Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1375197

GIUSE IM LẶNG

Giuse im lặng

Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse.

Thông thường khi bản thân hay gia đình gặp phải những tai ương hoạn nạn, bị người khác hiểu lầm và chà đạp lên danh dự, chúng ta có khuynh hướng trả đũa, bằng cách bêu xấu đối phương và phân trần với người khác về nỗi bực tức của mình. Thậm chí, chúng ta còn tức giận và tìm đủ mọi cách thức để phản pháo theo kiểu mắt đền mắt, răng đền răng.

Thế nhưng, những người tin Chúa thì phản ứng một cách khác. Thay vì rêu rao phân trần với những người chung quanh, họ sẽ thưa lên với Chúa, tha thiết xin Chúa giải oan cho mình khỏi những chước mốc thiên hạ. Khi chúng ta kêu lên với Chúa, chúng ta hãy ghi nhớ một điều mà chúng ta thường hay quên đó là sự thinh lặng.

Phải, thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện rất hữu hiệu. Kinh thánh nói rằng:

– Khi cõi lòng chất nặng nỗi ưu tư, khi ngôn ngữ không nói lên được nỗi sầu buồn của mình, thì chính Chúa Thánh Thần sẽ lấy những điều đang đè nặng tâm hồn chúng ta mà trình lên cùng Chúa Cha, cầu khấn thay cho chúng ta.

Bởi đó sự thinh lặng là điều rất cần thiết. Đúng thế, trước hết sự thinh lặng sẽ giúp chúng ta bình tĩnh lại để có thể lắng nghe được tiếng nói của Chúa và giúp chúng ta tập trung niềm tin tưởng vào Ngài.

Thứ đến, sự thinh lặng sẽ làm rung động Chúa Thánh Thần, khiến Ngài sẽ cầu nguyện thay cho chúng ta. Liệu có lời cầu nguyện nào linh ứng hơn lời van xin của Chúa Thánh Thần? Ngài hiểu rõ ý muốn của Chúa Cha và biết rõ nhu cầu của chúng ta.

Thánh vịnh 37 đã khuyên chúng ta:

– Hãy thinh lặng và đợi chờ, chớ buồn lòng.

Vậy những lý do ấy đã đủ làm cho chúng ta thinh lặng và đợi chờ hay chưa? Nhiều khi chúng ta thêm buồn vì thấy kẻ làm khổ chúng ta lại được nhiều may mắn.

Dưới con mắt trần gian, một người dù làm điều xấu mà vẫn thu hoạch được những kết quả tốt đẹp thì đó là thành công. Nhưng dưới con mắt đức tin, thì đó không phải là thành công thật. Thành công hay không là tùy vào kết quả sau này. Khi kẻ làm điều xấu mà được may mắn thì nên biết rằng Thiên Chúa muốn tỏ lòng tốt đối với họ, trước khi trừng phạt họ một cách xứng đáng.

Trên đời này không thiếu gì những trường hợp ác giả ác báo nhãn tiền. Thiên bất dung gian. Trời xanh con mắt là gương, người ghét nó ít, người thương nó nhiều.

Nhưng cũng có những trường hợp Thiên Chúa chưa làm ngay mà lại để dành đời sau hay dòng dõi của kẻ ác. Dù sao những hình phạt chúng ta nghe được vẫn là nhẹ lắm, nếu đem so với án phạt của ngày phán xét. Thiên Chúa có luật công bình và thánh thiện của Ngài. Ngài không bao giờ quên người công chính bị oan khiên. Hãy xác tín Ngài luôn can thiệp thật đúng lúc. Hãy ghi nhớ trường hợp của thánh Giuse hôm nay để thấy được bàn tay Thiên Chúa quan phòng luôn sẵn sàng thi ơn giáng phúc.

Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải biết yên lặng chờ đợi và trao phó mọi khó khăn oan trái cho Ngài phân xử, chứ đừng nóng lòng khi thấy kẻ dữ được sống thảnh thơi. Nhưng vấn đề là chung cuộc ai mới là người chiến thắng thật sự. Hãy can đảm yên lặng và chờ đợi ý Chúa và thời giờ của Chúa. Ý Chúa thì cao vời và Ngài có một chương trình tốt đẹp.

Tin rằng khi Thiên Chúa giải quyết thì sẽ không trí óc nào suy tưởng nổi. Cho nên nếu giờ đây gia đình chúng ta còn đang hoạn nạn hoặc người ngoài làm nhục thì bí quyết để thành công, đó là yên lặng trong đức tin, hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa. Đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta sống vui, sống mạnh giữa những đổ vỡ của đời mình.

Lạy thánh Giuse, là gương sự nhịn nhục, xin giúp đỡ chúng con.

 

  1. Mộng báo

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Chuyện kể rằng: có một cô gái hàng ngày cầu nguyện đã nhiều năm qua, xin thánh Giuse tìm cho được tấm chồng tốt, nhưng chẳng kết quả gì. Cô bắt đầu cảm thấy thất vọng.

Một sáng Chúa nhật, sau khi đi lễ về, cô quì trước tượng thánh Giuse nài xin ngài ban cho điều cô khấn nguyện. Nhưng mười phút sau cô bỗng phát cáu vì thánh nhân không chịu đáp lời. Cô liền cầm tượng thánh Giuse ném ra ngoài cửa sổ. Tượng rơi trúng đầu anh thanh niên vừa đi ngang qua đó làm cho anh bị thương. Anh vội chạy đến gõ cửa xin cô giúp đỡ.

Cô gái rất ân hận thành thật xin lỗi anh và ao ước được chăm sóc vết thương cho anh. Họ trở nên đôi bạn thân thiết và sáu tháng sau đám cưới được tổ chức rất trọng thể.

Qua câu chuyện vui hi hữu trên đây, thánh Giuse đã giải quyết khá là ngoạn mục cho đôi tân hôn tưởng như không may lại hóa ra may mắn. Còn hôm nay, chuyện trăm năm của Ngài với Đức Mẹ phải tính sao đây? Thánh Kinh viết: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Đính hôn là thời kỳ hạnh phúc nhất, là lúc đôi bạn yêu nhau dệt nên bao giấc mộng vàng. Thế mà, giờ đây giấc mơ ấy, bỗng tan thành mây khói. Maria thục nữ 15 tuổi, đạo hạnh, kiều diễm lại có thai trước khi về nhà chồng. Thật là bối rối, khó xử.

Để rồi cuối cùng, Giuse cũng phải đi tới một quyết định “Đào vi thượng sách”: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Bỏ mặc cho số phận một người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh gọi là “người công chính” được sao? Có lẽ Đức Maria, hay nói đúng hơn là bà thánh Anna mẹ của Đức Maria đã tiết lộ nguồn gốc của thai nhi, chính là bởi tác động của Chúa Thánh Thần. Biết được ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức Maria nên Giuse rất mực tôn trọng chương trình của Người. Vì thế, ông đã quyết định âm thầm rút lui, không dám nhận “quyền làm cha” đứa trẻ. Giuse quả thật là “người công chính”.

Nhưng chính lúc Giuse khước từ “Đứa con theo xác thịt” thì ông lại nhận được “đứa con của lời hứa”. Cũng như tổ phụ Abraham hy sinh Isaac con trai mình, thì ông xem đứa con ấy như “của lễ” dâng cho Thiên Chúa. Chính vì dòng dõi vua Đavid mà Thiên Chúa đã muốn Giuse đổi ý để “đón Maria vợ ông về”, và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Theo ngôn ngữ Sêmit trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavid, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”. Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Matthêu viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Khép lại những giấc mơ của Giuse, là mở ra một thế giới tình yêu mới. Dù biết tình yêu rồi cũng không thoát khỏi những gian nan vất vả.

