúa cứu thế hạ sinh. Ngài đang cần niềm tin của chúng ta phải tỏa sáng như ánh sao dẫn lối tha nhân đến với Chúa. Ước mong niềm vui giáng sinh được lan tỏa đến mọi người và mọi nhà nhờ vào ánh sáng niềm tin của chúng ta. Một niềm tin được tỏa sáng qua đời sống thanh thoát khỏi những đam mê tội lỗi, những trào lưu tục hóa đang thống trị thế giới. Một niềm tin trung kiên để từ khước những bổng lộc trần gian để sống trung tín với giới luật của Chúa. Một niềm tin sắt son để luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống.
Chính nhờ đức tin ấy,lối sống đạo ấy mà chúng ta trở thành ánh sao dẫn lối cho muôn dân tìm gặp và tôn thờ Chúa. Amen.
75. Ðấng cứu độ tỏ mình cho muôn dân
Nguyện Chúa trời dủ thương và chúc phúc,
Xin tỏa ánh rạng ngời trên chúng con
Cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa
Và muôn nước biết ơn cứu độ của người. (Tv 66, 1-4)
Lời cầu xin của dân Do thái trong thánh vịnh 66 đã được Thiên Chúa Yavê nhậm lời. Vào thời viên mãn, Ngài đã tỏ mình ra không những cho những người Do thái mà thôi mà còn cho muôn dân được biết ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô.
1. Chúa Giêsu tỏ mình cho dân Israel: Thiên Chúa yêu thương dân Israel và luôn luôn tỏ mình ra cho họ trước. Đầu tiên, Chúa tỏ mình cho những người nghèo, những người chăn chiên đang mong được đổi đời, được cứu độ: Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Sứ thần Chúa hiện đến bên họ báo tin vui: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô và là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (x. Lc 2, 9-12). Những người chăn chiên này được Chúa chọn làm đại diện cho dân Israel đón mừng Đấng Cứu Thế ngự đến.
Chúa đã để ngôi sao biến đi trong một khoảng thời gian để các nhà đạo sĩ đến gặp vua Hêrôđê, gián tiếp loan tin Chúa cứu thế ra đời: vua Do thái hiện sinh ra ở đâu. Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người. Vua Hêrôđê và tất cả Giêrusalem đều bối rối về thông tin này. Vua mình ngự đến mà mình không biết, không lo đón tiếp, còn những người ngoại lại nhận biết. Giải thích sao bây giờ! Vua triệu tập tất cả đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân để hỏi cho biết nơi Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu: xứ Bêlem, đất Giuđa như lời tiên tri đã chép. Như vậy, Chúa đã gián tiếp tỏ mình ra cho dân Israel khi mới sinh ra. Ai có lòng tìm kiếm sẽ gặp được Người. Tuy nhiên, có điều đáng buồn là ai cũng lo công ăn việc làm hoặc coi trọng việc vui chơi giải trí hơn nên không tìm đến làng Bêlem để tìm gặp Chúa! Chỉ có Hêrôđê là muốn tìm gặp Chúa nhưng không phải để tỏ lòng kính tôn mà để giết hại Đấng Cứu Thế cho ngai vàng trần gian mình được vững!
2. Chúa tỏ mình cho dân ngoại: Chúa Giêsu xuống thế làm người không chỉ để cứu độ dân Israel mà còn cứu chuộc muôn dân nữa. Vì thế, Chúa đã tỏ mình qua một dấu chỉ là ngôi sao lạ trên bầu trời khiến những người ngọai biết tìm hiểu về ơn cứu độ và những dấu hiệu của trời đất có thể nhận biết và tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng và sự hăng hái tìm Chúa của họ đáng cho con cái Chúa phải giựt mình về sự thờ ơ của mình.
Chúa đã thưởng công khó nhọc và lòng chân thành tìm Chúa của ba nhà đạo sĩ, họ đã gặp được Đấng Cứu Thế trong hình dạng một em bé mới sinh. Họ tin, quỳ gối xuống thờ lạy Người rồi dâng tiến những lễ vật quý giá tượng trưng cho lòng thành kính của họ: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian đã tỏ mình ra cho những người Do thái cũng như dân ngoại và hôm nay đang tỏ mình qua Giáo hội của Ngài. Giáo hội là Bí tích ơn cứu độ muôn dân còn chúng ta là thành phần của Giáo Hội, là con cái Chúa. Chúng ta có bổn phận giúp người khác tìm đến Chúa bằng gương sáng và đời sống nhiệt thành với đạo Chúa, tốt với mọi người để Chúa được tỏ mình ra cho mọi người qua chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta hãy thiết tha cầu xin cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến trong lòng mọi người.
76. Mỗi tín hữu là một Ánh Sao dẫn đường
(Suy niệm của Giuse Đỗ Văn Phi, OP)
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mátthêu hôm nay cho chúng ta biết: Bê-lem là nơi Hài Nhi Giêsu đã cất tiếng khóc chào đời, thời vua Hêrôđê trị vì. Như thế, thánh Mátthêu đã gián tiếp khẳng định: Đức Giêsu là người của lịch sử, cách riêng Ngài là người của lịch sử dân tộc Do-thái – dân riêng của Thiên Chúa.
Chính Đức Giêsu là con người chiếu sáng cho cả quá khứ và đem lại ý nghĩa cho cả giòng lịch sử dân Chúa. Chính Ngài sẽ căn cứ vào lịch sử quá khứ dân tộc mình để từng bước nhận ra được ý nghĩa sứ mạng của mình và cách thức hoàn thành sứ mạng ấy.
