Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1364377

HẠNH PHÚC NƯỚC TRỜI

Hạnh phúc nước trời – Lm. Trần Minh Đức

Tôi không thể nào quên những ấn tượng đầu tiên trong những ngày mới tới nước Đức. Khi đi lễ tôi chỉ thấy những ông bà cụ già trong nhà thờ. Trẻ con và thanh niên không biết đi đâu? Ít lâu sau tôi được biết: Đại đa số không còn thường xuyên đi lễ ngày chúa nhật. Nhưng mỗi lần đi lễ họ lên rước lễ. Đời sống đạo ở tây phương không thể nào so sánh với những nơi khác! Tuy vậy, tôi vẫn tự hỏi trong thâm tâm giống như xưa có kẻ đã hỏi Đức Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không? “

Nếu như chúng ta đọc đi đọc lại, quan sát một cách tỉ mỉ bài Phúc âm hôm nay, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên trước những giải đáp của Đức Giêsu. Ngài không trực tiếp trả lời, cũng không thỏa mãn những hiếu kỳ của chúng ta về số phận của những người sống chung quanh chúng ta sau khi chết, cũng không đưa ra những tiên đoán vu vơ về ngày tận thế. Điều quan trọng đối với

Đức Giêsu chính là giây phút hiện tại, số phận của mỗi người trong chúng ta.

Câu trả lời của Đức Giêsu đòi hỏi các tông đồ năm xưa cũng như chúng ta ngày nay phải ra công gắng sức nhiều hơn. Ngài nói rằng: Nếu như chúng ta nghĩ rằng, chúng ta thuộc về phần thiểu số được cứu vớt, thì chúng ta phải dùng toàn bộ khả năng và sức lực của mình để có thể đi qua cửa hẹp. Đừng tốn phí thời giờ để ngồi đoán xét dông dài người này người kia, chuyện này chuyện nọ. Ích lợi gì khi chính mình bị luận phạt, bị khổ ải trầm luân!…

Đức Giêsu biết rằng, Thiên Chúa nhân hậu từ bi khôn lường. Ai hoàn toàn phó thác mình trong bàn tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, kẻ đó sẽ biết rõ hơn ai hết. Đức Giêsu nhìn thấy cửa trời mở ra, Thiên Chúa sẵn sàng đón tiếp chúng ta vào chung hưởng phúc thiên đàng, nhưng cửa rất hẹp. Ai đi đường rộng thênh thang, sống tự do phóng túng sẽ không thể nào đạt đến đích.

Rabbi Baruka, một người thông thạo Kinh thánh, đã kể một ngụ ngôn do thái như sau: Ông thường ra ngoài công trường. Một hôm tiên tri Êlia hiện ra trước mặt ông. Ông hỏi ngài: Trong đám đông này có người nào được chung hưởng hạnh phúc nước trời không? Êlia trả lời: Không có ai cả! Một lúc sau xuất hiện hai người tại công trường. Êlia nói với ông: Hai người này sẽ được vào thiên đàng. Rabbi Baruka liền hỏi hai người mới tới: Các anh làm nghề gì? Họ trả lời: Chúng tôi là vua hề. Khi chúng tôi thấy ai đó có vẻ buồn bã, chán đời thì chúng tôi tìm cách làm cho kẻ ấy vui vẻ trở lại. Khi chúng tôi thấy hai người tranh chấp cãi cọ, thì chúng tôi giúp họ làm hoà với nhau.

Tôi thiết tưởng câu chuyện này có phần giống như lời của Đức Giêsu. Ngài đòi hỏi chúng ta phải tận sức để có thể đi qua cửa hẹp. Có lẽ đến một lúc nào đó thì cánh cửa chật hẹp này sẽ bị khoá lại. Không phải chỉ có dân gian ác, trộm cướp không được vào, mà cả những kẻ tự cho rằng mình thuộc thành phần gia giáo, chẳng cần cố gắng cũng được vào. Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy một viễn tượng mới: Có nhiều người từ bắc chí nam, từ đông sang tây sẽ được vào chung hưởng hạnh phúc nước trời. Khổ một điều là: liệu chúng ta có ở trong số đó không? Tuy cánh cửa chật hẹp, nhưng Thiên Chúa không chịu thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngài luôn luôn rộng tay chúc phúc và đón chờ chúng ta. Một khi chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, sẵn sàng yêu mến và tôn trọng người khác như chính mình thì chúng ta tin rằng, hạnh phúc lớn lao đang chờ đợi chúng ta ở cuối chân trời bên kia.