Như Maria, Giuse cũng phải mò mẫn trong đêm tối của đức tin, đến miền ánh sáng của thiên ý. Và khi nhận ra chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, mặc dù chưa hiểu hết sự việc, các ngài vẫn mau mắn đáp lời xin vâng, với trọn niềm kính tin và phó thác. Các ngài nhìn tất cả chỗ nào cũng là hồng ân.

Thật đáng mừng là trong thế giới thực dụng và hưởng thụ của chúng ta ngày nay, vẫn còn hàng trăm ngàn các bạn trẻ nam nữ, tuổi 16 – 30 từ Mỹ và Pháp tình nguyện gia nhập hội Ava với bản hợp đồng “không sinh hoạt tình dục trước ngày cưới”. Đó là một lối sống mới tích cực trong hiểm họa AIDS hiện nay.

Sau khi “cam kết”, các thành viên Ava sẽ đến các trường học, các nơi công cộng… để nói với các thanh niên khác về hậu quả tai hại từ việc quan hệ tình dục bừa bãi, tuyên truyền chống lại loại phim ảnh khiêu dâm, bạo lực và cả những nhóm nhạc có phong cách quá khích.

 

  1. Đức Trinh Nữ Maria

Một khuôn mặt nổi bật trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta có thể nói được rằng Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa. Tại sao thế? Vì tâm hồn Mẹ vô cùng trong trắng, không vướng mắc tội lỗi, đã trở thành chiếc nôi hồng ấm áp và tuyệt vời nhất cho Chúa ngự trị. Từ đó, chúng ta đi tới một kết luận: tội lỗi chính là chướng ngại vật ngăn cản không cho Chúa đến với chúng ta, cũng như không chúng chúng ta đến cùng Chúa.

Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, còn tội lỗi thì xấu xa, nên không thể đội trời chung với nhau, trái lại luôn đối kháng nhau như trắng với đen, như lửa với nước, như ánh sáng với đêm tối. Giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa là cả một vực thẳm ngàn trùng ngăn cách, không thể có được một nhịp cầu cảm thông. Nơi nào có Thiên Chúa ngự trị, thì nơi đó phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi. Trái lại, nơi nào tội lỗi ngập tràn, thì chắc chắn sẽ không có được sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, tâm hồn tội lỗi sẽ không thể nào đón nhận Chúa mỗi khi Ngài viếng thăm, bởi vì Ngài luôn ghét bỏ tội lỗi, dù rất mực yêu thương các tội nhân.

Thực vậy, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, người cha toàn năng và giàu lòng nhân ái. Từng giây và từng phút, chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành của Ngài. Chẳng hạn nếu không có khí trời, thì chỉ trong dăm ba phút, chúng ta sẽ không thể nào sống được. Nếu không có cơm ăn và nước uống, thì chỉ trong dăm ba ngày, chúng ta cũng sẽ không thể nào tồn tại. Vì thế, tội lỗi chính là một sự vô ơn bạc nghĩa đối với Chúa. Khi phạm tội, chúng ta giống như chàng trai phung phá trong Phúc Âm, đã bỏ mặc ngoài tai những lời khuyên nhủ, những lời van xin của người cha.

Hơn thế nữa, tội lỗi còn là một sự phản bội lại tình thương của Chúa. Vì khi phạm tội, chúng ta đã dùng những ân huệ Ngài ban để chống lại Ngài. Chẳng hạn Chúa ban cho chúng ta cặp mắt là để chúng ta chiêm ngưỡng những kỳ công của Ngài mà lên tiếng ca tụng, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để nhìn vào những sự xấu xa, khả dĩ làm cho tâm hồn bị hoen ố.

Chúa ban cho chúng ta đôi bàn tay là để chúng ta lao động sản xuất, kiếm tìm chén cơm manh áo cũng như cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để đánh đập người khác và thực hiện những hành động gian tham trộm cắp.

Chúa ban cho chúng ta một trái tim là để chúng ta kính mến Ngài và yêu thương anh em, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để chất chứa những hận thù ghen ghét.

