Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1375485

GIEO GIỐNG

Gieo giống

Bài Tin mừng là dụ ngôn người gieo giống. Đây là dụ ngôn đầu tiên trong một loạt các dụ ngôn Chúa Giêsu giảng dạy. Trước hết, chúng ta có thể thắc mắc: Một kiểu gieo giống gì mà kỳ lạ thế? Tại sao không chỉ gieo trên đất tốt thôi mà lại gieo cả trên chỗ đá sỏi, đường đi và cả chỗ gai góc nữa? Thưa, gieo như thế, vì đây là cách làm ruộng của người dân miền thánh địa, xứ Palestin, họ có cách gieo giống khác với người Việt Nam chúng ta. Họ gieo trước rồi mới cày sau, nghĩa là họ dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi. Như vậy, người gieo giống trong dụ ngôn này đi gieo trong thửa ruộng chưa cày bừa gì cả.

Đàng khác, đất đai ở đây nhiều đá. Người Do thái thường nói khôi hài rằng: “Khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất, có ba túi đá thì Chúa đã làm rớt hết hai túi xuống đất Palestin”. Vì thế, trong việc làm ruộng của dân Do thái, việc lượm đá là một việc làm quen thuộc cũng như việc làm cỏ. Đá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước, thì gai là loại cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất.

Biết qua khung cảnh địa dư và cách làm ruộng của người Do thái xưa kia như thế, chúng ta mới dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đất đá, lối đi, bụi gai và đất tốt. Muốn gieo cho kín ruộng, người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt, vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả.

Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ, đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, và chân lý về tôn giáo đang núp sau bức màn dụ ngôn đó. Điều Ngài thực sự muốn giảng dạy là kết quả của Lời Chúa: Hạt giống tượng trưng cho lời Thiên Chúa gieo vào lòng người, và tùy theo đất, tức là tùy theo lòng người, mà có những kết quả khác nhau, như Chúa đã giải thích rõ ràng. Vì thế, ở đây chúng ta không giải thích nữa mà chú ý đến một điều khác, đó là cử chỉ tung hạt thật quảng đại của người gieo giống, và đây chính là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Quả thật, Thiên Chúa vô cùng quãng đại. Mặc dầu Chúa biết chúng ta sẽ lãng phí thật nhiều ân huệ của Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ vung tay phân phát thật rộng rãi. Chúng ta thử tưởng tượng: Nếu Chúa tính toán để không uổng phí chút nào thì tình cảnh chúng ta sẽ ra sao? Nhưng sự quảng đại của Chúa trong việc ban phát mọi ơn lành cho chúng ta, làm cho chúng ta an tâm và tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Ngài chẳng bao giờ rút lại tình yêu ấy, chỉ có chúng ta có thể từ chối hoặc bóp nghẹt, không cho tình yêu của Ngài triển nở trong chúng ta thôi.

Tình yêu được biểu lộ bằng quà tặng, bằng sự hiện diện, bằng hành động, và cuối cùng bằng sự trao cho nhau bản thân mình hoặc trong tình yêu hôn nhân, hoặc bằng sự tận hiến trong đời sống tu trì. Thiên Chúa bộc lộ tình yêu của Ngài bằng tất cả những cách thức đó, bằng quà tặng, bằng sự hiện diện và hành động không ngừng của Ngài trong mọi sự đối với mỗi người chúng ta. Ngài cho chúng ta cả chính mình Ngài, Ngài cho chúng ta cả người con một yêu dấu của Ngài. Và Con của Ngài đã cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng đọng lại trong tim.

Khi yêu chúng ta Thiên Chúa muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài, bởi vì tình yêu mời gọi tình yêu và tình yêu đáp lại tình yêu. Khi chúng ta đã đón nhận tình yêu của Chúa như thế, thì trái tim chúng ta đập cùng nhịp với trái tim Ngài và cùng mở rộng như trái tim Ngài, và chúng ta sẽ rộng tay để cho tình yêu của Ngài đến với mọi người bằng cuộc sống của chúng ta, dù người ta có biết đón nhận hay không. Bởi vì có những hạt lúa sẽ chết đi, sẽ mất không, do rơi vào sỏi đá, do chim trời lượm mất, hay do gai góc đè chết. Nhưng số hạt rơi vào đất tốt vẫn nhiều hơn, và sẽ sinh hoa kết quả ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Bởi vì mỗi hành động yêu thương được đón nhận sẽ làm nảy sinh những hành động yêu thương khác.

Nói rõ hơn, mỗi hành động yêu thương chúng ta làm cho người khác, là một hạt giống chúng ta gieo, không phải chỉ gieo vào chính người thụ hưởng, mà gieo vào cả những người chứng kiến nữa. hạt giống ấy sinh hoa kết trái khi chính người thụ hưởng hoặc người chứng kiến lại để cho tình thương thúc đẩy họ phục vụ người khác. Cứ thế mà tình yêu được nhân lên mãi, và cuộc sống này, xã hội này, thế giới này sẽ tốt đẹp hơn.

Tóm lại, những hạt giống yêu thương chúng ta gieo vào bất cứ nơi đâu, cho bất cứ người nào, cũng đều có hiệu quả tốt đẹp, chúng ta hãy bắt chước người gieo giống có thái độ hào phóng, quảng đại trong dụ ngôn, là Thiên Chúa, để tất cả những hạt giống chúng ta gieo vãi, là những cử chỉ, thái độ, việc làm yêu thương của chúng ta đều đâm bông kết trái, và như thế cuộc sống này, xã hội này, thế giới này càng ngày càng tốt đẹp hơn.


