Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 78

Tổng truy cập: 1367813

GIẢI THOÁT

Giải thoát – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, dưới thời các vua Giuđêa là Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Isaia đã nói tiên tri về Đấng sẽ đến và giải thoát con dân khỏi sự cùng khổ. Một niềm hy vọng bừng sáng lên cho những ai biết đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Tiên tri đã loan báo ơn cứu độ sẽ đến như suối nước chảy vào nơi đồng vắng, tràn ngập vào hoang địa khô cằn và lòng người hoan hỉ được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Họ sẽ được nghe loan báo tin mừng giải thoát khỏi sầu khổ, tội lỗi và sự ràng buộc của ma quỷ.

Isaia nhìn thấy những khổ đau chất chồng trong đời sống của cộng đồng và cá nhân. Những hoang mang xao xuyến, lo lắng sầu muộn và những khiếm khuyết của cá nhân như mù, què và câm điếc. Thiên Chúa sẽ quan tâm chữa lành cho từng người: Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được (Is 35,5). Những khuyết tật của con người như những cửa ngõ để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Chúng ta thường không lo lắng chi, khi đang sống an vui khỏe mạnh. Chỉ lúc đau yếu, bệnh hoạn, khiếm khuyết, chúng ta mới cảm nhận được những ân phước may mắn đã lãnh nhận. Khi đau yếu bệnh hoạn chúng ta mới trân qúi sức khỏe. Khi mắt mờ hay mù lòa mới nhận ra hồng ân ánh sáng. Khi tai bị nghễnh ngãng hay câm điếc mới tiếc nuối âm thanh giao tiếp.

Đấng Cứu Thế đến mang lại niềm vui mừng và hy vọng chan hòa cho mọi người đang lữ hành trong đêm tối thế trần. Bài phúc âm hôm nay kể câu truyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc bằng cách đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn Ngài cầu nguyện và bảo “hãy mở ra”, tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi nói được. Hành động của Chúa Giêsu xem ra thật dễ dàng. Chúa không cần đến thuốc thang và thời gian chữa lành. Với ý muốn, Chúa dùng quyền năng biến đổi và chữa lành ngay lập tức. Đây là phép lạ. Ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo từ xưa là Người sẽ đến mở miệng người câm và mở tai người điếc. Chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành qua ý muốn, cử chỉ, hành động của Ngài và nhờ qua chính đức tin của bệnh nhân.

Bất cứ một sự khiếm khuyết nào trong thân xác cũng gây nỗi phiền muộn ám ảnh cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu chúng ta có dịp vào các Trung Tâm Khuyết Tật, chúng ta sẽ nhìn thấy có muôn vàn chứng bệnh khác nhau. Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Đạo Phật gọi là Nghiệp. Chúng ta xem đây như là số phận đã an bài. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.

Những người bị khuyết tật rất cần sự giúp đỡ và thông cảm của những người chung quanh. Họ không thể di chuyển nhanh, không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không nghe thấy âm thanh tiếng nói và không thể giãi bày tư tưởng cảm thông. Họ bị đóng kín, bị giới hạn và bị thiệt thòi đủ thứ. Nhiều người khuyết tật và tàn tật đã phải đi xin ăn hay sống tựa dựa vào lòng bác ái của người khác hay các cơ quan từ thiện. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều anh chị em dù bị khiếm khuyết nhưng đã phấn đấu vượt lên trên số mệnh. Nhiều người đã thành công để tự đứng trên chính đôi chân của mình. Trong khi có rất nhiều người lành lạnh, có khả năng, có tiền bạc và có sức khỏe nhưng lại lười biếng và lạm dụng ăn bám vào xã hội.

Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị. Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng. Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối. Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.

Chúa Giêsu thương yêu và cảm thông những khiếm khuyết của họ. Bất cứ người tàn tật nào đến van xin, Chúa đều chữa lành. Dân chúng đã nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ: Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7,37). Qua sự chữa lành phần xác, Chúa đưa dẫn họ đến sự chữa lành tâm hồn. Đây là mùa hồng ân, Đấng Cứu Thế xuất hiện rao giảng và làm các phép lạ chỉ trong vòng thời gian rất ngắn. Chúa không xuống thế chỉ để làm phép lạ hóa bánh nuôi dân hay chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền, nhưng Chúa đến mang tin vui giải thoát. Giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ và tội lỗi. Chúa mở con đường cứu độ qua sự đau khổ, sự tha thứ và yêu thương. Tất cả những khổ đau ở đời là những nấc thang đưa dẫn chúng ta đến gần Chúa hơn. Chấp nhận đau khổ như những thánh giá vác mang đi theo Chúa:Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14,27).

Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng thiên vị khi xét xử anh chị em. Chúng ta thường chú ý và đánh giá người khác qua diện mạo bề ngoài. Điều này dễ bị lầm lẫn: Anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó! “ hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây! (Giac 2,3).Con mắt phàm trần dễ đưa đến những phán đoán sai lạc. Có những sự việc xảy ra ngay trước mắt nhưng chúng ta cũng chẳng nhận ra. Không phải chúng ta có mắt sáng là có thể nhìn biết mọi sự. Chỉ có con mắt tâm linh mới nhìn thấy thấu tỏ và quán chiếu mọi sự. Kho tàng cao qúy của con người nằm ở trong tâm. Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù, khi được sáng mắt cả thể xác và tâm hồn, anh đã nhận biết Chúa.

Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con được nhìn, được nghe và được biết rõ hơn. Cho chúng con biết cảm thông những nỗi bất hạnh, những đớn đau và những muộn phiền của những anh chị em chung quanh. Chúng con dâng lời cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thân xác đầy đủ vẹn toàn. Xin cho chúng con biết dùng tất cả ngũ quan và các khả năng đặc thù để phục vụ Chúa và anh chi em. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa chúc lành và giải thoát chúng con.

 

 

 

 

 

16. Hãy mở ra – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

1. Bức tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau. Nó chia đôi thế giới ra hai phe: tư bản và cộng sản thù nghịch nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.

2. Bức tường câm điếc. Tật câm điếc cũng ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được ; câm không nói, không làm cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình. Sống giữa người khác như bị nhốt tù trong bức tường câm lặng. Kẻ câm điếc dễ bị khùng khùng mát mát là thế. Không hiểu người khác, dễ hiểu lầm ra thù ghét người khác. Đức Giêsu đã đến phá đổ bức tường câm điếc cho anh. Khiến anh có thể nghe được, nói được, thông cảm, hiểu biết được mọi người và mọi người cũng nghe và hiểu anh được. Tình liên đới, thương mến sống lại trong anh. Anh được đoàn tụ, hợp tác xây dựng cuộc đời tươi đẹp biết bao với mọi người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã chữa anh câm điếc một cách đặc biệt. Bao nhiêu bệnh nhân khác, Người chỉ nói mấy lời. Còn đối với anh, Người đã đặt tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời và thở dài kêu lên: “Hãy mở ra”.

3. Bức tường giữa Do thái và chư dân. Cách chữa ân cần và đặc biệt của Đức Giêsu, không phải chỉ cứu anh câm điếc dân ngoại này khỏi bị ngăn cách với gia đình và xã hội, mà còn chữa một bệnh quan trọng hơn, đó là bệnh ngăn cách Do thái với dân ngoại, ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa tới muôn dân. Một bức tường ngăn cách vô hình thật đáng sợ! Nó đã biến Do thái và dân ngoại thành thù hận, Do thái cấm dân không được liên đới, đi lại với dân ngoại. Ai cố tình vi phạm là mắc tội ô uế. Về nhà phải tắm rửa nhiều lần mới được khỏi. Đức Giêsu phải trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số. Người bỏ miền Ty và Sidon là hai tỉnh nước Lyban bây giờ, tới phía đông biển hồ Galilê, vượt qua cao nguyên Gô lăng của nước Syrie và miền Thập tỉnh của sông Gióc đăng, qua Irăng, Irắc tới vịnh Ba tư, miền mỏ dầu bây giờ thuộc các nước chư dân ngoài Do thái. Cuộc hành trình đó đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại, phá đổ bức tường ngăn cách tôn giáo, để nước Thiên Chúa đến với muôn dân.

4. Bức tường giữa loài người và Thiên Chúa. Một bức tường ghê gớm khủng khiếp đã ngăn cách con người với Thiên Chúa. Không có một sức mạnh nào của loài người phá đổ được, chỉ có Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mới phá đổ được thôi: Đó là bức tường tội lỗi mà kẻ gieo rắc là satan. Chúa Giêsu đã lấy thánh giá phá đổ bức tường tội lỗi này. Người còn phá đổ bức tường cuối cùng mà thánh Phaolô nói là kẻ thù cuối cùng là sự chết. Người đã phá tung nấm mồ đè bẹp loài người để cho loài người sống lại với Người. Ai tin Chúa Giêsu sẽ chiến thắng sự chết, sẽ được thập giá như chìa khóa mở cửa nước Trời cho họ vào nhà Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin “hãy mở ra”, mở mọi trói buộc thân xác chúng con, mở mọi trói buộc tâm hồn chúng con. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi mọi xiềng xích bất công, bất hòa, hận thù, tội lỗi. Xin hãy mở cho chúng con được thấy ơn cứu độ muôn dân, thấy nước hằng sống vinh phúc của Cha chúng con trên trời.

 

 

 

 

 

17. Kẻ điếc nghe được. Kẻ câm nói được

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Trình thuật về phép lạ chữa người điếc và ngọng này duy nhất chỉ có thánh Maccô trình bày. Chúng ta thấy có những chi tiết hơi lạ: Chúa Giêsu không chữa anh như đã chữa bao nhiêu bệnh nhân khác, chỉ bằng một lời nói… mà Ngài làm như một nghi thức:

– Ngài đem bệnh nhân ra khỏi đám đông,

– Ngài đặt tay, thấm nước miếng,

– Ngước mắt lên trời, thở dài và nói một lời: “Hãy mở ra”.

Ngài muốn gì thế?