48. Chọn cửa hẹp vì yêu

Theo tâm lý chung của con người, ai cũng muốn cái gì đó rộng rãi và thoải mái. Ở một ngôi nhà rộng rãi và đầy đủ tiện nghi thì thích hơn một ngôi nhà tù túng, chật hẹp. Đi trên một con đường lớn rộng thì cảm thấy dễ chịu hơn một con đường gồ ghề, nhỏ bé. Đối với người tín hữu, dường như chúng ta cũng muốn Chúa và Giáo hội rộng rãi và cho chúng ta được thoải mái trong việc giữ và sống đạo. Tuy nhiên, đằng sau những sự rộng rãi ấy quan trọng là có thật sự mang lại lợi ích cho chúng ta không.

Có lẽ, chúng ta sẽ thất vọng khi thấy Chúa và Giáo hội có vẻ như không đáp ứng được mong muốn của mình. Hơn nữa, với câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin mừng Chúa nhật hôm nay lại càng làm cho chúng ta thất vọng hơn. Khi ấy, có người hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Chúa Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi ấy mà lại nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. Vậy “cửa hẹp” ở đây là gì và tại sao cần phải vào qua cửa ấy lại còn phải chiến đấu?

Trước hết, chúng ta hãy tin chắc là Thiên Chúa luôn muốn cứu độ con người và luôn mong muốn cho mọi người được hạnh phúc thật. Cho nên với câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta cũng hãy tin chắc là vì Người muốn chúng ta được cứu độ và hạnh phúc thật. Vì thế, cửa hẹp ở đây chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rộng hơn, có tính cách thiêng liêng hơn.

Vì yêu thương và vì muốn cứu chuộc chúng ta nên chính Chúa Giêsu đã chọn qua cửa hẹp. Chúa Giêsu lên Giêrusalem nghĩa là Người chấp nhận đi vào con đường thập giá, con đường tử nạn. Cả cuộc sống của Chúa Giêsu ở trần gian cũng là đi vào cửa hẹp. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6 – 8)

Như thế, nhìn vào Chúa Giêsu chúng ta thấy cửa hẹp là những gì không theo như ý muốn của riêng mình mà theo ý muốn của Thiên Chúa Cha. Khi chúng ta biết làm theo ý muốn Chúa Cha chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta và người khác lợi ích thiêng liêng, quý giá. Cho nên vì lợi ích của ta và của người khác và nhất là vì yêu, chúng ta sẵn sàng chọn vào qua cửa hẹp.

Chúng ta thấy, hai người nam nữ yêu nhau thật lòng sẽ vì nhau và hạnh phúc của nhau mà sẵn sàng từ bỏ những ý muốn và sở thích riêng tư. Cũng thế, một đứa con vì yêu cha mẹ nên sẽ bằng lòng vui vẻ từ bỏ những điều cha mẹ không muốn mình làm vì lợi ích của mình. Đó là những cửa hẹp.

Chúa Giêsu đã hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (Ga 14, 25). Vậy nếu cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình chúng ta cũng sẽ biết đáp lại bằng tình yêu. Một trong những cách đáp đền tình yêu Chúa là chúng ta chọn vào qua cửa hẹp. Vào qua cửa hẹp là chúng ta sống theo những gì Chúa và Giáo hội truyền dạy. Chắc chắn khi quyết tâm sống theo những gì Chúa và Giáo hội dạy thì đòi hỏi chúng ta cần phải chiến đấu nhiều với bản thân mình. Cho dù trước mắt chúng ta sẽ thấy hơi gò bó, chật hẹp nhưng chúng ta hãy tin chắc đằng sau cửa hẹp ấy là một cuộc sống hạnh phúc bền vững.

49. Cửa Nước Trời

Tất cả mọi người trên trần gian này đều được mời gọi gia nhập Nước Chúa. Cửa luôn mở ra cho tất cả mọi người vào như là “cửa hẹp”, và phải qua kịp thời. Một khi đã được vào thì phải sống xứng đáng, do đó để được phải mỗi người cần phải cho Chúa sửa chữa uốn nắn.