 

36. Dụ ngôn người gieo giống – Lm FX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Sau khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng có quyền giải thích Luật (ch. 5–7), rồi minh họa quyền đó bằng một vài truyện về phép lạ (ch. 8–9), tác giả Mátthêu đã cho thấy Đức Giêsu sai phái và ban "bài sai" cho các sứ giả của Nước Thiên Chúa (ch. 10). Nhưng chẳng mấy chốc vương quyền này đã bị đặt thành vấn đề, hoặc bởi chính Gioan Tẩy Giả, hoặc bởi các thành miền Galilê (ch. 11). Từ khước Đức Giêsu là Đấng thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa, đây là đề tài của ch. 12: đề tài này đi tới đỉnh cao khi những người Pharisêu tố giác là Đức Giêsu bị quỷ ám (x. 12,22-24) và Đức Giêsu tuyên bố về Gia đình thật của Người (x. 12,46-50): Đức Giêsu đoạn tuyệt với môi trường tinh thần của Người. Trên nền tảng của bài tường thuật nói về sự đoạn tuyệt bi đát này với Do Thái giáo, ch. 13 đề cập tới "mầu nhiệm" Nước Thiên Chúa, giải thích làm thế nào mà Triều Đại Thiên Chúa lại vừa có thể được khai mạc trên mặt đất vừa bị loài người phản đối hoặc không được biết đến. Nối tiếp các bài tường thuật về các xung đột ở ch. 12, các dụ ngôn ở ch. 13 có hai ý nghĩa:

- đối với các môn đệ, các dụ ngôn này giải thích vì sao Nước Thiên Chúa, đã được Đức Giêsu khai mào, lại chưa được biểu lộ ra trong vinh quang, đặc biệt tại sao những bước đầu của Nước Thiên Chúa trong sứ vụ của Đức Giêsu lại thiếu vẻ huy hoàng và oai phong đến thế;

- đối với những người ở ngoài (c. 11), sau cuộc đoạn tuyệt được nói đến ở ch. 12, các dụ ngôn này trước tiên phải khẳng định rằng những gì họ có thể thấy từ bên ngoài về Nước Thiên Chúa, là được ban cho họ để xác nhận thái độ không tin của họ; và điều thuộc về Mầu nhiệm, nghĩa là thuộc về chương trình của Thiên Chúa đối với Vương quốc của Ngài.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Giới thiệu chương các dụ ngôn (13,1-3a);

2) Dụ ngôn Người gieo giống (13,3b-9);

3) Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (13,10-17: hai phần nho a- cc. 11-12; b- cc. 13-17 theo cấu trúc chuyển hoán);

4) Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (13,18-23).

3.- Vài điểm chú giải

- dụ ngôn (3): Trong hy ngữ, có đọng từ paraballô có nghĩa là "so sánh, đối chiếu". Kể một dụ ngôn (parabolê, hầu như tương đương với từ Híp-ri mâshâl), là kể một tình huống nhằm lưu ý về một thực tại ít được chú ý hơn, nhưng tác giả muốn các thính giả biết. Tác giả dụ ngôn không phải là một sử gia, nhưng là một nhà thần học và một nhà luân lý; ông có thể sáng tác ra các hoạt cảnh tùy theo sứ điệp hoặc bài học ông muốn truyền đạt. Một dụ ngôn không phải là một ẩn dụ: trong một ẩn dụ, mọi chi tiết đều có ý nghĩa, còn trong một dụ ngôn, người ta chỉ nhắm đến sứ điệp tổng quát (Tuy nhiên, dụ ngôn Người gieo giống được giải thích ra lại có vẻ là một ẩn dụ). Trong dụ ngôn, cần đặc biệt ghi nhận các nét "khác thường" thì mới hiểu được bài học căn bản.

- có những hạt rơi xuống vệ đường (4): Hẳn là người nông phu có điên thì mới gieo hạt giống lên mặt đường đã chai lì, hoăc lên vùng sỏi đá hay vào các bụi gai (x. cc. 5.7)! Tuy nhiên, theo J. Jeremias, tập tục trồng lúa của Paléttina là gieo giống trước khi cày xới đất cho hạt giống lọt xuống lớp đất sâu. Thật ra lối giải thích này tuy hấp dẫn nhưng không phù hợp với những gì đã xảy ra thật sự trong bài dụ ngôn. Vì vậy thay vì ra sức bảo vệ tính xác thực của dụ ngôn, ta nên lưu ý đến khía cạnh "khác thường" của lối xử sự của người gieo giống.

- hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục (8): Có những nhà chú giải như Jeremias cho rằng dụ ngôn này là một bài khuyến khích cổ võ tin vào thành công cuối cùng. Tuy nhiên, có một số khó khăn: (1) Một sử gia kinh tế (K.D. White) cho biết rằng năng suất 1 gấp 100, thậm chí 1 gấp 400, không phải là lạ lùng, chẳng hạn nếu trồng lúa trong vùng Giléad, gần Gađara. (2) Nếu Mt đã muốn nêu bật mùa màng bội thu, hẳn là ngài đã dùng chuỗi số đi lên như Mc (30, 60, 100) thay vì chuỗi số đi xuống (100, 60, 30), bởi vì như thế sẽ làm yếu đi bài học về tính lạc quan. (3) Trong năm câu của bài dụ ngôn, có tới bốn câu mô tả sự thất bại của vụ gieo (và trong phần giải thích, cũng có một tỷ lệ như thế). (4) Nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống dường như lại phù hợp hơn nhiều với ngữ cảnh tổng quát của các chương này trong TM Mt, vì các ch. 11–12 mô tả sức chống đối ngày một gia tăng để đáp lại những hành vi quyền lực trong các ch. 8–9.