Sau khi xác định nơi chôn nhau cắt rốn của Đấng Cứu Thế, thánh Mátthêu tiếp tục kể lại biến cố các đạo sĩ phương Đông tới bái lạy Hài Nhi Giêsu. Đó là những nhà chiêm tinh, có thể họ đã đọc được dấu lạ do thấy ánh sáng của hành tinh sao mộc và sao thổ lồng vào nhau. Hay nói một cách đơn giản: lời loan báo về ngôi sao phát xuất từ nhà Gia-cóp đã được ứng nghiệm với biến cố sinh ra của Đức Giêsu là vị cứu tinh. (x. Ds 24,17)
Nhưng điều được nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là dân ngoại mà các đạo sĩ là người đại diện, đã đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Trái ngược với sự hăng say nhiệt thành của các đạo sĩ phương Đông là sự bàng quan của các nhà lãnh tụ đạo và đời tại thành thánh Giêrusalem, họ không hề nhúc nhích. Riêng vua Hêrôđê có nói đến việc vua sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh, nhưng thực ra ông ta chỉ muốn đến để mưu sát Ngài mà thôi.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và sẵn sàng bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ lắm mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một hang bò lừa ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của chúng ta, đưa chúng ta vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng chúng ta gặp được sự vững vàng trong Chúa.
*
Cuộc sống ngày hôm nay đặt con người trước nhiều thách đố phải chọn lựa. Thách đố phải sống cho sự công bằng trong một xã hội có quá nhiều bất công. Thách đố phải sống tình liên đới và yêu thương trong một xã hội có quá nhiều chiến tranh và hận thù. Chúa Kitô đã đến và chiếu tỏa ánh sáng của Ngài vào thế gian. Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng của yêu thương, hoà bình và xây dựng.
‘Giáng Sinh’ gợi lại cho chúng ta một biến cố trọng đại: biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người. Ngài đến với tất cả mọi người, thuộc mọi quốc gia và ngôn ngữ. Ngài đến để mang lại niềm vui và bình an, mạc khải cho con người một vương quốc vĩnh cửu, mời gọi chúng ta bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng dẫn vào sự sống.
Trong giây phút thinh lặng này, chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chiếu tỏa tâm hồn chúng ta, hầu nhận ra Chúa đang hiển linh trong chính cuộc sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa đã đến thế gian để con người được sống và sống dồi dào. Xin cho mọi người luôn biết tôn trọng sự sống là ân huệ Chúa ban, để không còn cảnh các thai nhi bị từ chối quyền được sinh ra nhưng các em sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống giữa một thế giới mà nhiều người chưa nhận biết Chúa, nhiều người đang đánh mất niềm tin vào Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa. Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành ánh sao dẫn đưa những ai đang lầm đường lạc lối trở về với Chúa để họ được sống và sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
77. Mỗi người là một ánh sao cho nhau
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con người sẽ tương ứng với một ánh sao trên trời. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi cũng ví von: con người là một ánh sao, có ánh sao xanh, có ánh sao hồng nhưng không có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi dẫn, thế nên phải là ánh màu lung linh, không thể là ngôi sao đen giữa đêm tối nên sẽ chẳng có tác dụng gì với con người.
Hôm nay, ba vua cũng nhờ một ánh sao dẫn lối đưa đường đến triều bái Đấng cứu tinh nhân loại. Ánh sao đã dẫn họ đến hang Belem, nơi hài nhi, Con Vua Trời mới hạ sinh. Họ đã tin vào ánh sao để nhận ra thân phận vị cứu tinh nhân trần từ chính khung cảnh nghèo nàn của kiếp người. Họ đã tin vào ánh sao để có thể cúi mình thờ lạy một hài nhì yếu ớt con của một gia đình nghèo khó. Họ đã nhờ ánh sao để tìm thấy chân lý trong nghịch cảnh đời sống.
Vâng, Đấng cứu tinh mà họ mong gặp là một hài nhi được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy đáng lẽ phải được toàn dân Giê-ru-sa-lem đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ thờ ơ mà còn muốn loại trừ. Ngay cả những con người được coi là người quyền cao chức trọng vẫn không thể gặp được Ngài. Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo về truyền thống. Hê-rô-đê thì tìm kiếm nhưng không phải để triều bái mà là để tìm cách huỷ diệt.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Họ là đại diện cho những con người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao khát an bình. Họ đã nhận ra thân phận hài nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ lại là Vua Cả Trời Đất. Đấng phải đến trong thế gian để đem lại công lý và hoà bình cho trần gian.
Ánh sao từ trời cao hôm nay vẫn chiếu xuống nhân trần. Ánh sao hôm nay vẫn là ý Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là tiếng nói lương tâm mời gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối. Hãy từ bỏ lối sống đam mê lầm lạc của bóng tối tội lỗi để bước đi trong ánh sáng lề luật. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn sống chai lỳ trong bóng tối tội lỗi. Biết bao bạn trẻ vẫn lao mình trong những đam mê lầm lạc của xì-ke ma tuý và thác loạn. Biết bao người vì danh lợi thú trần gian mà đánh mất lương tri con người. Biết bao người vì đam mê bất chính mà sống thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân. Biết bao người vẫn tìm kiếm thú vui trần thế mà bán rẻ nhân cách, nhân phẩm của chính mình.
Sứ điệp của ngày lễ hiển linh còn là tiếng mời gọi con người hãy là ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử khoan dung nhân ái với nhau. Thế giới hôm nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghi kỵ, hiểu lầm. Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể thiếu ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng của niềm tin để mọi người tin tưởng lẫn nhau. Không có niềm tin gia đình sẽ không có thuận hoà, chỉ có đố kỵ và ghen tương. Gia đình cần có ánh sáng tình yêu và tha thứ để mọi người biết cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì đời sống của người ky-tô hữu chúng ta luôn toả sáng những hành vi bác ái, yêu thương, những nghĩa cử nhân ái bao dung để nâng đỡ những ai đang cô đơn, thất vọng, đang sống trong cảnh lầm than tìm được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Amen.
78. Một vì sao xuất hiện
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Tình cờ tôi được nghe hai cô gái nói chuyện
Cô A: Hình như bạn và anh ấy đã chia tay?
Cô B: Chúng mình không hợp nên chia tay rồi
Cô A: Thế cái thai trong bụng của bạn thì sao?
Cô B: Mình bỏ rồi...
“Mình bỏ rồi” sao nghe dễ dàng thế! Yêu nhau có thai - không cưới - rồi bỏ. Hóa ra thai nhi chỉ là một vật bên ngoài tình yêu. Còn yêu nhau thì giữ nếu chia tay thì bỏ. Hóa ra sự sống thai nhi chẳng có giá trị gì khi họ không còn yêu nhau. Xem thường giá trị sự sống người ta cũng lạnh lùng vứt bỏ nếu không thấy có lợi cho bản thân của họ. Cho dù thai nhi vô tội nhưng để trả thù người yêu, để che dấu người đời, để tránh nghèo đói... người ta vẫn đang tâm vứt bỏ các thai nhi.