  1. Cửa vào Nhà Chúa

Nhà Chúa luôn niềm nở, đón tiếp nhưng người ta chỉ có thể vào qua một cửa, cửa đó mở ra cho những người đến đúng lúc và có sự chuẩn bị xứng đáng. Tuy nhiên cửa đó lại là cửa hẹp, và người ta phải cố gắng mới được vào Quả thực, bài Tin Mừng hôm nay giáo huấn cho chúng ta biết về cái gọi là “cửa hẹp” được gia bội lên bằng một dụ ngôn về cửa đóng với những lời cảnh cáo thật đáng lo ngại.

  1. Cửa hẹp

Theo bối cảnh lịch sử tôn giáo Israel chúng ta hiểu khá rõ về cửa hẹp mà Đức Giêsu nói đến ở đây là cái cửa mà người Do Thái giáo thời đó từ chối không muốn bước qua. Cửa hẹp đó chính là lòng tin vào Đức Kitô. Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa.

Ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu nói có người đặt ra liên quan đến con số những người được chọn: “thưa Thầy, ít người được cứu rỗi phải không” Ngài đã đáp lại rằng trong số những người Do Thái thời bấy giờ, thì có nhiều đã từ chối không nhận Ngài, là cứu Chúa đã hứa, họ muốn tìm lối khác nhưng không được vào (c24).

  1. Cửa đóng

Như đã nói trên, dụ ngôn cửa đóng đã được vận dụng để làm tăng thêm tầm quan trọng của cửa hẹp, buộc người ta phải đi qua lúc còn đang mở. Cửa tuy hẹp nhưng là cửa mở. Song mở thì cũng có thời có lúc mà thôi chứ đâu mở mãi bao giờ. Tất nhiên lúc mở là lúc muốn cho người ta ra vào, còn lúc đóng là lúc không còn muốn cho người ngoài vào cũng chẳng muốn cho người trong ra nữa. cho nên lúc mở cho vào mà không chịu vào, đến lúc đóng có muốn vào thì không được vào nữa, cho dù có đứng ngoài kêu gào, van xin cũng trở nên vô ích thôi, còn bị mắng đuổi đi nữa là đàng khác “Ta không biết các ngươi” và “Hãy xéo đi xa Ta”

Cái khổ nhất cho người không được vào là có kẻ khác đang sung sướng dự tiệc bên trong, nhất khi những người được vào đó lại là những người ở xa mà đến. Còn mình, ở gần, được mời, nhưng vì không khôn ngoan, nên phải đứng ở ngoài. Có khóc lóc, buồn sầu, nóng giận, hay nghiến răng cũng chỉ thế thôi, và càng thêm khổ tâm. Vì “có mà không biết đón nhận”

Hiểu như trên chúng ta thấy Chúa dùng những dụ ngôn “cửa hẹp” và “cửa đóng” là để cảnh tỉnh những người Israel cứng lòng. Họ là những người được xem là “dân riêng”, những người được hứ là sẽ được Đấng Thiên Sai cứu thế trước các dân tộc khác. Nhưng tới lúc Ngài đến, Ngài giảng dạy, Ngài làm những phép lạ cả thể để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa thì người ta lại không tin không nhận. tin Chúa Giêsu chính là điều kiện tối cần để được ơn cứu rỗi, cho nên được ví như là “cửa hẹp” độc nhất, người ta phải qua không còn lối nào khác nữa. bất cứ ai tin Ngài đều được cứu rỗi và ngược lại ai không tin thì bị luận phạt. không gì có thể thay thế được lòng tin đó. Chính Chúa Giêsu đã trả lời “Ta không biết các ngươi, phương gian ác hãy xéo đi”. Do đó, người Do Thái tuy được gọi trước, nhưng lại là kẻ đến sau vì chậm tin, và một số khác bị loại ra ngoài vì họ cứng lòng tin. Còn những người ngoại, tuy được gọi sau nhưng vì sự mau mắn nên họ là những người vào trước cả những người được mời trước.

Hạnh phúc cho ta là được biết Chúa, tin Chúa, sống trong gia đình của Chúa như một người con, được Chúa sửa chữa cho nên thành toàn. Đây có phải là một sự đổi mới do ta không? Và do ai? Tin Chúa là được vào gia đình của Chúa, nhưng sống trong nhà Chúa ta còn phải trung thành, và cố gắng sống theo giáo huấn của Chúa nữa. chắc chắn ai cũng biết mình chưa thành toàn, còn nhiều lỗi lầm, nhưng sẵn sàng để Chúa sửa chữa bằng cách này hay cách khác. Tôi có nhận ra những góp ý, xây dựng từ những người xung quanh mà Chúa gởi đến trong cuộc sống không. Ngoài ra chúng ta cũng được mời gọi góp phần xây dựng nước Chúa bằng cánh hướng dẫn anh em xung quanh để nhằm đưa họ vào Nước trời cùng với chúng ta. Amen.

50. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Câu Kinh Thánh “Hãy đi đường hẹp… Đừng đi đường rộng” có thể áp dụng cho “những con đường nên thánh” không? Áp dụng thế nào?
  2. Nên thánh bằng con đường rộng, và bằng con đường hẹp là gì?

Suy tư gợi ý:

  1. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”

Thông thường, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại đó có thể đi bằng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm chạp.

Cũng vậy, để đạt tới sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai cũng thích đi con đường rộng, vừa làm những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu thiệt thòi, vừa có danh, lợi, quyền, nhờ đó được hưởng biết bao ưu đãi, đặc quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao người muốn nên thánh bằng con đường “siêu xa lộ”này. Người chủ trương nên thánh kiểu này chủ trương rằng phải nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Quả là một tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian! Chẳng mấy ai muốn nên thánh bằng con đường hẹp, nhỏ, là con đường làm những việc nhỏ bé, tầm thường, âm thầm, vừa phải hy sinh nhiều mà chẳng được ai biết đến, lại chẳng được chút ưu đãi gì của trần gian. Quả là thiệt thòi nhiều chuyện!

Nhưng Đức Giêsu dạy chúng ta, đương nhiên ngay cả trong việc nên thánh, rằng hãy đi con đường nhỏ hẹp, khiêm nhu, ít người thích đi. Điều hết sức nghịch lý nhưng lại rất chí lý là con đường nhỏ hẹp ấy đem lại nhiều kết quả cho việc nên thánh đích thực hơn là con đường rộng rãi thênh thang. Vì đặc trưng của việc nên thánh là như vậy. Muốn nên thánh mà lại muốn đi vào đường lớn, muốn làm những việc to tát để ai cũng biết tiếng, để có được những thứ mà người trần gian thường ao ước! Coi chừng kẻo mình đang làm mọi sự vì mình, vì vinh danh mình, vì lòng kiêu ngạo, để làm phình to bản ngã, chứ không phải vì vinh danh Chúa hay vì yêu mến Chúa và vì lợi ích của tha nhân. Mang tiếng là vì Chúa, cho Chúa, nhưng thực ra là vì mình tất cả! Chúa chỉ là phương tiện phục vụ cho những mục đích của mình! Chính vì thế, con đường thênh thang rộng rãi đầy “mầu mè thánh thiện” này nhiều khi lại dẫn đến đổ vỡ trước mặt Thiên Chúa. Sự đổ vỡ ấy được đề cập đến ngay trong bài Tin Mừng này.

  1. Một sự đảo ngược không ngờ

Những người muốn nên thánh kiểu “khôn ngoan”kia thường nghĩ rằng: đời này mình được thần thánh hóa, được mọi người tôn vinh, nể trọng, kính phục, ắt đời sau mình cũng là một nhân vật đáng kể ở trên trời. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy vào “ngày ấy”, có một sự đảo lộn không ngờ được: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đứng chót cũng còn đỡ, bài Tin Mừng còn cho thấy một viễn ảnh đen tối hơn: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài”. Đương nhiên sẽ có biết bao người lấy làm lạ, vì thấy mình đã làm cho Chúa biết bao nhiêu điều to tát ở trần gian. Họ hỏi Chúa: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Hoặc “Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”(Mt 7,22). Nhưng câu trả lời của Chúa thật như tát vào mặt họ một cách bất ngờ: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” Thật ít ai hiểu được tại sao những người mà trần gian tưởng rằng đầy công nghiệp trước mặt Chúa lại bị Chúa trả lời phũ phàng và “vô ơn” đến như vậy!

  1. Muốn nên thánh, hãy chọn con đường nhỏ hẹp mà đi

Bài Tin Mừng trên quả thật đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên và suy nghĩ, nhất là những người Ki-tô hữu đang theo lý tưởng nên thánh. Liệu sự đảo lộn ấy có áp dụng ngay trên chính bản thân ta không? Điều quan trọng là chúng ta cần xác định xem mình đang đi trên con đường loại nào để nên thánh? Đường nhỏ hay đường lớn? Đường mòn hay xa lộ? Nếu chúng ta thật sự muốn thành công trong việc nên thánh, hãy cẩn thận, đừng ham con đường rộng rãi, “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó”(Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”(Mt 7,14). Nhưng thế nào là nên thánh bằng con đường rộng? Và thế nào là nên thánh bằng con đường hẹp?