Vậy không nhất thiết phải loại bỏ lối giải thích "lạc quan" (Jeremias), bởi vì quả thất Đấng Mêsia sẽ vẫn chiến thắng. Nhưng bởi vì những người đương thời với Đức Giêsu vẫn đương nhiên liên kết Đấng Mêsia với sự thành công, có lẽ Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến phương diện này đâu. Điều làm nên "mầu nhiệm Nước Trời", mầu nhiệm mà chỉ một nhóm giới hạn "những kẻ bé mọn" mới có thể hiểu được, đó là cuối cùng Đấng Mêsia chỉ có thể thành công xuyên qua thất bại.

Tuy nhiên, viễn tượng của phần giải thích lại theo hướng của cuộc phán xét: Lúc đầu, bài dụ ngôn nhắm nhiều hơn đến các loại đất khác nhau và vụ thu hoạch cuối cùng, nhưng sang phần giải thích, Mt đã thay đổi Mc mà đặt cho dụ ngôn nhan đề "Người gieo giống" (Mt 13,18). Thật ra người gieo giống chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong truyện, vì bài đã trở thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời". Tuy nhiên, tác giả Mt làm như thế là để sau này ngài có thể đồng hóa người gieo giống với Đức Kitô (x. 13,37). Bởi vì đối với ngài, Đức Giêsu tháp tùng Hội Thánh qua dòng lịch sử (x. 28,18). Người chính là Đấng đang hiện diện và tích cực hoạt động trong công việc gieo rắc Lời (x. 13,37). Người tự đồng hóa với các thừa sai của Người (x. 10,40). Chính Người xây dựng Hội Thánh (x. 16,18), tích cực hỗ trợ Hội Thánh trong việc duy trì kỷ luật (x. 18,18-20). Và cuối cùng Người sẽ là vị Thẩm phán tách các môn đệ trung thành khỏi những đồ đệ bất trung (x. 13,41-43). Quả thật, Mt đã muốn đọc tất cả các dụ ngôn của ch. 13 này dưới ánh sáng của cuộc phán xét cuối cùng. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm cá nhân là phải sinh "hoa quả", tức là các hành vi tốt lành, và ngài đã đảo lộn thứ tự của Mc là 30-60-100 thành 100-60-30 cho phù hợp với các truyện của ngài về phán xét: bắt đầu với việc ca ngợi những người thu hoạch nhiều hoa quả nhất, để đi đến chỗ phê phán những người không sinh hoa quả (x. 25,14-30). Vậy một truyện về sức mạnh của Lời Chúa đã trở thành truyện về phán xét.

- các mầu nhiệm Nước Trời (11): Công thức này được lấy từ nền văn chương khải huyền. Công thức nhắc lại những bí mật tối hậu của Thiên Chúa, cụ thể là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tập trung nơi các hoạt động cứu chữa của Đức Kitô.

- Hễ ai nghe lời ... đó là kẻ đã được gieo (19): Dụ ngôn "Người gieo giống" đã được chuyển thành dụ ngôn "Lời rao giảng về Nước Trời". Trọng tâm đã chuyển từ một giáo huấn về mầu nhiệm Đấng Mêsia phải thất bại về mặt nhân loại sang việc lưu ý, khuyến khích, là hãy sẵn lòng đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù vậy, giữa hai bài dụ ngôn và phần giải thích không có mâu thuẫn, mà chỉ có khác biệt về điểm nhấn mạnh thôi. Mt đã sửa nhẹ khi viết lại Mc 4,14 để tránh sự đụng chạm trực tiếp giữa hạt giống là lời (Mc 4,14) và hạt giống là người nghe (x. Mc 4,16.18.20), nhưng cũng không thành công bao nhiêu, vì ở Mt 13,19b, "điều đã được gieo trong lòng" hẳn là lời, thì ở cc. 20tt, "điều (CGKPV: "kẻ") được gieo" là "kẻ nghe". Ở c. 19, Mt lại xác định lời được gieo là "Lời rao giảng về Nước Trời".

Rõ ràng Mt nhấn mạnh rằng người môn đệ là người hiểu lời: ở c. 19, ngài xác định rằng vấn đề với loại hạt giống/đất thứ nhất là thiếu hiểu biết, và đến c. 23, ngài xác định rằng hạt giống tốt/đất tốt thì nghe và hiểu. Đây là hành văn đóng khung (x. thêm 13,13.15.51). Và Mt đã thay đổi chủ từ số phức của Mc (x. Mc 4,16tt) thành số đơn (x. Mt 13,20tt) để nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân. Câu 13,23 tóm bằng cách mô tả dung mạo của hạt giống tốt/đất tốt với các cặp động từ bổ nghĩa cho nhau: nghe và hiểu, sinh hoa kết quả và làm ra (so với Mc 4,20).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Giới thiệu chương các dụ ngôn (1-3a)

Toàn chương 13 của TM I có một cụm từ dẫn nhập ngắn về thời gian, "hôm ấy" (en tê hêmera ekeinê) nhằm tạo một liên kết với cảnh trước, nhưng lại đưa Đức Giêsu sang một cảnh mới. Những người nghe, là "dân chúng", lại được nhắc lại. Đức Giêsu ra khỏi "nhà" và đi đến bờ hồ (c. 1). Đám đông lại kéo đến với Người (c. 2). Đây là lần duy nhất tác giả ghi nhận Đức Giêsu "rời bỏ nhà". Chi tiết lạ, bởi vì ngay khi Người chuyển từ Nadarét đến Caphácnaum, tác giả cũng không hề lưu ý. Rất có thể chi tiết này đã có sẵn trong nguồn Mt dùng và là một từ để mở vào một hành trình truyền giáo. Nhưng cũng rất có thể là trong ý Mt, là tác giả quen loại bỏ các chi tiết miêu tả, từ ngữ ấy có một ý nghĩa ngôn sứ và mục vụ. Sau bài Diễn từ truyền giáo, từ này nhắc nhớ các đòi hỏi của nhiệm vụ truyền giáo. Tất cả những ai đã được mời bước theo Đức Giêsu (4,18-22) và đã được sai phái đi nhân danh Người, đều phải chấp nhận "bỏ nhà" (10,35-36; 19,21).