Tại Bình Lâm có nghĩa trang Thai Nhi mà chúng tôi đặt tên là “Vườn Thánh Thai Nhi”. Vườn thánh được thành lập ngày 04.03.2011 tới nay đã chôn cất gần 3000 thai nhi. Đây là một làng quê rất yên bình gồm những con người nông dân hiền hòa chất phác sao bỗng dưng lại ác độc đến lạ thường. Mỗi ngày trung bình có 10 bà mẹ giết hại các thai nhi. Nhìn các thai nhi có khi chỉ là một giọt máu bọc trong khăn cũng khiến chúng ta đau lòng. Sao lại nhẫn tâm thế. Các thai nhi là giọt máu của họ cơ mà? Sao lại cạn tình đến vứt bỏ giọt máu đào của mình!
Có đôi lần tôi hỏi một vài bà mẹ: Tại sao lại bỏ con. Người thì bảo tại nhà đông con quá rồi. Người thì bảo tại nhà nghèo. Kẻ thì bảo tại chồng không thương. Hóa ra chỉ vì trẻ nhỏ này sinh ra không có lợi cho mình nên cam tâm dứt bỏ.
Chúa Giêsu cũng từng là tâm điểm để người ta chống đối, gạt bỏ. Họ là những Hê-rô-đê sợ mất ngai vàng. Họ là những biệt phái luật sĩ sợ bị phơi bày ra ánh sáng việc làm giả hình của họ. Họ là những người dân quê thiếu hiểu biết lại hùa theo đám đông để kết án Chúa.
Hoàn cảnh của Chúa Giêsu cũng giống như hoàn cảnh của các thai nhi hôm nay. Người đời có muôn ngàn lý do để gạt bỏ quyền sống của các thai nhi vô tội! Người đời cũng có muôn vàn cách để loại trừ một mầm sống thật thánh thiện trong sáng như các vì sao trên trời.
Thế nhưng, giữa một không gian đầy sự dữ ấy vẫn còn có những con người lặng lẽ đi tìm hài nhi Giêsu. Họ là các đạo sĩ từ phương đông. Họ nhìn thấy hài nhi không phải là một gánh nặng mà là một quân vương. Họ đến để triều bái hài nhi.
Ở Mỹ người ta nói: “Mỗi một trẻ nhỏ đều có thể là một tổng thống Hoa Kỳ”. Nếu ở đời người ta đều nhìn trẻ nhỏ với một tương lai tốt như thế có lẽ sẽ không còn những nghĩa trang thai nhi đông đảo như hôm nay. Nếu con người biết nhìn các thai nhi với cái nhìn tích cực thì sẽ bớt đi những tội ác giã man mà con người hôm nay đang hành động trên sự sống của các thai nhi.
Chúa hiển linh trong thân phận một hài nhi. Ngài muốn mời gọi con người hãy tôn trọng sự sống, hãy bảo vệ sự sống. Ngài muốn nhắc nhở rằng chính Ngài vẫn đang hiển linh nơi những hài nhi nhỏ bé đang hiện diện trước mặt chúng ta. Ước gì chúng ta biết nhìn các thai nhi như các vì sao trên trời luôn chiếu sáng, luôn mang lại lợi ích cho cuộc sống để nhờ đó chúng ta yêu quý sự sống, bảo vệ sự sống và đón nhận sự sống như món quá Chúa ban. Xin đừng nhìn các thai nhi là gánh nặng để rồi tẩy chay hay vứt bỏ. Amen.
79. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chỗ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách, tù đầy...
Cậu bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân vương.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
80. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Như đã nói, thật là dại dột nếu muốn xem ký sự của thánh Matthêu như một phóng sự lịch sự tuyệt đối chính xác. Sự kiện đã xảy ra thật, được thánh chép sử- hoặc cựu truyền mà ông nhắc lại lồng trong một hình thái ký sự hoà hợp với văn hoá Cựu Ước và não trạng người đương thời. Những sự kiện rất thật lẫn lộn với những yếu tố được rút ra từ ký ức tôn giáo của dân tộc và cả từ Kinh Thánh nữa. Đối với chúng ta, điều chủ yếu là thu lượm ký sự này lời giáo huấn mà thánh sử muốn truyền đạt. Vả lại ông cũng không chú ý đến sự kiện lịch sử vì bản chất của nó, chỉ cốt soi sáng để làm nổi rõ tầm mức của sự kiện.
1) Sự kiện ba nhà Đạo sĩ đến thờ lạy ‘Vua của người Do Thái’ làm cho Hêrôđê động tính hiếu kỳ, rốt cục nổi giận, sự kiện đó cho thấy Đức Giêsu được thụ phong một vương quyền thời đó, thánh Matthêu đem đối chiếu thái độ các đạo sĩ nó tương phản với cách xử sự của Hêrôđê. Một bên là những người tìm kiếm Chúa – bên kia là một ông vua chuyên chế bị tư lợi và kiêu ngạo làm mờ mắt. Điều này mời chúng ta nhớ lại tính chất của Vương quyền Chúa. Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh, và đã vào trong Vinh Quang Nước Người. Mọi vật điều suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi tạo vật suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người. Người cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả và chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện, hơn nữa, để khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhượng và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến cùng Đức Vua, Đấng mà những kẻ phụng sự cũng là những kẻ thống trị có quyền bính. Triều đại Chúa là một triều đại của Chân Lý và sự sống của ân sủng và thánh thiện, của công lý tình yêu và hoà bình’ (Ánh sáng muôn dân, 36). Sự phủ phục của các đạo sĩ dưới chân Hài Nhi Giêsu nhắc chúng ta nhớ lại điều này: muốn nhận biết Thiên Chúa thì phải ao ước thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình. Ngược lại, hướng của Hêrôđê chứng minh rằng khi lòng bị sa lầy trong tham vọng, khắc nghiệt, bất công, thì trí sinh mù quáng.