Cũng vậy, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa đã phải sinh ra nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem và đã phải chết một cách tủi nhục trên thập giá Canvê. Bởi đó, mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta hò hét như dân Do Thái ngày xưa:

– Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.

Mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta giết Chúa, là một lần chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá. Đồng thời, mỗi tội chúng ta phạm là một lằn roi, là một gai nhọn, là một khạc nhổ chúng ta đổ xuống trên thân xác Chúa. Như thế, sống trong tội lỗi là chúng ta đã làm cho những khổ đau Chúa phải chịu và những giọt máu Chúa đã chảy ra trở nên vô ích.

Có một tên sát nhân âm mưu giết hại hoàng tử. Rất may hoàng tử chỉ bị thương nặng và được cứu sống. Hoàng tử đã xin vua cha tha tội chết cho tên sát nhân. Cảm động trước tấm lòng khoan dung ấy,, vua cha đã dẫn tên sát nhân tới gặp hoàng tử và hỏi hắn:

– Ngươi sẽ làm gì để đền đáp tấm lòng khoan dung tha thứ của hoàng tử?

Tên sát nhân không ngần ngại trả lời:

– Tôi sẽ tìm cách để giết chết hoàng tử một lần nữa.

Đức Kitô đã xuống thế và đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta cũng nói như tên sát nhân:

– Tôi sẽ tìm cách để giết chết Ngài một lần nữa.

Sau cùng, tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, không còn xứng đáng làm nơi cho Chúa cư ngụ. Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục xức dầu dự tòng cho chúng ta và nói:

– Hời thần ô uế, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.

Thế nhưng, khi phạm tội, chúng ta nói ngược lại với những lời ấy:

– Hỡi Thiên Chúa, hãy ra khỏi tâm hồn tôi, để nhường chỗ cho ma quỉ và tội lỗi ngự trị.

Tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang trộm cướp, nếu Chúa có ghé thăm, chắc chắn Ngài sẽ phải nổi nóng, rút dây lưng mà xua đuổi, như ngày xưa Ngài đã từng xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem.

Vì thế, để đón mừng Chúa, để tìm gặp Chúa, cũng như để được Chúa ngự trị, điều kiện đầu tiên chúng ta phải có đó là một tâm hồn trong sạch. Muốn được như vậy, chúng ta phải ra sức chống trả những cám dỗ, xa tránh những dịp tội, là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta vấp ngã. Vì lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội mà không vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng.

Có khử trừ tội lỗi, thì tâm hồn chúng ta mới sẽ trở nên một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự đến.

 

  1. Công chính

Sách Điển Ngữ thần học Thánh Kinh xác định: “Theo trào lưu tư tưởng đầu tiên qua suốt toàn bộ Thánh Kinh, thì công chính là nhân đức luân lý mà chúng ta biết, được nới rộng để chỉ sự tuân giữ hoàn toàn các giới răn Thiên Chúa, nhưng đồng thời lại luôn được coi như một phẩm tính để đáng được công nghiệp trước mặt Thiên Chúa”.

Khi Matthêu gọi Giuse “là người công chính”, không chỉ vì Giuse tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng còn vì trái tim của Giuse tràn ngập lòng nhân từ, quảng đại và thương yêu đối với Maria: “không muốn tố giác bà”. Thánh Kinh gọi Giuse là người công chính, vì Giuse thánh thiện và vô tội nữa. Khi viên đại đội trưởng chứng kiến Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, đã nói: “Người này quả thật là công chính”. Công chính còn có nghĩa là thánh thiện và vô tội, Giuse đã có lòng kính sợ và thi hành thánh ý Thiên Chúa qua mọi hình thức mạc khải, dù là giấc mơ: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”. Vì thế Giuse đã được chọn để đặt tên cho Đức Giêsu, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi”. Một người có tội không thể nào đặt tên cho Đấng Cứu Thế được!

Quả vậy, bản tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Phúc âm của thánh Matthêu đã tập trung vào vai trò của thánh Giuse hơn là của Đức Maria. Bởi Phúc âm của thánh Matthêu được viết cho những người Kitô hữu gốc Do Thái, Matthêu muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã đến qua dòng dõi vua Đavid. Đấng đã được hứa ban và loan báo bởi các tiên tri trong Thánh Kinh. Giuse thuộc dòng dõi vua Đavid. Chính Giuse đã đặt tên cho con trẻ, đã dâng hiến cuộc đời mình và làm tất cả mọi sự cho con trẻ. Con trẻ là Con Thiên Chúa và con Đức Maria, nhưng qua việc đặt tên của Giuse, con vua Đavid.

Mỗi vị thánh đều có một ơn đặc sủng và một nét độc đáo. Đặc sủng ấy, nét độc đáo ấy nơi thánh Giuse là sự công chính.

 

  1. Công chính

Qua phần chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse.

Trước hết thánh cả là người tin tưởng nơi cha mẹ và truyền thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo phong tục Do Thái, đám cưới gồm ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất là sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi cha mẹ hai bên hay bởi ông bà mai mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã không biết nhau trước khi cam kết. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này kéo dài cả năm để cho đôi trai gái có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ được coi như vợ chồng, mặc dù không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới: xảy ra vào cuối năm của giai đoạn hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria đã có thai như bài Phúc âm hôm nay tường thuật.

Tiếp đến, thánh cả Giuse là người tin tưởng bạn mình, Maria. Trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria đã có thai làm Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử lắm! Nhưng với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác bà”, nhưng chỉ “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong hoàn cảnh khó khăn này, chính tình yêu đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ và con người để khám phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin.

Maria đã xác tín rằng, mặc dù nàng đồng trinh, nàng “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” như lời thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo trong giấc mơ phù hợp với điều bạn mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm lòng thành thật của Maria và “nhận Maria về nhà làm vợ mình”. Họ đã thành thật tin tưởng nhau.

Một trong những điều sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là phải sống trong nghi ngờ và đố kỵ. Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những khó khăn nhất của cuộc sống ở mọi thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.

Sau cùng, thánh cả Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người Do Thái quan niệm Chúa Thánh Thần là người mang sự thật đến cho con người. Chúa Thánh Thần đã dạy cho các tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm gì. Và cũng chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật khi gặp thấy. Bởi Giuse là người công chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang sự thật đến. Ông đã nhận ra sự thật và tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó, cho dù cách thức mạc khải chỉ là trong giấc mơ.

Một câu ngạn ngữ của người Nigeria nói rằng, “Hãy lắng nghe, và bạn sẽ nghe được những bước chân của các con kiến”. Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ tới. Chính ở nơi Chúa Thánh Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu”.

Chúng ta ca tụng thánh Giuse là “Đấng công chính” đã nêu cao tấm gương nhân từ, thánh thiện và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ trung tín. Vì thế trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm bạn của Đức Trinh Nữ Maria, và dưới dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm người thuộc dòng tộc Đavid, đã âu yếm gọi ngài là “Cha”.

Với lòng nhân hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.

 

  1. Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emanuel

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha”. Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.

  1. Sự biểu hiện của tình trạng có Chúa ở cùng: “Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).

Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng “đầy ân sủng”. Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được “rợp bóng” Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn “hướng tha”. Chính vì thế người đầy ân sủng luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.

Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm “tu trì” ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.

Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.

  1. Một vài điều kiện để có Chúa ở cùng:
  2. “Đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình… người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel (Mt 1,20-23).

Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. “Thương cả đuờng đi” thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.

Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn “tiếp nhận bạn mình”. Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.

Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin mừng tường thuật “khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền” (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.

  1. “Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu”(Mt 1,21).

Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá “hất cẳng anh” thành một người đã “gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa” và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)

Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy” (x.Ga 5,17). “Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời” (x.Ga 4,34). “Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm” (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.

Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: “Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người”. Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: “Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta”.

 

home Mục lục Lưu trữ