Nới chốn là "Biển Hồ" (Ghennêsarét): đây là nơi xảy ra việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên (4,18) và cũng là nơi mà nhóm các môn đệ có một kinh nghiệm đầu về Đức Giêsu (8,24-27). Đức Giêsu lên một "chiếc thuyền", mà ta có thể coi là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23), nhưng trong TM Mt, con thuyền hàm ý một sự xa cách nào đó với các đám đông (x. 14,13; 15,39). Cũng như khi bắt đầu Bài Giảng trên núi, ở đây Người cũng "ngồi" (2 lần; x. 5,1; 7,29; 15,29; 23,2; 24,3); đây là dấu chứng tỏ tư cách của một vị thầy. Đám đông thì "đứng": đi theo ngữ cảnh của TM I, có lẽ ta không nghĩ tới tư thế đứng trong một đền thờ hay một hội đường, mà là tư thế của gia đình Đức Giêsu "đứng bên ngoài" (12,46-47). Chương 13 sẽ cho thấy làm thế nào dân chúng chiến chỗ của những người đứng bên ngoài.

Đức Giêsu bắt đầu nói với dân chúng. Tác giả Mt không dùng từ "didaskeô, "dạy" của TM Mc, mà dùng động từ "nói" (laleô, "to speak"), bởi vì ngài thường dùng động từ "dạy" cho việc giải nghĩa Lề Luật và công bố cung cách sống luân lý, thường ở trong hội đường (4,23; 5,2; 7,29; 9,35; 11,1; 13,54; 21,23; 26,55; 28,20). Bài diễn từ sẽ tập trung vào mầu nhiệm Nước Trời (c. 11), nhưng được diễn tả bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, bằng "dụ ngôn" (x. cc. 3.10.13). Chi tiết này tương ứng với cc. 10,13,34 và 53.

* Dụ ngôn Người gieo giống (3b-9)

Đọc bài dụ ngôn, ta ghi nhận: Ta không thấy nói là đất mầu mỡ hay cằn cỗi, bùn lầy hay khô cứng, bằng phẳng hay mấp mô. Ta cũng không biết là vụ gieo giống được thực hiện vào mùa thu hay đầu mùa đông. Cũng khôn có một lời nào về khí hậu. Như vậy, chỉ những điều được nói tới trong bài mới quan trọng thôi. Nhân vật chính là "người gieo giống" (ho speirôn) mà ta có thể thêm vào tính từ "siêu đẳng". Ông đi vào sân khấu một mình; ông làm một công việc lâu giờ và mệt nhọc, mà không hé một lời, hoặc để than trách hoặc để nói lên sự thỏa mãn. Ở đây, chỉ có các sự kiện. Ta có thể gọi đây là một "hành động biểu tượng" được minh họa bởi một nhà bình luận giấu mặt.

Có nhiều yếu tố của bài dụ ngôn được nêu ra: hành vi gieo giống, hạt giống, các loại đất, chim trời, ...; nhưng có thể nói độc giả được mời chú ý tối đa đến người gieo giống, công việc của ông, sự cần mẫn, sự can đảm, sự cương quyết của ông, cũng như các kết quả. Ông là một nông dân lạc quan, tin tưởng rằng cả "các con đường" khô cứng, những nơi sỏi đá, các bụi gai cũng có thể làm cho hạt giống sinh hoa kết quả. Không phải là ông thiếu kinh nghiệm, vì bất cứ người nào ít kinh nghiệm nhất cũng hiểu rằng hạt giống không thể tăng trưởng trên những mảnh đất loại đó, nhưng ông là người cải tổ các kỹ thuât truyền thống.

Thật ra công việc gieo giống chỉ là khởi điểm để đưa tới điểm khác. Tác giả đang nghĩ tới hoạt động của một người thợ khác, là nhà rao giảng Tin Mừng, hay chính xác hơn, đó là chính Đức Kitô. Chính Người đã cách mạng các tiêu chuẩn của việc giảng dạy quen thuộc (của người Pharisêu) khi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho mọi hạng người, không phải chỉ cho những người "tốt", nhưng cho mọi người. Sứ mạng của Người không được bù đắp bởi những thành công tức thời (trái lại, thập giá đang chờ Người!), nhưng Người không đầu hàng trước các thất bại, Người tiếp tục đi tới và gieo vãi. Ông đã tưởng rằng luôn có trước mặt một đám đất tốt, nếu không, ông đã chẳng phí phạm hạt giống. Thế nhưng cũng một loại hạt giống lại đạt được bốn loại kết quả: những nỗ lực đầu tiên đã thất bại, chỉ những nỗ lực cuối cùng mới có kết quả. Đức Giêsu cũng đã ở trong hoàn cảnh tương tự. Người đã thường xuyên ra đi, ngay từ buổi đầu, để gieo Lời trên khắp các nẻo đường Paléttina, nhưng mặc dù lao nhọc, Người không thâu đạt được các kết quả tốt. Sự hăng hái ban đầu nay đã tan biến nơi các thính giả và nhiều người đã rút lui, không bước theo Người nữa. Dụ ngôn đang đương đầu với phương diện chướng kỳ nhất của sứ vụ Nước Trời: dường như phần lớn công việc tông đồ, giống như phần lớn hạt giống, đã bị phí đi. Nhưng Đức Giêsu không nản chí, Người không nhìn tới thời giờ và sự mệt nhọc; Người không khựng lại trước các thất bại; Người đã tiếp xúc gặp gỡ (x. 11,19), để cho thấy rằng cả mảnh đất khô chồi nhất vẫn có thể trở thành đất "tốt".