2) Tại sao sau khi cho tin đúng, cấp lãnh đạo dân tộc và những ký lục không chịu khó đi tìm ‘Vua của người Do Thái’. Chắc là vì họ không cho rằng công phu tìm kiếm của các đạo sĩ là quan trọng. Có thể đây là hạng người thần cảm – họ nghĩ vậy – còn mình là cấp hữu trách, mình phải sáng suốt. Bất hạnh thay, lý trí họ đã biến thành chủ trương hệ thống hoá cứng rắn. Đa số trong bọn họ thành tâm muốn trung thành với Thiên Chúa, nhưng lại dựng lên giữa Thiên Chúa và họ một hệ thống chủ thuyết – lý luận, định kiến – hệ thống đó khiến cho trí tuệ họ không thể hấp thụ được cái chưa từng thấy, cái bất ngờ. Đó là tình trạng của bất cứ khoa học nào không quan tâm trước hết đến sự cởi mở do cầu nguyện đem lại. Càng thu thập về kiến thức vế trí tuệ, càng phải phát triển kiến thức về tâm hồn, là loại kiến thức giữ cho tâm khảm trong tư thế sẵn sàng nghênh tiếp những sự can thiệp của Thiên Chúa. Cấp lãnh đạo dân Do Thái đã không nhận ra Đức Giêsu vì họ muốn Đấng Cứu Thế hiển linh ở trình độ họ, trong uy thế của quyền bính, thông tuệ, hành động. Nhưng Đấng Cứu Thế đó lại xuất hiện với nét mặt một đứa trẻ, con nhà nghèo. Những kẻ khiêm nhượng và những kẻ nghèo hèn đã nhận ra Ngài. Chúng ta tự hỏi: chúng ta đi tìm kiếm Đức Giêsu ở đâu?
81. Bền tâm tìm Chúa
Mt 1, 18 - 24: Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người đang thực hiện lời đã hứa....
Anh chị em thân mến,
Đọc qua bài Phúc âm ngày lễ hôm nay, có một văn sĩ cảm hứng, nên đã thêu dệt câu chuyện về việc sinh ra của Đấng Cứu thế như sau: tôi xin nói lại, câu chuyện sau đây chỉ là sự thêu dệt và là ý tưởng của văn sĩ nọ thôi... Câu chuyện kể: Chúa Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ bò lừa, rất hôi tanh và lạnh giá vì không có lò sưởi. Chúa Nhi biết rõ như thế, nhất là biết cha mẹ của mình đã quá vất vả mới có được chỗ ở này, vì họ nghèo quá! Chúa Nhi thông cảm cho họ lắm. Các mục đồng lại đến viếng thăm làm cho cha mẹ và cả Chúa Nhi rất vui... Mấy hôm sau lại có ba đạo sĩ đến thăm, dâng lên Chúa Nhi, vàng, nhũ hương và mộc dược. Chúa Nhi hiểu rõ lòng của họ, nên đã mĩm cười với họ khi họ tiến dâng lễ vật. Sau đó họ lui xuống để bò lừa dâng lên hơi ấm; trong lúc đó ba đạo sĩ nói nhỏ với nhau, nhưng Chúa Nhi nghe rõ lời họ nói: vua Hêrôđê dặn họ khi tìm thấy Vua mới sinh, phải trở về cho ông hay để ông cũng đến triều bái người. Chúa Nhi nhìn thấu ruột gan của Hêrôđê, biết ông đang tìm cách giết mình. Hơi tức giận, Chúa Nhi dùng quyền năng mình, biến nên một tấm lưới vô hình trong suốt, bao bọc xung máng cỏ nhà đang ở, để người ngoài nhìn vào không thấy gì, cũng không thấy ai....Sau khi ba nhà đạo sĩ đi rồi, Chúa Nhi dùng quyền năng của mình, làm cho nơi mình đang ở bay đi sang qua Ai cập; dù bay, nhưng mọi người vẫn thấy căn nhà như đứng yên tại chổ...Chỉ trong nháy mắt, đã tới bên Ai Cập...
a/. Câu chuyện trên đây chỉ là tưởng tượng, không có thật, và cũng đi ngược lại ý nghĩa mầu nhiệm giáng sinh. Thực ra văn sĩ không đồng ý với Chúa Hài Nhi, vì đã để cho vua Hêrôđê rượt đuổi, tìm giết mình. Nhưng điều này lại là cốt lỏi của mầu nhiệm giáng sinh, của bài học của khiêm hạ tột cùng của Đấng cứu thế. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Nhi sẵn sàng sinh ra trong cảnh nghèo nàn, vất vả, bị rượt đuổi như thế vì vâng lời Chúa Cha, nhất là để làm trọn chương trình cứu rỗi... Đó là phần Chúa Hài Nhi. Bên dưới đây chúng ta hãy bàn về các nhà đạo sĩ đông phương:
b/. Các đạo sĩ đông phương:
Họ phấn đấu đi tìm chân lý và sự khôn ngoan: Các ông đã nhiều năm nghiên cứu, tìm kiếm ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, từ đó tìm ra ý nghĩa của biến cố. Thái độ của họ là cởi mở, sẵn sàng đi tìm chân lý, nên khi thấy ngôi sao lạ, các ông đã cảm nhận ra đó là dấu lạ từ Thiên Chúa.
Họ đã lên đường tìm kiếm Chúa Hài nhi, trong đức tin: với niềm xác tín riêng tư, họ bạo dạng lên đường tìm Chúa. Chính đức tin đã thúc đẩy họ lên đường; họ tự mình dấn thân vào cuộc hành trình vất vả tìm kiếm và mong gặp chân lý. Có khi thiên hạ cho là điên khùng, nhưng họ bất chấp; họ bỏ ngoài tai...
Họ đã hỏi thăm sự giúp đở của dân chúng: trên đường đi, có khi ánh sao biến mất, họ vẫn phải nhờ sự giúp đỡ của mọi người xung quanh... nhất là những người khôn ngoan như hỏi các kinh sư trong bài Phúc âm hôm nay...