Chúng ta muốn hiểu thế nào tùy ý. Thánh Maccô không giải thích, Chúa Giêsu cũng chẳng nói gì thêm. Mỗi nhà chú giải có ý kiến khác nhau. Chúng ta cũng tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay.

Người điếc và ngọng này do người ta đem đến với Chúa, những người đó có lẽ là những người Do Thái ở vùng dân ngoại, đã nghe biết những phép lạ Ngài đã làm ở nơi khác. Và đúng thế, Ngài đang ở vùng Thập tỉnh là vùng đất xôi đậu, người Do Thái chỉ là thiểu số.

Trước đó, Chúa Giêsu đã chữa cho con gái bà Xyrô-Phênixi ở gần đó và danh tiếng Ngài đã lan rộng đến miền Thập Tỉnh này. Điều này chứng tỏ, sứ mệnh của Ngài không hạn hẹp trong dân Do Thái mà thôi, mà cả dân ngoại cũng được hưởng nhờ, mặc dù “ơn cứu độ đến từ người Do Thái”.

Chúa Giêsu chấp nhận chữa cho người tật nguyền này, nhưng Ngài không làm giữa đám đông, mà đem anh ra khỏi đám đông. Có thể Ngài chỉ muốn làm âm thầm, sợ dân chúng tưởng Ngài làm một thứ ma thuật, bùa phép gì đó.

Ngài muốn tiếp xúc với bệnh nhân trong riêng tư để cho họ thấy rằng chính Ngài ban cho họ hồng ân của Ngài. Phải gặp gỡ Ngài trong một gặp gỡ thân tình mới cảm nhận được hồng ân.

Ngài làm những cử chỉ rõ rệt như chạm đến nơi bị bệnh tật. Chính Ngài làm cho cơ thể họ lành mạnh, không do một nguyên nhân ngoại lai nào khác.

Ngài lấy nước miếng chấm vào lưỡi, không phải như nhiều người tưởng đó là cách chữa bệnh của dân địa phương, vì họ cho nước miếng là một dược tá. Nhưng chỉ chấm một chút mà thôi thì làm sao chữa bệnh? Các bà mẹ thường nhai cơm cho con khi con còn nhỏ là một cách rất tốt để giúp cho con tiêu hóa dễ dàng. Nước miếng của người mẹ rất công hiệu. Đây chỉ là một cử chỉ tượng trưng chứng tỏ một liên đới thật sâu xa giữa Ngài với bệnh nhân và giúp cho bệnh nhân được khỏi bệnh.

Để chữa bệnh điếc, Ngài ngước mắt lên trời, thở dài và sau đó mới truyền: “Hãy mở ra”.

Tại sao Ngài làm như thế? Thánh Máccô chỉ tường thuật và không giải thích. Bệnh này không trầm trọng như bệnh cùi, sao Ngài lại làm những cử chỉ khác thường như thế? Người điếc này là hình ảnh của biết bao nhiêu người điếc, không nghe, không nói, những người hững hờ với lời mời gọi của Chúa. Ngài thở dài như phải cố gắng lắm để chữa lành bệnh nhân, và sau đó mới truyền lệnh: “Hãy mở ra”. Có điều gì đó đang đè nặng con tim Ngài. Sự dửng dưng của chúng ta trước lời mời gọi của Ngài là chướng ngại để Lời Chúa có thể đi vào tâm trí chúng ta. Phải dùng cả quyền năng của Ngài mới mở cửa tâm hồn chúng ta.

Quyền năng của Ngài đã giải thoát bệnh nhân. Chúng ta chỉ có thể nghe Lời Ngài và công bố rõ ràng những gì Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta tiếp cận với Ngài, riêng lẻ, phải được Ngài chạm đến, phải được thấm nước miếng của Ngài.

Đức tin được phát sinh nhờ lắng nghe như thánh Phaolô đã xác quyết (Rm 10,17). Thảm kịch của con người là không muốn lắng nghe Lời Chúa. Nhưng khi Chúa mở tai chúng ta, chúng ta sẽ nghe được tiếng Ngài và lòng chúng ta đón nhận Ngài, chúng ta mới hiểu được quyền năng và tình thương của Ngài.

Câu chuyện người điếc ngọng này nhắc chúng ta nhớ đến tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rủ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình”. (Hs 3,16).

Thiên Chúa đối xử với chúng ta như thế, yêu thương chúng ta như thế, sao chúng ta không muốn nghe Lời Ngài? Sao chúng ta cứ tìm hạnh phúc nơi trần thế mà lãng quên tình yêu luôn săn đón của Ngài? Ngài luôn nhẫn nại đợi chờ. Ngài vẫn chờ đợi cho đến khi chúng ta trở về, không mỏi mệt. Ngài mở tai chúng ta, đồng thời cũng thoa nước miếng vào lưỡi chúng ta để chúng ta nói được rõ ràng, để chúng ta mở miệng ngợi khen Ngài, công bố những kỳ công và tình thương của Ngài.

Ngài phải đợi chờ đến bao lâu?

Đến bao giờ chúng ta mới mở miệng loan truyền tình yêu của Ngài?

Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu, để yêu, để công bố cho mọi người. Chúng ta có cảm thấy rằng nghe được tiếng Chúa là một hồng ân không: “Phúc cho tai chúng con vì được nghe!”

Chúng ta đã từng nghe Lời Chúa, chúng ta có chú tâm không? Chúng ta đánh mất không biết bao nhiêu hồng ân!

Sau khi chữa lành người điếc và ngọng này, dân chúng kinh ngạc và ngợi khen: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”!

Người tàn tật này là hình ảnh của nhiều người trong chúng ta. Anh là bằng chứng cụ thể của quyền năng Thiên Chúa. Chính nhờ anh mà nhiều người nhận ra bàn tay Chúa thi ân cho con người.

Khi chúng ta lắng nghe và công bố những việc làm của Chúa, chúng ta thành môi miệng của Ngài. Khi chữa lành người bị quỷ ám ở Ghêrasa, anh ấy xin Ngài cho anh theo Ngài, nhưng Chúa bảo: “Con hãy về tường thuật lại cho mọi người biết những gì Chúa đã làm cho con”.

Chúng ta hãy đến với Chúa, xin Ngài mở tai chúng ta và đem những người anh em điếc, ngọng đến với Chúa, như dân địa phương đã đem người tàn tật này đến để được chữa lành; và hơn nữa, chính chúng ta hãy làm cho mọi người xung quanh hiểu được Chúa thương họ như thế nào qua những hành vi bác ái của chúng ta.

Chúng ta hãy đi theo vết chân của Ngài, làm mọi sự cho tốt đẹp để mọi người thấy những việc chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Tuy chúng ta không làm phép lạ, nhưng cũng có thể làm được nhiều việc nếu chúng ta dám để cho Ngài sử dụng con người chúng ta, cuộc sống chúng ta.

Nhiều lúc chúng ta đầy thiện chí, sẵn sàng làm mọi việc cho Chúa, nhưng khi chạm vào thực tế, bị người khác tấn công, xuyên tạc, chúng ta nản chí, rụt rè… Những người dấn thân làm việc Chúa đều kinh nghiệm những giai đoạn khó khăn như thế.

Chúa Giêsu luôn gặp trở ngại và chống đối, nhưng Ngài luôn đi tới cùng, không chạy trốn. Chúng ta tưởng rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có thể làm mọi việc mà không cần phải cố gắng, vì Ngài quyền năng. Nghĩ như thế là lầm to. Ngài đã mặc lấy thân phận con người, Ngài phải luôn phấn đấu để vượt qua mọi trở lực, vì Ngài luôn vâng lời Cha Ngài và trung thành với sứ mệnh Cha đã giao. Cảnh sầu muộn trong vườn Ghếtsêmani vẫn rõ nét trước mắt chúng ta.

Theo Ngài, chúng ta không thể “ngồi mát, ăn bát vàng”. Nhưng cần phải phấn đấu! Phải nói rõ ràng Lời Chúa cho một thế giới “dị ứng” với tất cả những gì là “thiện”, là một điều không dễ. Chính vì thế mà nhiều người đã “bỏ Thầy và rút lui”.

Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta có “một quả tim biết lắng nghe” như Salômôn, vì nghe bằng tai vẫn chưa đủ, phải nghe bằng con tim, lời nói của chúng ta mới có sức thuyết phục.

Chúa Giêsu đến với chúng ta và “ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đến hôm nay qua tấm bánh để thấm nhập vào xương thịt chúng ta, giúp chúng ta trở thành “lắng nghe” và thành “lời” sống động, vì “không có Ngài, chúng ta chẳng làm được gì”. Có Ngài là sinh lực, là Tình Yêu. Ăn lấy Ngài để có sức dấn thân trọn vẹn hơn.

 

 

 

 

 

18. Lắng nghe.

 

Trong một cuộc hội thảo, anh bạn ngồi bên tôi, không hiểu vì ngủ gật hay vì chia trí lo ra những chuyện đâu đâu, nên khi được mời lên phát biểu, anh đã đưa ra một ý kiến và để trình bày ý kiến này, anh đã đi vòng vo tam quốc, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện bên tây đến chuyện bên tàu, trong khi đó mọi người thì cứ tủm tỉm cười thầm. Cuối cùng, người điều khiển phải tạm ngắt ý kiến của anh ta và nói: Tất cả những điều anh diễn tả, cũng như đề nghị, chúng tôi đã trao đổi và bác bỏ ngay từ lúc mới bắt đầu cuộc hội thảo này rồi. Lúc bấy giờ, mọi người mới dám cười ồ lên.

Lâu ngày có người bạn tới chơi vào ban tối, chúng tôi đã nằm tâm sự với nhau về những ngày tháng xa xưa. Tôi nói và anh bạn gợi lại. Cứ thế cho tới một lúc tôi cảm thấy hình như chỉ còn mình tôi nói, ngó sang bên cạnh thì anh bạn tôi đã ngủ thiếp từ lúc nào không biết.