Trong khi biện minh cho các kết quả của công việc của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, dụ ngôn cũng trả lời cho các đòi hỏi biện giáo và thần học của cộng đoàn tiên khởi. Nhiệm cuộc cứu độ mới này phải chấp nhận nguyên tắc là thành công chỉ đến xuyên qua thất bại. Vậy có thể tóm tắt ý nghĩa dụ ngôn như sau: Cũng y như người gieo giống đã làm công việc của mình xuyên qua vô số khó khăn thì mới đạt thành công, Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu khai mào sẽ chỉ được thiết lập xuyên qua vô số những thất bại đáng kể. Và đó lại chính là điều mà cả người Pharisêu lẫn các đám dông không thể "hiểu" được. Nhưng thành công được nêu ra trong bài dụ ngôn cũng là một lời khuyến cáo: có hạt được gấp trăm, nhưng có hạt chỉ được sáu chục, và có hạt lại chỉ được ba chục mà thôi. Kết quả có đó vẫn không được làm cho người môn đệ rơi vào tình trạng lạc quan ngây thơ mà không tiếp tục cố gắng nữa.

* Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (10-17)

Đức Giêsu vẫn còn ở trên thuyền (c. 2), nhưng các môn đệ vẫn cứ đến gần Người mà hỏi, mà cho đến nay ta cũng chẳng thấy các ông đâu cả! Các ông trao đổi với Người một câu chuyện (x. cc. 10.18.241.31) kéo dài khá lâu trong khi đám đông thinh lặng chứng kiến (c. 36). Đây những chỗ thiếu mạch lạc do công việc soạn thảo.

Giảng dạy bằng dụ ngôn là một cách mới, do đó, cần biện minh. Ở đây tác giả thu gom lại các câu thuộc nhiều xuất xứ có tầm mức khác nhau dường như không đáp ứng mục tiêu chờ đợi. Chúng giúp "giải thích" vì sao các môn đệ đón nhận, còn người Do-thái thì không đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này, chúng ta đã thấy ở 11,19.25-26. Ở tại nguồn, có sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa, Đấng tùy nghi "cho" (didômi) những người này mà không cho những người kia được hiểu các mầu nhiệm Nước Trời (c. 11). Theo văn mạch, "anh em" là các môn đệ, còn "họ" là dân chúng (c. 2). Sự cứng tin của người Do-thái, Hội Thánh sơ khai thấy là không hiểu được, nên đã gán thái độ tiêu cực này cho một hành động (trừng phạt) của Thiên Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã giải thích đây là ý muốn của Thiên Chúa (x. 11,25-27). Lịch sử được giải thích, hoặc đúng hơn, được bẻ lại theo thần học, nhưng làm như thế là gây ra những trục trặc trầm trọng hơn những trục trặc người ta muốn giải quyết.

Lời khẳng định hàm hồ ở c. 12 được làm sáng tỏ bởi một lời khác còn tăm tối hơn. Lời này minh họa sự tự do của Thiên Chúa nhưng che mất sự công minh của Người. Động từ "ban/cho" nêu bật sự quảng đại của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ cho một số người, là những người đã được ưu đãi, khiến cho họ thêm dồi dào, còn những kẻ không có gì, thì còn bị tước mất cả những gì họ có thể có (c. 13).

Sau những lời "tâm sự" này, Đức Giêsu giải thích lý do dùng ngôn ngữ dụ ngôn bằng cách nại đến một bản văn của Isaia (6,9-10). Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử cứu độ, người ta thấy những thất bại như Đức Giêsu. Dường như đây là thân phận của các ngôn sứ. Nhưng trước khi trích dẫn đoạn dài (cc. 14b-15), Mt tóm tắt đoạn văn một cách rõ ràng (c. 13b). Đức Giêsu đã chọn ngôn ngữ ẩn dụ, một kiểu nói thường thấy nơi các ngôn sứ, "bởi vì" (hoti nguyên nhân) các người đồng hương đã không muốn "thấy và nghe" những gì Người đã loan báo và đề nghị cho họ bằng ngôn ngữ thông thường. Đây là một sự thay đổi trong chiến thuật do sự cứng cỏi ương bướng của các thính giả, chứ không phải do một phương pháp mục vụ mới. Ai đã từ chối đề nghị đầu tiên, thì sẽ nhận được một đề nghị khác không phải dễ hơn, nhưng tối tăm hơn, che phủ hơn, huyền bí hơn. Sự từ khước của con người là nguyên do khiến Thiên Chúa, Đức Giêsu co lại. Mc còn cứng rắn hơn nữa vì ngài gán cho Đấng Cứu thế ý định trừng phạt: "để [hina mục đích] họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy" (Mc 4,11)2.