Họ chấp nhận điều Thiên Chúa dẫn họ tới, và tin vào đó: Họ đi tìm vị vua, vất vả biết bao nhiêu, vậy mà khi bước vào nhà, họ chỉ thấy một Hài nhi nhỏ bé với ông thợ mộc và Mẹ Nguời trong cảnh nghèo nàn. Chẳng có gì quý giá, chẳng có gì là dòng dỏi vua chúa cả! Làm sao tin? Thế mà các đạo sĩ đã tin; họ tin vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua những dấu hiệu rất tầm thường.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: đời sống của mỗi người kitô hữu cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, dù không vất vả như ba đạo sĩ, nhưng phần ta, ta có bền tâm đi tìm Chúa như họ không? Ta có để đức tin hướng dẫn ta trong hành trình tìm Chúa không?
82. Thiên Chúa của các dân tộc
(Trích trong “Niềm vui chia sẻ”)
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon, Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ. Nhưng cậu bé da màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở nhà đây rồi lại có thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa Giêsu là Chúa của hết mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người kia mà. Nhất là Mẹ của những đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa tay chỉ tượng Đức Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng thì làm sao có đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy Giacôbê trắng một mình từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ, tiến về phía nhà thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu biến tượng Chúa Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da của bạn Giacôbê đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên thích thú, vừa vui vẻ sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn Giacôbê đen không ngớt nở nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu trên Thiên đàng.
Một câu chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng lại mang một ý nghĩa cho người lớn chúng ta trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay: Chúa Giêsu giáng trần không riêng cho một ai, một dân tộc nào, nhưng là cho hết mọi người, mọi dân tộc: da trắng, da đen, da đỏ, da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ tìm đến hang đá Bêlem người ta cũng thấy có một vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển Linh là Lễ Thiên Chúa đến với mọi người. Với biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh làm người trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá đổ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp… Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa làm bừng sáng lên mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho người ta đến với Chúa.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời ca của các thiên thần hoặc ánh sao của ngôi sao lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Chính mỗi người chúng ta được mời gọi đóng vai “nhà đạo sĩ” để chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu rồi loan truyền về Ngài cho anh em khác. Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và hành động như Đức Giêsu. Cha mẹ là “nhà đạo sĩ” thích hợp nhất để trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái mình. Các thầy, cô giáo là những người cộng tác với “các nhà đạo sĩ”. Các nhà truyền giáo: giáo dân, tu sĩ, linh mục, là những “nhà đạo sĩ” đi đây đó để giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác.
Mới đây, cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề: “Đức Giêsu Kitô trong hội họa” tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa bế mạc, quả là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Đã có hàng vạn lượt người đến xem, kể cả người ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều bạn đã ghi lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng hạn: “Tôi là một con chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa, tôi đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với những cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu” (Tường Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn sinh viên khác đã viết: “Con không biết gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong thế giới này, và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn tất cả những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người cho con lòng tin”. (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96 trang 87) v.v… Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi khám phá ra gương mặt đích thực của Đức Giêsu, chúng ta hãy đem Chúa ra giới thiệu cho mọi người. Còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua dân Do Thái sinh ra ở đâu?” Cũng chính là câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?” vậy thì, hỡi các kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Đức Giêsu Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch: con đường yêu thương. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý, nguồn tình yêu và sự sống.
Như ánh sao dẫn đường ba đạo sĩ lên đường đến với Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy từ bỏ những lời nói trống rỗng, những công thức, những khuôn mẫu có sẵn và tìm Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, để từ đó chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em đồng bào bằng chính cuộc sống của chúng ta.
83. Hãy chiếu sáng như những vì sao
(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)
"Vua Người Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người"
Gọi là "ngôi sao của Người", bởi ấy là một ngôi sao lạ, không giống như những ngôi sao thường thấy. Ngôi sao lạ xuất hiện, theo các nhà thông thái ấy, là dấu chỉ một điềm lạ xảy đến: một con người vĩ đại xuất hiện trên dương trần. Ngôi sao lạ, lạ đến nỗi các chiêm tinh gia chỉ còn biết theo ánh sáng của ngôi sao ấy mà bước đi, vì xác tín rằng ấy là Ngôi Sao Cứu Thế, Ngôi sao của "Vua Người Do Thái mới sinh ra". Họ đã không đặt viễn vọng kính để nghiên cứu, cũng không theo ánh sáng của ngôi sao để tìm đến chính ngôi sao, mà chiêm ngưỡng, ca tụng, tôn vinh ngôi sao đẹp lạ lùng diễm lệ ấy; ngược lại họ theo ánh sáng của ngôi sao mà tìm đến thờ kính Con Thiên Chúa Giáng Trần. Họ đã không thể làm khác hơn, vì "ngôi sao ấy luôn đi trước họ, dẫn đường cho họ, và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở" (Mt. 2,9).
Và còn hơn thế nữa, cách nào đó, họ đã trình diện cõi riêng mình với Thiên Chúa khi dâng những lễ vật dành cho Vua Chúa với hết lòng thành kính. Vàng, nhủ hương, mộc dược những lễ phẩm tự nó đã quí giá, đối với các bậc quân vương, càng quí giá đối với hàng lê thứ, nhưng ở đây, cái quí giá hơn chính là lòng tin tưởng và phó thác vào một hài nhi khó nghèo dưới mức bình thường của nhân loại mà họ xác tín là Đấng Cứu Thế. Ánh sáng của vì sao nên huyền vi diệu kỳ, chắc chắn không phải là ánh sáng bình thường mà là ánh sáng của Thần Linh Thiên Chúa. Ngôi sao đã chấp nhận làm một công cụ để Thiên Chúa giới thiệu Con Một của mình cho muôn dân. Như vậy, công việc của một ngôi sao, đến đây có thể nói là hoàn tất sứ mệnh, một sứ mệnh thật cao cả: đưa dẫn con người đến gặp gỡ con Thiên Chúa, để tôn vinh, chúc tụng và dâng lên Thiên Chúa những lễ phẩm với lòng tín thác.
Nhưng không ai ca tụng ngôi sao, chỉ nghe thấy ngôi sao cùng muôn tinh tú xôn xao ca tụng Con Thiên Chúa. Cũng không thấy ngôi sao yêu cầu ai ca tụng mình, vì ngôi sao tự biết mình đã chứa chan hạnh phúc khi nhận được ánh sáng từ Thần Linh Thiên Chúa để phát sáng cho đời nhận ra vinh quang Con Thiên Chúa, đễ dẫn lối cho đời đến với Đấng Cứu Thế của họ.