Từ hai mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy hai anh bạn yêu quí của tôi đã không biết lắng nghe hay không chịu lắng nghe nữa, cho nên một anh thì tưởng rằng ý kiến của mình là ý kiến đầu tiên được đề nghị. Còn anh bạn kia thì lại để tôi nói chuyện một mình với đêm tối.

Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu người cũng đã không biết lắng nghe như thế. Phải chăng không biết lắng nghe đã trở nên như một lầm lỗi, một cơn bệnh thông thường.

Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người không thể lắng nghe vì anh ta điếc. Cái điếc này không đáng trách. Điều đáng trách, đó là biết bao nhiêu người có đôi tai thính, nhưng họ lại không nghe thấy bởi vì họ không lắng nghe.

Kinh nghiệm cho thấy lắng nghe là một điều kiện rất quan trọng trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Thực vậy, đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người đều biết lắng nghe, để cố gắng hiểu được điều người khác muốn nói.

Sự cảm thông không phải là con đường một chiều. Nói và nghe đúng cách sẽ giúp chúng ta hiểu nhau hơn và sẽ bắc được nhịp cầu cảm thông giữa chúng ta với những người chung quanh.

Dĩ nhiên dưới mái ấm gia đình, con cái phải lắng nghe cha mẹ nhưng đồng thời cha mẹ cũng phải lắng nghe con cái. Hãy bình tĩnh lắng nghe con cái mình nghĩ gì, cảm gì, muốn gì để rồi từ đó có những hướng dẫn, vừa không mang tính cách độc đoán, nhưng lại vừa hợp tình lại và hợp lý.

Ở trường, học trò phải lắng nghe thày cô, bởi vì nếu không lắng nghe thì chẳng hiểu được chi về bài vở của mình. Nhưng đồng thời thày cô cũng phải lắng nghe học trò trả lời hay đặt câu hỏi, nhờ đó mà trắc nghiệm được sự hiểu biết của học trò mà đổi mới cách thức giảng dạy.

Và nhất là ở đây, trong nhà thờ này, lắng nghe lời Chúa là một việc hết sức quan trọng. Lời Chúa muốn nói gì với tôi và Ngài mong muốn nơi tôi điều chi. Điểm chính của bài giảng hôm nay là gì? Phải chăng là hai chữ lắng nghe. Chúng ta cần nói với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng ta hãy thưa lên với Chúa như Samuel ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe…

 

 

 

 

 

19. Cho người điếc được nghe

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

“Trong thiên hạ có anh giả điếc

Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây,

Chẳng ai ngờ: sáng tai họ điếc tai cày…”

(trích bài “Anh giả điếc” của Nguyễn Khuyến)

Sáng tai họ điếc tai cày

Theo nghĩa đen, khi người cày ruộng ra lệnh cho trâu đi cày thì tai trâu như điếc chẳng nghe gì, nên cứ đứng ỳ một chỗ. Tật đó gọi là điếc tai cày. Trái lại khi đang cày ngon trớn mà chợt nghe người cày hô nhỏ: “họ!” (tức là dừng lại) thì tai trâu trở nên sáng tỏ, trâu bèn đứng lại liền. Tật nầy gọi là sáng tai họ.

Thành ngữ nầy ám chỉ có những đôi tai luôn mở ra (sáng tai) đối với những lời có lợi và thường xuyên đóng lại (điếc tai) trước những lời mà lòng chẳng muốn nghe.

Tai của vị hôn quân chỉ sáng trước những lời đường mật của lũ nịnh thần nhưng điếc đặc trước những lời chân thật của các bậc trung thần, vì thế mà triều đình băng hoại và sụp đổ.

Tai của những nhà lãnh đạo tham lam và mù quáng chỉ biết nghe những lời có lợi cho bản thân và điếc hẳn trước những oán than của dân nghèo, vì thế mà nhân dân khốn cùng, Nước nhà mạt vận.

Cách đây 150 năm, giá như triều đình của Vua Tự Đức (trị vì: 1847-1883) sáng tai trước những lời điều trần kêu gọi cải cách về nhiều mặt của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) thì Việt Nam ngày nay lớn mạnh biết chừng nào.

Và giá như nhân loại sáng tai trước những lời giáo huấn của Chúa Giêsu thì mọi người đã được sống trong yêu thương hạnh phúc, đâu còn cảnh chiến tranh, khủng bố, áp bức, bất công…

Tuy nhiên, nhận ra sự điếc lác của mình trước một số lãnh vực nào đó và tìm cách chữa trị nó là điều không dễ.

Điếc tâm linh

Trong tác phẩm “tự thú”, thánh Âu-tinh nhìn nhận đôi tai của người đã điếc lác trước Lời phán dạy của Chúa trong thời gian lâu dài:

“Con yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài… Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù loà của con…”

Cho đến năm 33 tuổi, đôi tai điếc của thánh Âu-tinh đã được Chúa Giêsu khai mở để đón nghe Lời Người.

Chúa Giêsu cho người điếc được nghe:

Qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Isaia đã báo trước một thời đại hồng phúc, thời Chúa Giêsu đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35,5-6).

Lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu qua trình thuật của thánh sử Máccô: “Hôm ấy, Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” (Mc 7,31-35)

Hôm nay, nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người mở tai, chúng ta cũng chỉ là những người điếc trước những lời ban sự sống. Nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần Người mở mắt, chúng ta mãi mãi vẫn chỉ là những người mù không thể nhận biết Thiên Chúa là Cha.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã mở tai cho người điếc ở miền Thập tỉnh được nghe.

Chúa cũng đã thương cho đôi tai điếc lác của thánh Âu-tinh được mở ra để đón nhận những lời thần thiêng của Chúa.

Nay xin Chúa cũng cúi xuống trên chúng con, đoái thương tình cảnh “điếc lác” của chúng con, cho tai tâm hồn chúng con được sáng trước những lời dạy khôn ngoan của Chúa, là những lời có sức mang lại cho chúng con sự sống muôn đời.

 

 

 

 

 

20. Sự sống thiêng liêng – Cố Lm. Hồng Phúc

 

Trong Thánh Thư gửi giáo đoàn hôm nay, Thánh Giacôbê mời gọi tín hữu kiểm xét lại cách đối xử với anh em. Ngài viết: “Anh em là những người tin vào Đức Kitô vinh hiển thì anh em đừng thiên vị ai”. Người ta có cảm tưởng rằng Thánh Tông đồ đã dự một cuộc họp cộng đoàn, đã mục kích những sự kiện xảy ra và buộc lòng phải lên tiếng. Người ta hay đặt vấn đề giai cấp, trọng người giàu, coi thường kẻ nghèo, miệng hô hào tình huynh đệ bình đẳng, nhưng cách cư xử lại phân chia giai cấp.

“Anh em xét xử thiên vị và trở nên những quan xét đầy tà tâm”. Không phải tiền của, sự giàu sang hay nghèo hèn làm nên giá trị của con người, nhưng là đức tin, nghĩa là sự chấp nhận và đặt để Thiên Chúa vào trong đời mình. Người giàu hay trở nên bần tiện và người nghèo thường hay cởi mở, biết chia sẻ với người khác và “trở nên giàu có và được hưởng Nước Trời”.

Thánh Marcô là vị ngôn sứ duy nhất đã thuật lại việc Chúa chữa lành một người câm và điếc. Những chi tiết rõ rệt và thú vị làm liên tưởng đến Phêrô người đã chứng kiến phép lạ tại chỗ, và đã kể cho đồ đệ chép lại. Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđan, đến gần biển Galilê giữa miền thập tỉnh. Người ta dẫn đến một người câm và điếc. Chúa đã chữa lành.

Câm và điếc là một tật bệnh gây đau khổ nhiều, vì nạn nhân bị cắt đứt mọi đối thoại với kẻ khác và sống một mình lẻ loi. Chúa tỏ ra thông cảm và yêu mến anh, nêu gương cho Giáo hội lập nên những tổ chức bác ái để trợ giúp hạng người xấu số đó, như các nhà gọi là “Nhà Effata” (Hãy mở ra), danh xưng trích từ đoạn Phúc Âm này.

Chúa đã làm gì? Phúc Âm nói: Ngài đem anh ra khỏi đám đông. Vì Ngài không muốn dân chúng coi việc người làm có tính cách phù thủy. Phép lạ là do quyền năng của Chúa thực hiện, thật ra không cần đến sự việc bên ngoài, mà do tình thương của Chúa, như trong phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết. Ở đây, Chúa dùng nhiều tác động bên ngoài, để làm nên phép lạ, như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: “Ephpheta”, nghĩa là “hãy mở ra”, tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được.

Phải chăng những tác động và lời nói ấy tiên báo các phép bí tích mà một ngày xưa kia Chúa sẽ thiết lập trong Giáo hội, để thông chuyển sự sống ơn thánh. Chúa sẽ dùng chất liệu bên ngoài như nước, dầu, bánh, rượu, hiệp với lời thánh hóa để ban sự sống thiêng liêng cho chúng ta.

Phép lạ Chúa làm cũng là một bài học cho môn đệ. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận vừa thông chuyển Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như nhà Tiên tri Isaia từng nói: “Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh” (Isaia 50,4).

Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn đức tin, ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với một người bạn chí thiết. Xin Chúa hãy đặt lên câu “Epphata –Hãy mở ra”, trên con để con được nghe, được suy niệm, được biết công bố Lời Chúa. Giáo hội tiên khởi đã đặt nghi thức vào lễ rửa tội.

Hồi ấy, Hiêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì mấy về Thiên Chúa. Người say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, người nghe tiếng Chúa hỏi:

– Hiêrônimô, con là môn đệ của ai?

– Thưa con là môn đệ của Chúa.

– Không phải, con là môn đệ của Cicéron!

Từ đó, Hiêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Bêlem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: “Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgate (phổ thông) của ngài đã được Công đồng Triđentinô (thế kỷ XVI) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Giáo hội.

“Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Ga 1,14 – Đáp ca).

 

 

 

 

 

21. Vì không biết nghe

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được. Thế nhưng, y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc, không nghe được nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ thơ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.

Bài Tin mừng Chúa Nhật 23 TN B kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói về thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khỏ ấy dường như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho nhiều người và hậu quả cũng thật khó khắc phục. Dù thuộc bình diện thể lý hay bình diện tinh thần, thì luôn có mối liên hệ gần như là nhân quả giữa hai phạm trù nghe và nói. Đó là do bởi sự bất lực hay hạn chế trong khả năng nghe (không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác), nên người ta mắc bệnh câm hay ngọng là không nói được, nói không rõ, không chính xác hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói, hoặc có nói thì cũng như không.

Hẳn nhiên, chúng ta không chỉ thở dài phiền não mà còn bất bình với những người đang nắm trọng trách lãnh đạo vì cớ nào đó đã làm kiếp “chó câm” như kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI khi ngài còn là Hồng Y. Chúa Giêsu chỉ im lặng trước Caipha và trước Philatô sau khi đã nói những gì cần nói và phải nói: Tôi là Con Thiên Chúa Hằng Sống; Tôi là Vua, đến thế gian để làm chứng cho sự thật…(x.Mt 26,64; Ga 18,37). Ngay phút giây hấp hối trên thập giá Người vẫn nói lời tình yêu, lời chân lý cho đến khi “mọi sự đã hoàn tất”. Chúng ta cũng không chỉ bực mình mà còn phẫn nộ truớc những người thường xuyên nói với kiểu “nói ngọng, nói vẹt”, tức là nói không đúng hiện thực hay chỉ biết nói những gì được chỉ đạo, được lập trình sẵn… Có thể có nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan gây ra tình trạng này. Tuy nhiên ở đây chúng ta cùng xem xét một nguyên nhân đó là không biết nghe.

Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh chúng ta nhận ra điều này là không kể các kỳ công của cuộc tạo dựng và một số dấu lạ điềm thiêng, thì Thiên Chúa thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn, cụ thể là các ngôn sứ, những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret, một xứ sở không có gì đáng nói, một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng, như lời nhận định bộc trực của Nathanael với Philipphê (x.Ga 1,46). Chúa Giêsu lại chọn gọi 12 người cộng tác để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gủi với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người có quyền có chức. Họ thường nghe nhân viên thuộc cấp báo cáo, nghe người cộng sự thân cận… mà những người này thì khó tránh được chước cám dỗ nói những gì thuận tai cấp trên, đẹp lòng lãnh đạo, thế là nhiều khi có nghe cũng như không nghe vì không nắm được thực chất của sự kiện hay vấn đề. Một lẽ thường tình: người ta vốn thích nghe những gì dễ nghe.

Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than. Lịch sử cho biết thỉnh thoảng có được một vài minh quân đã biết “vi hành” trong lớp vỏ một dân thường để “nghe-nhìn” cho chính xác hơn tình cảnh dân chúng mà mình đang cai trị. Ngày nay trong sinh hoạt các Hội Dòng vẫn có được chuyện tốt đẹp này khi các Bề trên theo định kỳ, đi kinh lý các cơ sở thuộc quyền và gặp gỡ riêng với từng thành viên của Hội Dòng. Dù mang kiếp “làm dâu trăm họ”, nhưng điều này không chuẩn chước cho việc mục tử phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chiên trong lẫn ngoài đàn. Đã là mục tử thì không thể không “biết” chiên. Và một trong những điều kiện ắt có để biết chiên là phải biết lắng nghe. Mong sao việc gặp gỡ giữa mục tử và đàn chiên không dừng lại ở hình thức “tiếp xúc cử tri” như ngoài xã hội dân sự nước nhà chúng ta hiện nay.

Vẫn có những người tuy nghe rõ, nghe đúng nhưng làm như không nghe, không hiểu. Có thể xem nhiều người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu thuộc hạng người này. Chính Chúa Giêsu đã từng lấy lời ngôn sứ Isia để nhận định: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy: vì lòng dân này đã ra chai đá; chúng đã bịt tai, nhắm mắt…” (Mt 13,14). Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng, tức là nói không đúng với hiện thực khách quan, nhiều khi còn cố tình đổi trắng thay đen như trường hợp người ta vu khống Chúa Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ (x.Mc 3,20-30). Không chịu nghe hay không muốn nghe chính là một tình trạng cố chấp và Chúa Giêsu đã từng lên án thái độ này là “chống lại Thánh Thần” (x.Mt 12,32; Mc 3,29; Lc 12,10).

Chúa Giêsu đã từng minh nhiên khen ngợi sự khiêm nhu của vua quan và toàn dân thành Ninivê khi họ biết lắng nghe lời “tuyên họa” của Giona, để rồi ăn năn, sữa đổi đời sống (x.Lc 11,32). Quả thật, để biết lắng nghe thì không nguyên chỉ tìm cách đến với đám đông dân chúng, vì ý của trời thường phản ánh qua ý của dân, mà chúng ta còn cần phải có một tâm hồn khiêm nhu, hướng thiện thực sự.

“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con…” Lời kinh đầu ngày của các Giờ Kinh Phụng Vụ nhắc nhớ chúng ta chúng ta bổn phận ca ngợi Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng lời ngợi ca đẹp lòng Thiên Chúa nhất là nói lời yêu thương trong sự thật và nói lời sự thật trong tình yêu thương. Và chắc hẳn chúng ta sẽ lại nghe lời của Đấng Cứu Độ: Ephrata! Hãy mở ra! Hãy mở tai, mở mắt, mở lòng để biết lắng nghe!

 

 

 

 

 

22. Suy niệm của Lm. Alfonso

 

Tin Mừng Mc 7: 31-37 Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta.

Suy niệm:

Dân gian bảo rằng: “điếc hay ngóng, ngọng hay nói”, đó là vì người đó muốn tiếp nhận thông tin, lắng nghe tiếng nói của người khác, cũng như muốn truyền đạt thông tin, muốn nói để cho người khác hiểu mình. Vì vậy mà người mắc bệnh câm điếc sẽ dễ trở nên bực bội, uất ức khi họ bị mất đi tương quan với thế giới bên ngoài. Cho nên, hôm nay, trong đoạn Tin Mừng, người câm điếc được những người thân, bạn bè của mình đưa đến xin Chúa Giêsu chữa lành.

Khi thuật lại việc Chúa Giêsu đến với những người những người ngoại quốc vùng Tyrô, Siđon, cũng như miền Thập Tỉnh Decapolis, thánh sử Marcô muốn nhắm đến những người ngoại thuộc Hy Lạp và La Mã trở lại Kitô giáo. Qua đó, ngài làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu không đóng khung sứ vụ của mình trong nền văn hóa của Israel nhưng mở rộng sứ vụ loan báo Tin mừng ra cho lương dân.

Chúa Giêsu có cách chữa xem ra hơi khác lạ với việc đặt ngón tay vào tai người bệnh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời và hô lớn: “Ephata – mở ra”, để tai họ được mở ra và nghe được, miệng lưỡi mở ra và nói được. Điều này bởi vì con người chúng ta là xác đất vật hèn, người trần mắt thịt, nên Chúa chữa với những gì cụ thể, để con người cảm nhận tỏ tường bằng xúc giác.

Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta. Ngày nay, với những thiết bị công nghệ điện tử, mạng internet phủ sóng khắp nơi, và người ta dễ dàng biết chuyện Tây chuyện Tàu, bàn luận chuyện Âu, chuyện Mỹ. Thậm chí tin tức người ta truyền nhau còn nhanh hơn nhà báo chuyên nghiệp săn tin. Thế nhưng rồi con người ta cũng dễ sống khép kín. Người ta bịt kín bởi cặp kín đen, chiếc tai phone, với cái đầu lắc lư, bước chân nhịp nhịp theo điệu nhạc sập sình, đôi môi lẩm nhẩm theo các ca từ đã dần dần làm cho con người ta trở nên bị bệnh “câm điếc” về tinh thần, sống vô cảm trước nhu cầu cần giúp đỡ từ người xung quanh, sống không đoái hoài tới công bằng chân lý khi nhan nhản bên tai những bất công sai trái trong xã hội, sống mặc kệ tiếng nói lương tâm miễn sao có lợi cho mình là được. Và không khỏi kéo theo bệnh điếc lác trong việc lắng nghe và sống theo lời Chúa mời gọi trở nên thánh, bệnh ngọng ngịu ngại ngùng trong việc loan báo Tin Mừng tình thương Chúa cứu chuộc con người.

Vậy chúng ta rất cần để cho mình được Chúa chữa lành, cũng như giúp đưa nhau đến cho Chúa phục hồi khả năng “nghe – nói” nơi chúng ta. Bài đọc I trích sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết đối với bất cứ con người nào. Trái lại, với lời “Ephata”, Người luôn thứ tha, mở ra con đường cho chúng ta bước đi. Vì đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở cửa phụ; khi Ngài đóng một cánh cửa nào đó lại thì đồng thời Ngài lại mở ra nhiều cánh cửa khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó. Vì thế, trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời mà mỗi chúng ta đang đối diện, chúng ta được mời gọi không trở nên bi quan, tuyệt vọng đối với chính mình cũng như người khác. Thiên Chúa luôn luôn là niềm hy vọng và ơn cứu độ mỗi chúng ta.

Chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.

Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ: “Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này”.

Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:

– Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế! Ông thưa với thiên thần: -Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu. Thiên thần đáp lại: -Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi. Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, nghe bằng tai, không đủ, nói bằng miệng không diễn tả được hết. Xin cho con cũng biết dùng cả trái tim mình để lắng nghe, dùng đôi tay đôi chân mình để diễn tả sự quan tâm anh chị em mình. Lạy Chúa, xin hãy chạm vào chính con nữa và ra lệnh “Epphatha – hãy mở ra” để con cũng được chữa lành, hầu có thể “lắng nghe” tiếng Chúa mời gọi để nói về Chúa cho anh chị em bằng những hành động bác ái cụ th,ể giúp đỡ cho những người đang cần đón nhận Tin Mừng. Amen.

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