Mt rút bản văn Is 6,9-10 từ Bản dịch LXX; so với bản Híp-ri, trong Bản dịch Hy Lạp này, mọi nét phi lý về thần học đã bị loại đi. Vị ngôn sứ tiên liệu sứ mạng của ông sẽ thất bại ngay bước đầu, do các thính giả cứng lòng. Ông vẫn mạnh mẽ can đảm làm việc để mong hoán cải toàn thể Israel. Như thế, nếu công việc của ông không đạt được kết quả mong ước, lỗi thuộc về con cái Israel. Đức Giêsu cũng thấy sứ mạng của Người đang đi vào con đường đó. Nhưng khi họ từ chối Đấng Mêsia, họ đã làm cho lời sấm ngôn nên trọn (c. 14). Ngôn sứ Isaia dĩ nhiên không nghĩ tới lời giảng của Đức Giêsu, nhưng điều này không ngăn cản Mt thấy rằng vị ngôn sứ cũng đã báo trước về số phận của lời rao giảng này.

Tác giả đang "cay cú" với hội đường, nhưng ngài còn tỏ ra bận tâm với cộng đoàn hơn (cc. 16-17). Mối phúc của các môn đệ đã được công bố ngay trong phần mở của Bài Giảng trên núi (5,12). Bây giờ Mt cảm thấy cần nhắc lại để nâng đỡ đức tin vẫn còn yếu ớt của các tín hữu. Mối phúc này hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận bản thân và công việc của Đức Kitô. Đây chính là vinh dự họ có, còn lớn lao hơn vinh sự của các vị Tổ phụ Cựu Ước. Bằng móc nối này, Mt cũng cho thấy cộng đoàn Do Thái – Kitô hữu này mới là sự nối dài của Israel chân chính (chứ không phải là hội đường).

* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (18-23)

Phần "giải thích" lại tách khỏi chính bài dụ ngôn (cc. 3-9) về mặt nội dung và hình thức. Câu truyện đầu được thêm vào nhiều chi tiết mới. Các chi tiết mô tả là hạt giống, gai góc, chim trời, ... đã có một ý nghĩa biểu tượng mà trước đây không có. Dụ ngôn đã biến thành hầu như một ẩn dụ và đã thay đổi cả chủ đề. Bài gốc là một loan báo về những chiến thắng tương lai của Nước thiên sai; đề tài của "phần giải thích" lại nhìn đến số phận của lời nơi mỗi thính giả. "Dụ ngôn Người gieo giống" đã chuyển thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời" (c. 19); từ ngữ logos được dùng 5 lần, trong khi không xuất hiện trong phần đầu. Các dạng đất khác nhau không tượng trưng các thính giả nghe lời Đức Giêsu rao giảng, nhưng các loại Kitô hữu khác nhau, các tâm trạng khác nhau họ có khi nghe sứ điệp Tin Mừng. Người giải thích đã quên mất cử tọa Do Thái đang được Đức Giêsu ngỏ lời với, để nói với một cử tọa đã và đang trải nghiệm những khó khăn mà đức tin Kitô giáo gặp phải. Trong bản văn đầu, tác giả nhắm vào sự tương phản và hướng về bài học chung kết phát xuất từ kết quả phong phú do đất tốt; ngược lại, phần giải thích quan tâm đến cả các mưu toan không thành công. Trong bản văn này, các nguyên do ngăn cản hoặc làm chậm sự phát triển của hạt giống là gian nan (thlipsis) và ngược đãi (diôgmos); các nghịch cảnh này liên hệ đến hoàn cảnh của Hội Thánh sơ khai (tương tự trong Lc 8,15: hypomonê hiểu là "sự kiên trì" khi gặp các nguy hiểm đối với đức tin).

Bản văn mới này cho thấy rằng mọi sự tùy thuộc thiện chí của mỗi một tín hữu. Tác giả đã thay từ ngữ số phức ha men, "có những [hạt]", alla, "có những [hạt] khác" (cc. 4-8) bằng từ số đơn ("ai nghe": cc. 20.22.23). Lời đến tai mọi người (đám đông và các môn đệ) nhưng không phải mọi người đều quan tâm đến và vâng lời như nhau ("nghe" theo nghĩa Kinh Thánh là "hiểu", tức là gắn bó về trí thức, và "vâng lời", tức gắn bó bằng đời sống. Đây chính là thần học kinh Shema (Đnl 6,4-5) được vào cho các Kitô hữu.

+ Kết luận

Bài Giảng trên núi và bài Diễn từ về truyền giáo nhắm trực tiếp đến chính tư cách môn đệ; còn các dụ ngôn lại nhắm đến cách thi hành sứ mạng truyền giáo, hoàn cảnh của Hội Thánh. Vào lúc tác giả viết, Hội Thánh đã trở nên vững vàng ở khắp nơi. Dù vậy, sự cứng lòng của người Do Thái vẫn là một cái gai làm cho các tín hữu phải đau đớn (cc. 10-17). Cần phải nêu bật tất cả các cố gắng của Đức Giêsu nhằm đưa sứ điệp Phúc Âm đến cho người đồng hương của Người.

Tuy nhiên, sứ điệp cũng được gửi đến cho các môn đệ của Đức Giêsu. Họ phải thấy mình vừa được nhắc nhở vừa được trấn an: được nhắc nhở hãy trở nên đất tốt và sinh hoa quả tối đa; được trấn an do biết Đức Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người có gặp thất bại, nhưng các thất bại này được tiên liệu trong chương trình của Thiên Chúa.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Quả thật, thành công đến từ thất bại. Thất bại, như tấn bi kịch thập giá sẽ cho thấy, là đảm bảo cho thành công. Do đó, bài dụ ngôn là một sứ điệp chiến thắng gửi đến cho các tông đồ và các tín hữu, là một lời khuyến khích và trấn an. Hiểu như thế, bài dụ ngôn là một lời loan báo mang tính ngôn sứ báo trước các chiến thắng của Đức Kitô và của Hội Thánh.