Chúa Kitô: Ánh sáng mới
Chúa Giêsu bé thơ trong máng bò lừa rơm cỏ úa chính là ánh sáng mới chiếu soi gian trần như tiên tri Isaia đã tiên báo: " Ánh sáng mới đã bừng lên cho dân đang lầm lũi tối tăm trong đêm dài. Mặt trời công minh đã chiếu sáng khắp nơi " (Is 9,1). Đức Kitô không chỉ là một ngôi sao xuất hiện ở phương Đông không bao giờ tắt lặn, nhưng còn là ánh sáng muôn đời cho nhân loại.
Ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa trong chương trình cứu rỗi nhân loại: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Ánh sáng ban ngày soi chiếu vào cõi lầm lạc của con người đi trong bóng đêm, ánh sáng công minh chính trực soi chiếu vào hố thẳm bất công và gian tà, ánh sáng ban sự sống- sống chân chính đàng hoàng trong kiếp sống của con người được yêu thương cứu rỗi, được gọi Thiên Chúa là Cha; ánh sáng ấy, thánh Phao lô đã khuyên giáo đoàn Roma tiếp nhận: "Dừng chân ngay thôi con đường mê muội. Xóa bất công xây bình an trong lòng. Hãy mặc lấy khí giới ban sự sống. Sống công minh như giữa ban ngày" (x. Rm 13,11-14)
Ánh sáng của "Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm"- Ánh sáng của Lời Hứa Cứu Độ của Thiên Chúa Cha trong thượng uyển năm xửa năm xưa, từ thủa con người tự đánh mất ơn mất ơn làm nghĩa tử-Ánh sáng của Lời Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc mà dân Thiên Chúa hằng mõi mong đợi chờ trong tin tưởng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv 118,105). Ánh sáng mạc khải mầu nhiệm cứu chuộc muôn dân: "trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với Người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" ( Eph 3,6).
Đức Giêsu, chính là ánh sáng mới, là ngôi sao mới, chiếu soi con đường mới đưa dẫn nhân loại về với Thiên Chúa Cha. Ngài cũng như ngôi sao phương Đông năm nào không hề có tham vọng đưa nhân loại quy về mình, nhưng là về với Cha, đấng đã sai Con Một Người xuống thế. Tất cả vì danh Cha, tất cả cho Cha, tất cả để "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". "Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời". (Mt 5, 16)
Và vì Cha biết và tin tưởng Con mình tất cả cho Cha, nên Cha đã thông ban vinh quang của Cha cho con để mọi người khi quy hướng về Ánh sáng của Con, thì được xem thấy Cha của Con và Cha của chính mình.
Các con là ánh sáng thế gian
Mỗi tín hữu phải trở thành một chứng nhân Đức Kitô, một ngôi sao dẫn đường cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa. Đời sống chứng nhân, ơn gọi tiên tri cho đời, trước tiên là một ơn nhưng không qua bí tích rửa tội. Đã có biết bao Kitô hữu đã trở nên ánh sáng cho muôn dân qua cách sống đạo của mình. Họ chiếu sáng tinh thần Phúc Âm, không chỉ bằng lời, mà bằng cả cuộc sống Đức Tin, Đức Cậy Trông, và Đức Ái Kitô giáo trong cuộc đời họ. Trong mọi hoàn cảnh, họ chấp nhận và kiên trì chu tất sứ mệnh làm ánh sáng Tin Mừng cho đời, cả khi họ giàu sang, hay nghèo khó, bình an mạnh khỏe hay bệnh hoạn tật nguyền....trên cánh đồng, nơi xưởng việc, trong bệnh viện, kể cả nơi lao tù... Tinh thần của Chúa Kitô ngời sáng và họ đã trở nên ngôi sao mang ánh sáng của Tin mừng cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa, để tin nhận, ca tụng, và phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Nhưng một thực tế đáng buồn: vẫn còn nhiều người đang bước đi trong bóng tối lầm lạc, bóng tối của gian tham, của bất công, của ngẫu tượng xác thịt đểhưởng thụ trần gian... Tại sao?
Tôi vẫn nghĩ chúng ta chưa hiểu thấu mầu nhiệm của ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ, chưa thẩm thấu trọn vẹn được ý nghĩa ánh sáng Chúa Kitô, khi ta vẫn là "những ngôi sao chiếu sáng cho thiên hạ thấy đường tìm về mình, tìm về cái tôi của ngôi sao vô nghĩa". Biết bao việc làm tưởng là để vinh danh Chúa, để người ta tung hô ca tụng Chúa, thì lại tiềm ẩn một âm mưu tranh giành vinh quang của Thiên Chúa, để cho mình được vinh quang, được tung hô. Ngay đến việc nhỏ của một vai trò bé bé trong giáo xứ: Hội đồng, bà mẹ, Legio, ca đoàn... cũng đòi phải được tung hô thì còn gì cho vinh quang Thiên Chúa. Và nếu không được tung hô thì bất mãn đòi bỏ việc, thì còn gì là việc của Thiên Chúa. Bệnh "ngôi sao" trên sân cỏ, trên sân khấu, trên thương trường, trên chính trường, trên thông tin mạng, nếu không loại trừ ai, thì trên lĩnh vực công tác tông đồ cho Thiên Chúa cũng y hệt như vậy- không loại trừ đấng bậc nào trong giáo hội. Vì thế, bệnh "ngôi sao chứng nhân cho Chúa Kitô" trở thành con virus làm tê liệt hệ thống miễn nhiễm những trào lưu nhân loại, những chước cám dỗ của satan, của thế lực chống lại Thiên Chúa. Ai cũng có thể tìm cho mình một mối lợi hư ảo, và nhường lại phần thiệt hại cho Thiên Chúa, để người tìm đến Thiên Chúa thì lưa thưa ít ỏi mà tìm đến mình thì dồn dập xôn xao. Lời ca tụng và lễ phẩm dành cho Thiên Chúa thì không thấy mà lại thấy vô vàn ở các ngôi sao. Có lẽ phải nhắc nhở nhau rằng: Đi trong bóng tối âm u gian ác của cõi lòng mình mà vẫn giảng rao về ánh sáng Thiên Chúa là công việc của ma quỷ, là mưu chước hiện đại nhất của satan. Vì nơi satan, và các thế lực của nó, không có, không chấp nhận ánh sáng của Đức Kitô, của Thiên Chúa, nhưng chúng vẫn biết về ánh sáng ấy, và vẫn có thể tiếp thị cách hiện đại.