Ta đang đi trên đường rộng, nếu ta vừa muốn nên thánh, mà lại vừa muốn và tìm cách dùng sự nên thánh ấy để hưởng được ít nhiều những thứ mà mọi người thế tục mong ước: quyền lực, tiếng tăm, địa vị, tiền bạc, được ca tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa, được mọi người coi là đạo đức thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội bất chấp tài đức hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những thú vui trần tục khác. Những người nên thánh kiểu này có thể làm rất nhiều việc được coi là đạo đức, tốt đẹp, thậm chí dạy mọi người nên thánh nữa. Họ thường có vẻ bên ngoài rất thánh thiện, đạo mạo. Đức Giêsu nói về họ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (…) những kẻ bây giờ đang được no nê (…) những kẻ bây giờ đang được vui cười (…) được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,24-26). Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus videtur sed non est”(có vẻ thánh mà thực ra không phải). Vì họ phải như thế thì mới được mọi người nghĩ họ là thánh! Đặc tính không dấu được của những người này là để lộ ra “cái tôi” rất lớn của mình! Họ khó có thể chấp nhận có ai xúc phạm đến họ. Và họ không bao giờ dám dấn thân vào những gì nguy hiểm đến sự sống còn, đến địa vị hay nồi cơm của họ, khi lý tưởng “vì Chúa vì tha nhân”và tư cách “thánh thiện” của họ đòi hỏi!

Ta đang đi trên đường hẹp, nếu ta muốn nên thánh mà không ham được ai biết đến, cũng không tìm cách dùng cái “vẻ thánh thiện” của mình để hưởng được những thứ “hấp dẫn” trần tục ấy. Đặc tính dễ nhận ra của những người này là họ coi “cái tôi” của họ rất nhỏ! Không cảm thấy có vấn đề gì lớn khi bị ai xúc phạm, hiểu lầm. Họ không thích làm ra vẻ thánh thiện, đạo mạo. Và họ cũng sẵn sàng hy sinh khi lý tưởng vì Chúa vì tha nhân đòi hỏi. Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus non videtur sed est”(không có vẻ thánh nhưng lại là thánh).

  1. Hãy tự xét mình để đừng ảo tưởng về mình

Quả thật, nhiều khi chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết bao người đã nể phục, kính trọng ta, khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước con mắt của Thiên Chúa, ta cũng được đánh giá tốt lành như người chung quanh ta đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt lành, nhưng động lực gì thúc đẩy ta làm những việc ấy? Vì yêu Chúa thương người khác được bao nhiêu phần trăm? Hoặc làm để được tiếng khen, để tạo uy tín, để được kính nể, để nhờ đó ta được bề trên và nhiều người tín nhiệm hơn, được lên chức, được nắm nhiều quyền hơn, vì sự khôn ngoan trần gian đòi buộc như thế… bao nhiêu phần trăm? Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều. Hãy coi chừng kẻo ta đang muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thêng thang, tuy được người trần gian ca tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại là con số không to tướng! Cần luôn tỉnh thức và hồi tâm xét lại những động cơ của mình!

Cầu nguyện

Lạy Cha, thế lực xấu ở ngay trong bản thân con thật tài tình! Nó có thể đánh lừa chính con ngay cả trong việc cao cả nhất là việc nên thánh. Nó làm con tưởng rằng mình đang tiến bộ rất nhanh trên con đường nên thánh, vì làm được biết bao việc tốt lành cho Chúa và tha nhân! Nhưng thực ra con đang xây dựng cho vinh quang của con trước mặt người đời. Con đã ăn cắp vinh quang của Cha để hưởng cho con. Xin cho con biết phản tỉnh sâu xa để nhận ra tình trạng tệ hại ấy, và trở lại với con đường nên thánh nhỏ bé mà Cha muốn con đi. Amen.

51. Hành trình đi tới niềm vui.

(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)

Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ khi ý thức và mỗi ngày, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa.

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28), trong đó có những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay không được nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất bên trong nhờ những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt chẽ với hai dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn Hạt cải, 13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).

Riêng về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều đoạn không cùng chiều hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc 13,24) có ở Mt 7,13-14 (Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc 13,25) kết thúc dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27) lại đưa chúng ta về với Mt 7,22-23 (Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29) lại chính là cao điểm của truyện chữa lành người đầy tớ của viên sĩ quan có đức tin rất lớn (Mt 8,11-12).

Nhưng dù thế nào, khi đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca đã làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết “cánh cửa đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành bài trình bày các đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);

2) Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết với nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):

– cửa hẹp (c. 24),

– cửa khóa (cc. 25-27),

– số phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29),

– câu tục ngữ kết thúc (c. 30).

3.- Vài điểm chú giải

– Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào (24): “Qua được cửa hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi nhận rằng ở Lc 13,3.5, Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả điều ấy bằng việc đi qua cửa hẹp.

– Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại (25): Dường như khung cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý về cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà là Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.

– Ta không biết các anh từ đâu đến (25) = Ta không biết các anh là ai.

– Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng tôi là những người quen biết và cùng thời với Ngài.

– đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước Thiên Chúa giống như bữa tiệc (x. Is 25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung quanh các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong khi Mt gửi lời răn đe này đến toàn thể người Do Thái (Mt 8,12), Lc lại chỉ nhắm đến các thính giả cứng lòng tin mà thôi.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Đứng về phương diện phê bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách giả tạo. Tuy nhiên, về phương diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một đoạn gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.

* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (22-23)

Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất lô-gích và cương quyết. Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi tới định mệnh của Người. Người loan báo sứ điệp từ làng này sang làng khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33). Người không để mình bị lạc hướng trước những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những cầu hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật khó nghe. Người không hề muốn lừa dối hoặc đẩy ai vào ảo tưởng.

Câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” chạm thẳng vào tư cách của Người là Đấng Cứu thế (x. 2,11). Vậy có bao nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra con số những người được cứu độ. Người muốn đưa cái nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người bảo cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở thành môn đệ.

* Những lời đe dọa (24-29)

Chỉ có một cách duy nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (c. 24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra vào” đời sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải chiến đấu. Không phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức riêng, nhưng kết quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta, nếu chúng ta chỉ có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để đi qua một cửa hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành môn đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác. Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ không bao giờ vào được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.

Rồi Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat bữa tiệc và mời mọi người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi người cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến một lúc nào đó, chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên Chúa. Khi nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố gắng đúng lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta có giới hạn. Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ được đóng lại và số phận chúng ta sẽ được quyết định. Lúc đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.

Ở bên ngoài, có những người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ” Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài, nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài.

Sau đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu, nhưng phác cho biết cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc về cộng đoàn này là các tổ phụ Israel (Abraham, Isaác và Giacóp), các sứ giả của Thiên Chúa (các ngôn sứ) và những người đến từ bốn phương trời, từ mọi dân tộc. Các tổ phụ và các ngôn sứ tượng trưng tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho Dân được tuyển chọn (Israel); “thiên hạ từ đông tây nam bắc đến” tượng trưng Dân ngoại. Như vậy, trong Nước Thiên Chúa, có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, thì cũng thể hiện sự hiệp thông với mọi người. Hình ảnh “ngồi đồng bàn” (= dự tiệc) gợi ý đến tính cách vui tươi lễ mừng của sự hiệp thông này. Hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với loài người trong một bầu khí vui tươi và lễ hội là những đặc điểm của ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa.

Ai không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại mình, không nhận được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c. 28): khi nhận ra những gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi và giận dữ khủng khiếp.

+ Kết luận

Tin Mừng của Đức Giêsu không nói với chúng ta những điều làm cho chúng ta vui lòng, cũng không hứa với chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần cố gắng. Tin Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính bởi vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng này trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường thật đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là Tin Mừng và chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, nhưng Ngài coi trọng chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn rằng chúng ta cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có nghĩa là chúng ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại và để tất cả mọi sự khác sang một bên.
  2. Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ đầu, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không thể sống một cuộc đời theo sở thích riêng, rồi chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải chúng ta là người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
  3. “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà không muốn liên hệ gì nữa với những người ở ngoài. Sự cố gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn tả ra bằng hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về ý muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc này với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh cửu với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và chia sẻ bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên nhỏ bé đủ để đi qua cửa hẹp!
  4. Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể hiện. Cuộc sống nhân loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương quan viên mãn và sâu sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự kiện các tương quan với loài người không bị cắt xén đi, nhưng lại được mở rộng và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi còn sống tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này.

home Mục lục Lưu trữ