2. Hoạt động của Đức Giêsu chỉ đâm chồi và kết trái tại nơi nào có đất tốt, nghĩa là tại nơi nào Người gặp được những tư thế sẵn sàng. Như thế, người tín hữu phải trở thành "đất tốt" nếu muốn làm cho hạt giống thần linh nhanh chóng đâm chồi và kết quả nơi mình và nơi người khác. Phải mở trái tim ra, phải san bằng con đường mà đón sứ điệp Kitô giáo. Bài dụ ngôn đang muốn lay động tình trạng tê cóng, lưỡng lự hoạc cứng cỏi của các thính giả.

3. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã cho biết rằng người môn đệ không chỉ được đánh giá theo những gì đã biết, nhưng còn theo những gì đã làm (7,13-27). Tiêu chuẩn này được nhắc lại trong phần giải thích dụ ngôn. Không phải chỉ cần nghe lời giảng là đã được cứu, nhưng còn phải diễn tả ra bằng những việc tốt lành, tức là làm cho lời rao giảng đã nghe sinh hoa kết quả. Tiêu chuẩn này đã được nhắc lại nhiều lần (x. 3,8.10; 7,17-19; 12,33). Các quả chứng tỏ phẩm chất của cây; không có hoa quả, mọi sự chỉ là chuyện bì phu.

4. Đời sống Kitô hữu sẽ gặp vô số nguy hiểm (Satan, gian nan, thử thách, bách hại, các lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý). Cần phải có sức mạnh và sự can đảm mà thắng vượt chúng. Bài dụ ngôn về Lời là bài dụ ngôn về đức tin: bài này minh họa tấn bi kịch của người phải hằng ngày chiến đấu để giữ vững sự ưng thuận đối với sứ điệp của Đức Kitô.


 

37. Suy niệm của Noel Quesson

Trong ba Chúa nhật của mùa hè đang đến, chúng ta sẽ đọc bảy bài dụ ngôn mà Thánh Matthêu đã tập họp trong bài giảng dài thứ ba của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu đi qua một khúc quanh trong sứ vụ của Người: Người đụng phải sự thù ghét công khai của các thủ lãnh tôn giáo. Họ quyết định loại trừ Người (Mt 12,14)... Những đám đông, sau nhiệt tình dễ dàng lúc ban đầu, đã thất vọng bởi vì Đấng Mêsia ấy từ chối bước qua hành động chính trị.

Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven biển hồ. Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.

"Dụ ngôn" dịch từ "mâchâl" của tiếng Do Thái, có nghĩa là "một chuyện kể tượng trưng dùng để làm cho người ta khám phá một ý nghĩa ẩn giấu": Thế giới tạo vật đầy những biểu tượng. Khi quan sát những thực tại tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Đức Giêsu nhìn qua chúng, những thực tại thánh thiêng. Ví dụ như công việc của những nông dân làm Người nghĩ đến một sự việc khác... Các bạn thử đoán việc gì nào?

Người nói: "Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay vì đất không sâu nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt...”

Những hạt giống tội nghiệp! Và người gieo hạt đáng thương! Tại sao Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một loạt những thất bại ấy? Cho đến bây giờ công việc của người gieo hạt hoàn toàn vô ích.

Chúng ta cũng thế, thường trong những thực tế nào đó của cuộc sống, chúng ta có ấn tượng đã thất bại thảm hại... ngay từ đầu, và sau một thời gian ngắn nẩy mầm hoặc sau một thời dài hơn thành công. Tất cả những thất bại này, Đức Giêsu đã gặp. Trong lúc kể lại dụ ngôn này, Người nghĩ đến những thất bại trong việc tông đồ của chính mình. Không che giấu mọi sự thất bại đó Đức Giêsu phân tích chúng một cách sáng suốt...

Nhưng Người muốn đi tới đâu? Người gieo hạt phải chăng đã mất thời gian vô ích?

Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa, kết quả: hạt dược gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe.

Vậy đây là một bài học phi thường về lòng trông cậy mà Đức Giêsu đem lại cho chúng ta. Khi bạn nhìn đời sống đáng thương của bạn, khi bạn nhìn Giáo Hội, hoặc thế giới bạn chớ ở lại trong những nhận định bi quan và nản chí: bất chấp mọi thất bại, một mùa gặt sẽ đến. Các bậc cha mẹ gặp nhiều khó khăn với con cái mình, xin các ông bà chớ từ chối gieo hạt. Giới trẻ chưa thành công trong công việc của mình, các bạn hãy lắng nghe sứ điệp lạc quan và thực tế của Đức Giêsu. Mặc dù sứ điệp đã được công bố hai ngàn năm nay, nó vẫn giữ được mọi sự mới mẻ hợp thời đại. Thế giới ngày nay luôn cần đến sứ điệp ấy.

Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết phân biệt các hạt giống nào... hứa hẹn những mùa gặt... bất chấp mọi vẻ bề ngoài trái ngược.

Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ, Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa! còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.

Không đi vào việc giải thích chuyên môn đoạn văn khó hiểu này, ít nhất chúng ta hãy nhận ra chân lý rất hiện đại của nhận định ấy... Có những thời kỳ người ta có sự nhất trí trong đức tin và toàn thể những người được dạy giáo lý xem ra đều gắn đức tin ấy với đức tin được giảng dạy. Ngày nay, chúng ta tìm thấy tình hình mà Đức Giêsu gợi ra: người ta có thể "tiếp nhận" hoặc "từ khước” lời đề nghị của đức tin. Đức Giêsu phân biệt rõ ràng hai loại thính giả: những người nhìn, nghe và hiểu... và những người không nhìn, không nghe. Đức Giêsu đã không chọn lựa để Người trở nên khó hiểu? Người không nói: "bằng dụ ngôn" để che giấu một số chân lý cho lột số người.

Thật ra, Đức Giêsu không thể nói về Thiên Chúa cách nào khác với dụ ngôn. Sự thuyết giáo của Người mạc khải những "mầu nhiệm” vượt quá con người một cách vô cùng tận, và một phần lớn vẫn còn bị "che giấu”... Chính trong phần không rõ ràng này mà tự do của con người được kêu gọi. Người ta không “tự do" trước điều gì đã hiển nhiên. Mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa, trong tất cả sự phong phú của nó, không phải là một chân lý được áp đặt. Đó là một bí mật chỉ được bày tỏ cho những tấm lòng sẵn sàng lắng nghe. Một dụ ngôn không rõ ràng... Phải tìm kiếm... Phải ước muốn.

Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia: "Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Và lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành”.

Chúng ta cảm thấy sự đau khổ của Đức Giêsu nhiều dường nào trước những sự từ khước ấy! Người đã đến để đem lại cho họ ánh sáng, để mở mắt họ ra... để chữa cho họ bệnh mù lòa. Nhưng Người không thể cũng không muốn “ép buộc” họ. Người tôn trọng tự do của họ.

Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống.

Vâng, Lạy Chúa, con muốn lắng nghe. Xin Chúa cho con đôi tai tinh tế và đôi mắt mới mẻ.

Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ được gieo bên vệ đường.

Trong việc giải thích dụ ngôn, điểm nhấn mạnh không được đặt trên khả năng của hạt giống hay niềm hy vọng không gì thắng nổi của người gieo hạt (như chúng ta đã ghi nhận)… nhưng đặt trên sự khác nhau của đất, nghĩa là trên những thiên hướng của những người đón nhận "lời Thiên Chúa"... Trong nhóm người thứ nhất đức tin không bám, không đâm rễ, hạt giống cũng không nẩy mầm... bởi vì chim chóc đã đến ăn mất hạt trên đường.

Bên trên những hình ảnh cụ thể. Đức Giêsu còn nhìn rất xa: người lắng nghe Lời Chúa có một kẻ thù. Chúng ta đã quên điều đó sao? Một kẻ thù đáng ngại mà Đức Giêsu gọi là "quỷ dữ". Đàng sau con người không đạt được đức tin, có một thứ vực thẳm mầu nhiệm, và cũng như chính đức tin nó không hoàn toàn trở thành hợp lý được: nó là một quyền lực ẩn giấu mà con người không làm chủ được. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi quỷ dữ!

Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay...

Sau kẻ không tin vì đức tin chưa được nẩy mầm, giờ đây cũng theo Đức Giêsu, là người tín hữu “bỏ ngũ”, người ấy bỏ đạo như cách nói rõ ràng của Thánh Luca trong đoạn văn song song (Lc 8,18). Thiếu rễ cây? Người ấy nhiệt tình theo Đức Kitô khi mọi sự dễ dàng xuôi chảy, và bỏ Người khi khó khăn, thử thách, đau khổ; ngược đãi ập đến. Than ôi! Chúng ta biết rõ hoàn cảnh này thường xảy đến. Lạy Chúa, xin cho con được bám rễ trong Chúa!

Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt khiến Lời không sinh hoa kết quả gì…

Giờ đây là "người tín hữu không đạt đến sự chín muồi của đức tin"... bởi vì người ấy bị tinh thần của thế gian giữ lại bị bối cảnh vô tín xung quanh bao vây. Chúng ta cảm thấy rõ ràng đối với Đức Giêsu đức tin là một công việc phát triển lâu dài, và phải chiến đấu chống lại mọi thứ trở ngại. Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).

Đức tin bị bóp nghẹt? Đức tin dần dần xanh xao vì thiếu hơi thở và một ngày kia bị chết nghẹt. Phần còn lại, tất cả đã chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống: "Các bạn biết đấy? Làm sao tôi có thể đi nghe Lời Chúa ngày Chúa nhật! Tôi còn đi xem đá banh, đi chơi lướt ván... và vì tôi quá mệt với tuần lễ của tôi, vậy thì tôi phải tranh thủ ngày nghỉ “cuối tuần"... Và chính điều chủ yếu phải vượt qua mọi thứ khác!

Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự quyến rũ của thế gian và bả vinh hoa phú quý.

Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.

Sinh hoa kết quả!

Đó là điều mong ước mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện (Mt 3,10; 12,33; 13,23-26; 12,43). Một đời sống tràn đầy, phong phú. Đối với Đức Giêsu, điều kiện chủ yếu để đời sống chúng ta sinh hoa, kết quả là Lời Thiên Chúa được lắng nghe và hiểu lâu dài. Thông qua sự phân tích về các mức độ lác nhau của đức tin chúng ta đoán ra rằng không có gì vĩnh viễn là chung cuộc. Đó là điều mà ngày hôm nay chúng ta nhận định xung quanh chúng ta và ở trong chúng ta. Đức tin là một "đời sống", một ngày nào đó được gieo xuống, lớn lên và sinh hoa quả... nhưng là một đời sống mong manh phải được phát triển ở giữa nhiều nghịch cảnh đang tấn công nó…

Nếu chúng ta cần làm cho đức tin phát triển... thì chúng ta cũng phải trở thành những "người gieo vãi Phúc Âm", và chuẩn bị đất đai, ngõ hầu tấm lòng của anh em mình trở thành một mảnh đất tốt sinh ra gấp trăm. Chúng ta quan tâm đến chính hạnh phúc của họ: "Phúc thay ai lắng nghe Lời và đem ra thực hành!”

 

home Mục lục Lưu trữ