Lễ Hiển Linh, là cơ hội cho mỗi Kitô hữu, nhìn lại đời sống chứng nhân của mình. Hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian, nhưng chiếu sáng không phải để thế gian tìm về mình, nhưng là để thế gian tìm về Thiên Chúa, như Đức Kitô, ánh sáng mới cho nhân loại, soi cho nhân loại tìm được lối về với Cha thật trên trời. Tất cả vì "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". Bạn và tôi, như ngôi sao kia, đang làm việc của mình phải làm là chiếu sáng, chứ không làm việc của mình thích làm là chiếu sáng cho vinh quang mình.
84. Địa chỉ của ông sao - Pm Cao Huy Hoàng
Hai cha con làm hang đá. Hữu xếp mấy bao xi-măng thành hình những khối đá. Cha xếp những khối đá vào…. Hữu ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng đặt vào hang đá. “Con bò to to nầy, mầy nằm bên Chúa nhé, thở mạnh đi cho Chúa ấm. Trời lạnh lắm” Hữu nói. Mẹ nhìn cha con làm hang đá lấy làm vui. Mẹ nói: “Phải có sao lạ nữa chứ anh”. Hữu hỏi ngay: “Sao phải có vậy Mẹ? Sao gọi là Sao Lạ?”. Mẹ trả lời: “Phải có ngôi sao lạ, để dẫn đường người ta tới Belem mà thờ lạy Chúa, chứ con. Ai mà biết Chúa sinh ở chỗ tồi tàn đó”. Hữu: “À, thì ra!”.
Suy nghĩ và giải thích đơn sơ của người Mẹ, hẳn là không sai lạc giáo lý nếu cần dạy cho con. Vì quả thật, những đạo sĩ, theo Tin Mừng, hẳn cũng đã tìm đến Belem nhờ ánh sao lạ dẫn đường.
"Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". (Mt 2, 2).
Hai cha con làm ngôi sao lạ. Thấy mẹ không nói gì về sao “lạ”, người cha trò chuyện với mẹ con: “Con có biết những ông sao ở đâu không?” - “ở trên trời, ban đêm mới thấy”.
“Ồ! đúng rồi. Địa chỉ của ông sao chắc chắn là ở “tít trên cao”. Bầu trời đêm đông càng dễ thấy có rất nhiều ông sao. Ông sao nào cũng ở “tít trên cao”. Ông sao nào cũng sáng. Nhưng sáng tít trên cao!
Vậy mà, hôm Chúa sinh ra đời ở cánh đồng Belem, có một ông sao bỗng nhã hứng bất thần chiếu rọi xuống rất thấp, xuống cả một vùng thôn dã nghèo xác xơ, rét cùng cực, tuyết trắng mênh mông. Ông sao ấy chiếu dọi vào hang đá Belem tồi tàn. Nơi hang đá ấy, không có điện đèn chớp nháy hay ánh sáng của kinh thành hoa lệ đằng xa kia chiếu tới đâu. Nhưng ánh sáng của ông sao lạ làm rực lên ánh hào quang của Hài Nhi, con Thiên Chúa ra đời. Vâng, từ thuở tạo thiên lập địa, nay mới thấy có một ông sao như thế, không chỉ sáng tít trên cao, mà sáng từ tít trên cao sáng xuống cùng dưới thấp.
Mẹ hỏi: “Vậy thì mấy ông sao cũng có cá tính sao?”. Không, thiết tưởng, ông sao nào cũng là loài thụ tạo vô tri vô giác, cá tính gì! Nhưng ông sao này đang được điều khiển bởi quyền năng của Thiên Chúa trên cao. Ông đang làm điều Thiên Chúa muốn. Thế mới gọi ông là ngôi sao lạ!
Lạ, là vì ông sao này khác những ông sao khác. Ông chưa có tên trong danh mục các ông sao đã qua viễn vọng kính của các nhà chiêm tinh. Và ông cũng không làm việc thường ngày như những ông sao kia. Lạ, là vì ông không làm điều ông thích làm, thường làm, nhưng ông đang làm việc của Thiên Chúa bảo ông phải làm! Điều đó, Chúa hiểu rõ ông hơn ai hết. Lạ, là vì ông không ở tít trên cao. Lạ, là vì ông xuống rất thấp. Lạ, là vì ông dẫn người ta đến với Chúa”.
Vâng, ông sao lạ nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha, kế hoạch giới thiệu Chúa Con cho nhân loại, giới thiệu Đấng Cứu Thế ban ân sủng cho nhân loại.
Hài Nhi Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Ông Sao Lạ kia xuất hiện, rồi biến đi, nhường chỗ cho hào quang Chúa Hài Nhi Giêsu đang hiển linh như nguồn ánh sáng mới cho nhân loại, Chúa Giêsu tỏ mình và tỏ tình Chúa Cha cho nhân loại.
Nếu ánh sáng đầu tiên cực kỳ huyền diệu của ngày sáng tạo vũ trụ đã bị bóng tối tội lỗi bao trùm, thì hôm nay ánh sáng mới đã đến, ánh sáng cứu độ. Ánh sáng từ trời cao xuất hiện từ Gia-cóp, vương quyền của Thiên Chúa đã đâm chồi từ Israel. Ánh sáng mới ấy là Hài Nhi Giêsu. Ánh sáng tít trên cao chấp nhận xuống cùng dưới thấp để xua tan bóng đêm tội lỗi. Thiết nghĩ, không thể đặt giả thuyết rằng nếu ông sao kia không chịu chiếu sáng xuống một miền Belem thấp kém, không tên tuổi, liệu có ai đã biết đến Tin Mừng cả thể cho nhân loại: Đấng Cứu Tinh đã ra đời. Vì rằng, ngay trong chương trình của Thiên Chúa, ánh sao kia cũng đã được nhắc đến cách long trọng, và nhắc đến cả sứ vụ được giao phó. “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en”(Ds 24, 17). Ánh sao ấy chính là Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Mỗi tín hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Chúa Giêsu nói: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5, 14-16)
Thánh Phaolô nhận ra vai trò của chính mình và của mỗi tín hữu, trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi đã tiếp nhận ánh sáng cứu rỗi của Thiên Chúa, cũng phải làm ông sao lạ dẫn đường thiên hạ đến với Chúa. Ngài nói: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô” (Eph 3,2-3). Hoặc, một nơi khác, ngài nói rõ hơn: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao” (Philip 2,14-15).
“Kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa ủy thác” cho mỗi người, hẳn là giới thiệu ơn cứu rỗi cho con người, dẫn đường cho con người đến với Chúa. Mỗi người là một ông sao lạ. Ông sao lạ không ở tít trên cao, nhưng ông sao lạ xuống cùng dưới thấp….
Theo dõi những bản tin Giáo Hội Việt Nam Mùa Giáng Sinh năm nay, chúng ta thật vui mừng, vì có những ông sao ở tít trên cao xuống đến tận vùng sâu vùng xa chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng Giáng Sinh đến cho người bần cùng giá lạnh. Niềm vui vô biên của người H’mong, Tây Bắc được ông sao dung dăng dung dẻ với bầy trẻ sơn cước. Nỗi sung sướng của người Mường Cắt, Hòa Bình thấy Chúa đến gần hơn. Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Tây Nguyên, miệt vườn châu thổ… đâu đâu cũng có ánh sáng của những ông sao lạ không còn sáng tít trên cao, nhưng rất gần, sáng rất thấp. Vâng, có những ông sao xuống miền xuôi, cũng có ông sao lên mạn ngược, ông đến với biển, ông về với rừng, ông xuống với người kinh, ông lên người Dân Tộc…
Làm thân ông sao lạ lại là một niềm vui cho mình cho đời. Ấy vậy, cũng có những ông sao lạ không chỉ xuống thấp mà còn chạy lao xao khắp thành phố Sài Gòn. Có ông xoẹt qua nhà cô bé xa quê bán bắp nướng, khoai luộc, ông gửi một món quà, một nụ cười, một niềm vui, không quên lời chúc giáng sinh và niềm hy vọng an bình Chúa Giêsu mến tặng. Rồi tranh thủ xoẹt qua khu ổ chuột còn gần chục người nghèo đang đánh bài tiến lên ăn kẹo giết nỗi sầu đời cho đêm mau qua ngày mau tới. Có ông sao lạ đua xe cho kịp giờ để gửi một phần bánh giáng sinh nho nhỏ cho ông bà bán vé số dưới gầm cầu Sài gòn, sợ ông bà ngủ sớm, ngủ đói! … Nhờ những ông sao lạ, người mù bỗng thấy, người điếc bỗng nghe, người què quặt tật nguyền bỗng quên mình tật nguyền què quặt. Mùa Giáng Sinh đầy những ánh sao báo tin mừng của những ông sao lạ. Mùa Giáng Sinh rộn ràng yêu thương và niềm vui.
Đêm 19/12, tôi được Cha Hữu An mời tham dự đêm “Rộn ràng Noel” ở GX Kim Ngọc. Trên sân khấu, các ngôi sao ca nhạc Công Giáo đang rộn ràng những ca khúc Noel “hát cho vui đời và hát cho đời vui” của GM. Ns Thông Vi Vu. Ngồi ghế trước, ngoái lại đằng sau, người xem đông quá, tôi bỏ ghế, làm một vòng về phía khán giả. Đông đến tận ngoài đường quốc lộ. Già trẻ trai gái không thiếu. Nhưng đa số là lương dân. Họ đơn giản lắm. Tôi chào một cụ ông:
- “Chào cụ, có vui không”.
- “Vui lắm chú à. Lễ Noel hay thật. Tui không nghĩ là ông thượng tọa đạo Chúa có thể xuống hát chơi vui vẻ với mọi người như thế đâu. Chưa bao giờ tui thấy”.
- “Ông thích không?”
- “Có chứ. Tui thích nhất là ông thượng tọa Chúa hát với lũ nhỏ cái gì mà tít trên cao, tít trên cao”
- “À, tít trên cao, có ông sao sáng đẹp biết bao, ngọt ngào, ông loan báo mùa Noel nay đã về đây…”
- “Đúng rồi, đúng rồi, có gì mà đôi má, xinh quá nữa đó”
- “Dạ, Ôi xinh quá là xinh đôi má. Đỏ hây hây tựa cánh hoa đào. Ôi thương quá là thương hang đá. Chúa từ trời sinh ra”
- “Tự hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi cứ nghĩ là mấy ông thượng tọa Chúa ở xa lắm chứ. Dễ gì mà gặp được mấy ổng. Không dè, gần gũi quá”….
Gặp mấy anh chị thanh niên đang chăm chú vào màn chiếu trước nhà thờ: “Nhạc Chúa hay hơn nhạc đời rồi anh, êm đềm trữ tình lắm. Nhạc trẻ hay, dân ca hay, múa cũng hay. Nhưng khúc đồng dao ông Cha hát với đám con nít, hay ể! Chúa xuống gần hơn trước rồi”
…..
Địa chỉ của ông sao đã chuyển từ tít trên cao, xuống cùng dưới thấp.
Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta một lần nữa xác nhận Chúa Giêsu là ánh sáng mới, ánh sáng cứu độ, đã từ trời xuống; đồng thời cũng nhắc nhớ mỗi người làm một ông sao. Một ông sao lạ, không ở tít trên cao, nhưng xuống cùng mọi người để chia sẻ niềm vui cứu độ.
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì mùa Giáng Sinh Năm Thánh Hai Ngàn Mười của Giáo Hội Việt Nam, Chúa đã đến gần hơn với bao tâm hồn dân Việt. Xin giúp mỗi chúng con tiếp tục làm ánh sao chịu thương chịu khó sà thấp đời mình xuống, để đem ánh sáng Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ bần hàn, bạn chí thiết của Hài Đồng Giêsu, Con Chúa. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam