Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1374479

HÀNH TRÌNH THEO CHÚA

HÀNH TRÌNH THEO CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ :

Sau khi đã chọn Chúa (tuần I Mùa Chay), con người bắt đầu hành trình đi theo Ngài :

– Bài đọc Cựu Ước : Hành trình của Abraham.

– Bài Tin Mừng : Hành trình theo Đức Giêsu là đi trên con đường thập giá, nhưng sau đó sẽ tới vinh quang.

– Bài đọc Tân Ước : Hành trình của người tông đồ mang Tin Mừng đến cho mọi người.

  1. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Lời Chúa hôm Chúa nhựt tuần trước kêu gọi chúng ta chọn lựa : đừng chọn ý riêng nhưng hãy chọn ý Chúa. Lời Chúa hôm nay mời chúng ta hành trình đi theo Chúa : như tổ phụ Abraham, như các tông đồ. Riêng bài Tin Mừng cho thấy nếu ta dám hành trình theo Chúa trên con đường thập giá thì sẽ được cùng Ngài đến vinh quang.

Chúng ta hãy cất bước theo Người.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúa vẫn luôn kêu gọi chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng vì quá bận rộn với những việc trần tục, chúng ta ít khi lắng nghe tiếng Chúa.

– Đi theo Chúa thì phải từ bỏ. Nhưng chúng ta ít quảng đại không dám từ bỏ như lời Tin Mừng mời gọi.

– Nhân chi sơ tính bản thiện. Nhưng do tội lỗi nên chúng ta đã làm cho hình ảnh tốt đẹp ban đầu của chúng ta bị biến đổi ngày càng xấu xa.

III. LỜI CHÚA

  1. Bài đọc Cựu Ước(St 12,1-4a)

Văn mạch xa : 11 chương đầu sách Sáng thế cho biết Thiên Chúa đã tạo dựng loài người, ban cho loài người một cuộc sống hạnh phúc (hình ảnh vườn Eden), nhưng loài người đã chọn lựa sai và phạm tội nên bị đuổi ra khỏi nơi hạnh phúc đó, và tội tiếp tục lan tràn, hậu quả của tội tiếp tục bành trướng, hầu như vô phương cứu chữa. Nhưng từ chương 12, một tia sáng hy vọng loé lên : Thiên Chúa nhớ đến loài người, Ngài chọn tổ phụ Abraham để thực hiện chương trình đưa loài người trở về hạnh phúc ban đầu.

– Tổ phụ Abraham đang sống ở Ur, một cuộc sống an cư lạc nghiệp cùng với bà con, với tài sản.

– Thiên Chúa hiện ra với ông và bảo ông bỏ hầu hết những thứ đó để ra đi.

– Cuộc hành trình này rất phiêu lưu vì Chúa chưa cho biết ông sẽ đi tới đâu. Ông chỉ cần phó thác đi theo sự chỉ dẫn từ từ của Chúa : “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi”.

– Tại sao Chúa bảo thế ? Vì con người vốn có khuynh hướng bám lấy sự an nhàn sẵn có (cụ thể là cuộc sống vật chất, cuộc sống hiện tại – đời này). Thực ra cuộc sống đó không phải là tốt nhất, mà là cuộc sống khổ sở của thân phận bị đuổi khỏi vườn địa đàng. Do đó Thiên Chúa mới bảo Abraham ra đi. Nhìn bằng cặp mắt loài người, đó là một cuộc phiêu lưu bỏ mồi bắt bóng, nhưng thực ra đó là cuộc hành trình rời bỏ nơi khổ sở để trở lại vườn diệu quang.

  1. Đáp ca: Tv 32

Đây là tâm tình hoàn toàn trông cậy phó thác vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Tâm tình này rất hợp cho những người đang dấn bước trong cuộc hành trình do Chúa dẫn dắt.

  1. Bài Tin Mừng(Mt 17,1-19)

Văn mạch : Phía trước Bài Tin Mừng này (Mt 17,1-9) có câu nói của Đức Giêsu “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đây cũng là một cuộc hành trình của người làm môn đệ Chúa. Một cuộc hành trình cũng gian khổ và đầy tính phiêu lưu như Abraham xưa. Nhưng bài Tin Mừng Chúa Nhựt này cho ta thoáng thấy một chút về cái tương lai của cuộc hành trình ấy : Đức Giêsu biến hình ra vinh quang. Nghĩa là sau khi qua gian khổ thì sẽ tới vinh quang. Và trong khi Ngài biến hình, có tiếng Chúa Cha từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người”. Ý Chúa Cha cho biết Ngài muốn các môn đệ Đức Giêsu cũng hãy dấn thân vào cuộc hành trình của Ngài, và như thế Ngài rất hài lòng, Ngài cũng sẽ cho họ được biến hình ra vinh quang.

  1. Bài thánh thư(2 Tm 1,8b-10)

Chẳng những mỗi người phải dám dấn thân vào một cuộc hành trình phiêu lưu theo Chúa, mà còn phải hành trình mang Tin Mừng đến cho người khác. Cuộc hành trình thứ hai này cũng gian khổ, nhưng cũng đáng thực hiện. Bởi thế Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu : “Anh em hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (câu 8b).

  1. GỢI Ý GIẢNG
  2. Hành trình và phiêu lưu

Muốn đi theo tiếng Chúa gọi, Abraham đã phải bỏ quê hương và những người thân

Muốn đi theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ mình và vác thập giá hàng ngày”

Để đi loan báo Tin Mừng, các tông đồ phải chịu biết bao gian khổ.

Họ đã bỏ rất nhiều. Bù lại họ được gì ? Abraham nhận được lời Chúa hứa ban cho một dòng dõi đông đảo, các môn đệ được Đức Giêsu cho thoáng thấy vinh quang ở cuối cuộc hành trình, và người tông đồ được hứa “tên các con được ghi trong sổ trời”. Tin theo những lời hứa về một tương lai xa vời như thế đúng là phiêu lưu.

Thông thường, người khôn ngoan không nên phiêu lưu, thà giữ lấy cái hiện tại tuy bình thường nhưng chắc chắn, còn hơn bỏ nó để theo đuổi một tương lai chi mới có trong lời hứa. Nhưng đó là lối cư xử giữa loài người với nhau vì loài người thì rất khó tin. Nhưng đối với Thiên Chúa thì rất đáng phiêu lưu như vậy, vì đã có nhiều bằng chứng cho thấy lòng trung tín thực hiện lời hứa của Ngài. Hơn nữa, Ngài có kêu gọi chúng ta từ bỏ để phiêu lưu theo Ngài cũng chỉ vì Ngài muốn đưa chúng ta trở về hạnh phúc thuở ban đầu mà thôi. Thực ra phiêu lưu theo Chúa không phải là phiêu lưu, chỉ cần có đức tin vào lòng trung tín của Chúa là có bảo đảm.

Rất nhiều người đã dám phiêu lưu như vậy : Abraham (2 lần : bỏ quê hương, giết con một), Đức Maria (khi thưa vâng với Thiên thần), các môn đệ (lập tức bỏ thuyền, bỏ lưới và gia đình để theo Đức Giêsu)

Hình ảnh con rùa : nếu nó cứ rụt đầu rút chân vào vỏ thì xem ra an toàn đấy nhưng nó cứ mãi ở lì một chỗ, không bao giờ tiến đến đâu cả. Chỉ khi nào nó dám thò đầu thò chân ra để bước thì, tuy có thể gặp nguy hiểm đấy, có thể bị đau đấy, nhưng có thế nó mới tiến được.

  1. Đức tin lên đường

Chuyện tổ phụ Abraham cho ta thấy được điều quan trọng này : đức tin là một cuộc lên đường.

– Tại sao ? Vì “đạo” là đường, con đường Thiên Chúa dẫn dắt để chúng ta từ tối tăm tới ánh sáng, từ cõi chết đến cõi sống. Trong Thánh Kinh, mỗi lần Chúa gọi ai thì Ngài đều bảo họ lên đường đi theo Ngài.

– Mà muốn lên đường thì phải từ bỏ, vì hành trang càng gọn nhẹ thì bước hành trình càng nhanh. Thiên Chúa đã bảo với Abraham : “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi”.

– Hành trình đức tin luôn bao hàm ý nghĩa phiêu lưu : Abraham hành trình lên đường nhưng không biết mình sẽ đi tới đâu, ông chỉ biết mình đang đi theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa : “đến đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”.

– Rất nhiều tín hữu chỉ lo gìn giữ những tín điều giáo lý và các lễ nghi. Đó chỉ là “giữ đạo” chứ không phải “sống đạo”.

  1. Cuộc biến hình và cuộc hấp hối của Chúa

Linh mục Mark Link (trong quyển Sunday homilies, Year A) đã so sánh việc Đức Giêsu biến hình và việc Ngài hấp hối :

– Cả hai việc cùng diễn ra trên núi : biến hình trên núi Tabor, hấp hối trên núi Cây Dầu.

– Ở hai nơi, Đức Giêsu đều biến hình : trên núi Tabor Ngài biến từ hình dáng loài người thành hình dáng Thiên Chúa ; trên núi Cây Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa vinh quang thành hình dáng con người yếu đuối. – Hai việc biến hình đều xảy ra lúc Đức Giêsu đang cầu nguyện.

– Và cả hai biến cố này đều xảy ra trước mắt 3 nhân chứng Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Dáng vẻ yếu đuối của Đức Giêsu là hình ảnh của Ađam cũ, còn dáng vẻ uy nghi sáng láng là hình ảnh của Ađam mới. Thân phận của chúng ta cũng thế : Có những lúc chúng ta sốt sắng ngất ngây, như Đức Giêsu trên núi Tabor. Khi ấy chúng ta cảm thấy mến Chúa yêu người quá ; chúng ta muốn ở mãi trong tình trạng ngây ngất đó ; Nhưng rồi lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng, như đang ở núi Cây Dầu. Khi ấy, phần Ađam cũ trong ta nổi dậy mãnh liệt. Chúng ta cảm thấy chán nản, không ai thương mình và mình cũng không muốn thương ai. Hình như Thiên Chúa cũng xa lánh mình.

Nhưng có một chi tiết quan trọng là Đức Giêsu đã luôn cầu nguyện trong cả hai biến cố đó. Chính sự cầu nguyện đã liên kết thống nhất 2 phương diện ngược hẳn nhau trong cùng một con người của Ngài.

Mark Link đã kết thúc bài suy gẫm của mình bằng lời kinh sau đây (dịch thoáng) :

Lạy Thiên Chúa, xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Đức Giêsu trên núi Tabor. Trong những lúc đó xin cho con biết làm như Đức Giêsu xưa : con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện, và con sẽ được nghe lời Chúa nói “Con là con yêu dấu của Cha”.

Lạy Thiên Chúa, khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Đức Giêsu xưa : con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con. Amen”

  1. Mảnh suy tư

a/ Biến hình

Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai : biến hình nên tốt hơn và biến hình thành xấu hơn, tuỳ vào tác nhân gây nên sự biến hình ấy.

Trong các môn đệ Đức Giêsu, Gioan là thí dụ của lối thứ nhất và Giuđa là thí dụ của lối thứ hai.

Những tác nhân ảnh hưởng giúp biến hình nên tốt là những gì ta yêu, những gì nâng tâm hồn ta lên cao, những gì làm ta thức tỉnh, những gì kêu gọi ta bước tới, những gì mở rộng cửa lòng ta ra…

b/ Hiếu động

Phêrô là một con người hiếu động, luôn cần làm một cái gì đó.

Trên núi biến hình, thay vì thinh lặng chiêm ngưỡng, ông lại muốn dựng 3 chiếc lều.

Không phải mọi thời trong cuộc sống đều phải dùng để làm một cái gì đó.

Có thời phải yên tĩnh

– để nghỉ ngơi

– để suy nghĩ

– để lắng nghe

– để kinh ngạc

– để chiêm ngưỡng

– để tôn thờ

  1. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT : Anh chị em thân mến

Hôm nay Đấng Cứu độ chúng ta tỏ vinh quang Người cho ba môn đệ được thấy. Chúng ta hãy tôn vinh Người và tin tưởng cầu xin.

1- Trước khi chịu khổ hình Thập giá / Đức Kitô đã tỏ vinh quang cho các môn đệ được thấy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian / được nhìn thấy vinh quang trong Thánh giá / và tin thật Chúa đã chiến thắng khải hoàn.

2- Mỗi ngày qua màn ảnh truyền hình / qua báo chí / chúng ta chứng kiến biết bao đau khổ trong cuộc sống / đau khổ vì thiên tai / vì chiến tranh / vì sự độc ác của người khác / đau khổ do bệnh tật / do quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho những anh chị em đang gặp thử thách / một niềm tin yêu và hy vọng để vui sống.

3- Ước mơ tha thiết của con người ở mọi thời đại / là được sống hạnh phúc / mà thái độ của Thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay là một ví dụ điển hình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người / đều tìm được hạnh phúc trong đời sống riêng tư của mình.

CT : Lạy Chúa, Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã chuẩn bị cho các tông đồ khỏi hoang mang trước mầu nhiệm thập giá, nhưng luôn vững tin vào sự tất thắng của Người. Xin cũng ban cho chúng con một niềm tin sắt đá, để chúng con có thể đứng vững trước mọi giông tố phũ phàng của cuộc đời. Chúng con cầu xin…

 

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY-A

ƠN GỌI BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

*A. DẪN NHẬP.

Thứ Tư Lễ tro đã khai mạc Mùa Chay thánh. Nói tới Mùa Chay, hầu như chúng ta có cái cảm giác là phải khép mình buớc vào con đường khắc khổ, hy sinh, từ bỏ, một mùa “khó nhá lắm”!  Đúng vậy, chính Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ đang theo Ngài :”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo”(Mt 16,14). Ngòai ra, Ngài còn tiết lộ cho các ông : Ngài sẽ lên Giêrusalem, phải bị bắt, bị đánh đòn, giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Đúng là một tin sét đánh. Các môn đệ cảm thấy bàng hòang lo sợ cho tương lai. Các ông phải buớc vào mùa Chay và mùa Thương khó.

Nhưng tám ngày sau khi tiết lộ tin sét đánh ấy, Đức Giêsu đã đem nhóm bộ ba là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện và Ngài đã biến hình sáng láng trước mắt các ông. Cảnh tượng này làm các ông hết sức ngạc nhiên và hứng thú, đến nỗi ông Phêrô đề nghị với Chúa để dựng lều ở luôn trên núi không xuống nữa. Nhưng thực tế là người ta phải xuống núi để còn phải chu tòan bao nhiệm vụ gai góc và nguy hiểm nữa. Phải chăng Đức Giêsu hé mở cho các ông thấy một chút vinh quang để kích thích các ông đi vào con đường khổ giá mà Ngài sắp phải trải qua trong những ngày sắp tới ?

Mọi Kitô hữu chúng ta cũng phải đi theo con đường khổ giá của Chúa. Đi theo con đường khổ giá là phải từ bỏ mình và vác thập giá. Từ bỏ mình là phải thay hình đổi dạng, phải lột bỏ con người cũ xấu xa tội lỗi mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn. Điều đó đòi hỏi một cuộc canh tân tòan diện. Cuộc canh tân này phải kéo dài và đòi hỏi chúng ta phải cố gắng liên miên, phải liều mình theo tiếng gọi của Chúa giống như tổ phụ Abraham xưa. Nhưng chắc chắn cuộc canh tân này sẽ dẫn ta đi tới đích mặc dầu phải trả một giá rất đắt vì “Per cruem ad lucem”.       

*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

Bài đọc 1 : St 12,1-4.

 Theo sách Sáng thế, sau khi tổ tông lòai người sa ngã phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại, hạnh phúc tan biến mất. Nhưng theo dòng thời gian Thiên Chúa không quên lòai người đang phải sống lầm than dưới ách tội lỗi, Ngài đã chọn tổ phụ Abraham để thực hiện chương trình  đưa lòai người trở về hạnh phúc ban đầu.

Thiên Chúa gọi tổ phụ Abraham rời bỏ Ur, một cuộc sống an cư lạc nghiệp cùng với bà con, với tài sản đầy đủ. Thiên Chúa truyền cho ông  hãy rời bỏ tất cả mà ra đi, phải làm một cuộc hành trình đầy phiêu lưu. Phiêu lưu vì Thiên Chúa không cho ông biết nơi sẽ đến, tương lai sẽ ra sao ! Ngài chỉ bảo :”Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 12,1). Nhưng tổ phụ Abraham đã đặt hết tin tưởng vào Chúa, ông lên đường, phó thác hòan tòan vào Chúa, còn tương sẽ để Ngài lo.

Bài đọc 2 : 2Tm 1,8b-12.

Thánh Phaolô khuyên dụ Timôthêô hãy thực hành ơn gọi Kitô hữu của mình là dấn thân vào một cuộc hành trình phiêu lưu theo Chúa. Như thế chưa đủ, ngài còn khuyên phải đồng lao cộng khổ với nhau làm một cuộc hành trình thứ hai cũng đầy gian khổ là lên đường loan báo Tin mừng. Chính Chúa Kitô đã dùng Tin mừng  tiêu diệât sự chết và chiếu soi sự sống.

Bài Tin mừng : Mt 17,1-19.

Trước đây Đức Giêsu đã nói với các môn đệ :”Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mt 16,24). Lời mời gọi này có thể làm cho các môn đệ chùn bước vì phải làm  một cuộc hành trình đầy gian khổ và cũng có tính cách phiêu lưu như trường hợp của tổ phụ Abraham xưa. Nhưng hôm nay Đức Giêsu biến hình trước mặt ba Tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan để khuyến khích  các ông theo Ngài, nhất là trong cuộc khổ nạn sắp tới của Ngài; đồng thời cũng hé mở cho các ông thấy một chút tương lai của cuộc hành trình ấy, nghĩa là sau khi qua gian khổ thì sẽ tới vinh quang.

Nếu Đức Giêsu là Con Yêu dấu của Thiên Chúa Cha mà còn phải chấp nhận thập giá thì các môn đệ của Ngài  cũng phải dấn thân vào cuộc hành trình của Ngài để tiến tới vinh quang. Việc Đức Giêsu biến hình cũng nhắc nhở cho các môn đệ và chúng ta là  muốn tiến tới vinh quang thì phải thay hình đổi dạng con người tội lỗi của chúng ta để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Chúng ta phải biến hình đổi dạng

*I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH TRÊN NÚI.

Đức Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem, sẽ bị bắt, bị hành hình và sẽ bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 16,21). Cái tin đột ngột ấy cũng như lời giảng dạy về luật phải từ bỏ mình vác thập giá, đã làm cho các ông bàng hòang lo sợ. Chúa nhận thấy cần phải nâng đỡ tinh thần của họ hay một phần trong nhóm của họ được nhìn thấy vinh quang của Ngài. Vì thế, tám ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ lên núi và biến hình trước mặt các ông.

*1. Nơi Đức Giêsu biến hình.

Thánh Matthêu dùng một chữ rất trống “trên núi cao”. Ngày nay hai quả núi đang tranh nhau cái vinh dự được Chúa chọn làm nơi biến hình.

* Có truyền thuyết cho rằng cuộc biến hình xẩy ra trên núi Taborê, nhưng không lấy gì làm đáng tin. Lý do : trên đỉnh núi Taborê cao 562 mét có một đồn lũy và một tòa lâu đài lớn, ta thấy cuộc biến hình khó có thể xẩy ra trên một hòn núi có đồn lũy, và theo như thánh Luca ghi lại thì chúng ta biết Đức Giêsu lên đó để cầu nguyện, Ngài cần phải có sự yên tĩnh.

* Có người cho rằng việc biến hình xẩy ra trên núi Hermon. Núi này cao gần 3000 mét, nằm cách Xêsarê Philip 23 cây số. Đó là hòn núi cao, cao đến nỗi người ta có thể nhìn thấy nó từ Biển chết, cách đó 160 cây số. Như thế, việc biến hình không thể xẩy ra trên tận đỉnh núi, vì núi quá cao, và lên núi phải mất một ngày, xuống một ngày, như thế thì quá mệt mỏi.

* Chúng ta không biết rõ Đức Giêsu đã biến hình ở núi nào. Theo cổ truyền thì núi Hermon không được nhắc tới mà chỉ nói tới núi Taborê. Hơn nữa, núi Taborê được hậu thuẫn ở cổ truyền cho đến thế kỷ IV. Ngày nay trên núi Taborê có nhà thờ lộng lẫy của các cha dòng Phanxicô dâng kính Chúa biến hình.

*2. Những người chứng kiến.

Đức Giêsu chọn nhóm bộ ba đi theo, đó là ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Nhóm này được Đức Giêsu lưu ý đặc biệt : các ông được chứng kiến những việc trọng đại của Chúa, các ông cũng được mục kích việc xẩy ra ở vườn Giệtsimani, lúc Đức Giêsu đang trong cơn hấp hối. Riêng ông Gioan còn đứng chứng kiến giờ Chúa hấp hối trên thập giá nữa.

*3. Hai vị khách đặc biệt.

Tại trên núi, có hai nhân vật xuất hiện gặp Đức Giêsu, đó là ông Maisen và Elia. Maisen là nhà lập luật Do thái dọn đường cho Chúa Cứùu Thế đến. Elia nhà tiên tri trứ danh, vị tiền hô thứ nhất cho Chúa đến. Các ông hầu chuyện với Đức Giêsu về cái chết của Ngài ở ngòai thành Giêrusalem.

Có thể nói, đó là hai nhân vật lớn nhất trong lịch sử Israel đến với Đức Giêsu, lúc Ngài sắp lên đường, bắt đầu cuộc hành trình mạo hiểm đến nơi chưa biết, để bảo Ngài cứ đi tới. Nhà lập pháp lớn nhất và nhà tiên tri lớn nhất công nhận Đức Giêsu là người họ hằng mơ ước, là người họ đã báo trước. Sựï xuất hiện của họ là hiệu lệnh cho Ngài buớc tới. Như vậy, những nhân vật lớn nhất nhân lọai làm chứng rằng Đức Giêsu đã đi đúng đường và khuyên Ngài cứ đi trong cuộc xuất hành mạo hiểm đến Giêrusalem và đồi Golgotha.

*4. Mục đích việc biến hình.

Chắc chắn tâm tư các môn đệ vẫn còn xót xa, hoang mang bởi lời quả quyết của Đức Giêsu khi Ngài tiết lộ cho các ông : Ngài phải tới Giêrusalem,  để chịu nhục hình , bị đối xử như tên tội phạm, chịu đau đớn, bị đóng đinh vào thập giá và chết. Trước mắt họ, tương lai tòan là mầu đen nhục nhã. Nhưng tòan cảnh núi Biến hình là vinh quang. Mặt Đức Giêsu sáng rỡ ràng như mặt trời, áo Ngài rực rỡ chói lòa như ánh sáng…

Chắc chắn cảnh tượng đó đã làm cho các môn đệ phấn khởi, họ đã thấy vinh quang bên kia cảnh nhục nhã, khải hòan bên kia cảnh đau khổ, vương miện bên kia thập giá. Ngay lúc ấy, họ cũng chưa phải là  đã hiểu trọn vẹn, nhưng chắc chắn họ đã lờ mờ ý thức được rằng thập giá là hòan tòan khổ nhục, nhưng nó đi liền với vinh quang là nét chính của cuộc xuất hành đến Giêrusalem và đến cái chết.

Giáo hòang Lêô Cả, nhà thần học trứ danh ở thế kỷ thứ 5, đã nói :”Chúa Giêsu biến hình nhằm mục đích giữ trước  cho tâm hồn các môn đệ khỏi cây Thánh giá làm chướng nghịch : Buổi sáng tưng bừng trên núi ấy, ba tông đồ có nhớ lại trong đêm ở vuờn Cây Dầu chăng, khi được mục kích một việc mầu nhiệm khác  mà các ông cũng ngủ lăn lóc, không chú ý đến, tức là Chúa Giêsu hội diện trong u ám với Thiên Chúa hùng mạnh”(Daniel-Rops).

Qua cuộc biến hình nhiều người đã có cảm nghiệm như thánh Phêrô : ông muốn làm ba lều cho Đức Giêsu, cho Maisen và cho Elia. Ông muốn kéo dài giây phút huy hòang ấy. Ôâng không muốn trở về với công việc thường ngày, ông muốn ở lại mãi mãi với vinh quang rực rỡ.  Ai đã từng trải qua những giây phút thân mật, trong sáng, bình an, gần gũi với Chúa cũng đều muốn kéo dài những giây phút ấy, như có người đã diễn tả :”Núi Biến hình bao giờ cũng thích thú hơn là công tác phục vụ hằng ngày hay con đường thập giá”(Mc Neil).

Nhưng núi Biến hình được ban cho ta  chỉ để cho ta có sức mạnh làm công tác phục vụ hằng ngày và bước đi trên con đường thập giá. Đã có một lời cầu nguyện như sau :”Lạy Chúa, xin hãy giúp con nhớ rằng : đạo không bị giới hạn nơi nhà thờ hay nguyện đường, cũng không chỉ thực hành bằng cầu nguyện  hay suy gẫm mà ở bất cứ nơi nào con được ở trong sự hiện diện của Chúa”(S. Wesley). Giờ phút vinh quang không xuất hiện vì chính nó, nó xuất hiện là để khóac vẻ đẹp lóng lánh, rực rỡ cho những công việc bình thường mà trước kia chúng ta chẳng hề có.

*II. CHÚNG TA PHẢI BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG.

Muốn theo ơn gọi làm Kitô hữu, chúng ta phải dấn thân làm một cuộc hành trình phiêu lưu gian khổ để theo Chúa Kitô. Dấn thân gợi lên ý tưởng phải liều. Liều đây không có nghĩa là nhắm mắt theo một cách mù quáng, bất chấp tương lai, bất chấp hậu quả tốt xấu, nhưng liều một cách sáng suốt nghĩa là đặït trọn niềm tin vào những lời hứa của Chúa, Đấng hằng trung tín không lừa dối ai, Ngài kêu gọi chúng ta từ bỏ để phiêu lưu theo Ngài, cũng chỉ vì Ngài muốn đưa chúng ta trở về hạnh phúc thuở ban đầu.

Cuộc hành trình theo Chúa này đòi chúng ta  phải “từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày ”, nghĩa là phải lột bỏ con người xấu xa tội lỗi của mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Hay nói cách khác, chúng ta phải biến hình hằng ngày để có thể “nhật nhật tân, hựu nhật tân” theo khuôn mẫu của Chúa Kitô.

*1. Biến hình đổi dạng là gì ?

Khi nói đến biến hình đổi dạng, ta liên tưởng ngay đến lời thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Eâphêsô :”Hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em”(Ep 4,22.24). Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai : biến hình nên tốt hơn và biến hình thành xấu hơn, tùy vào tác nhân gây nên sự biến hình ấy. Trong các môn đệ Đức Giêsu, Gioan là thí dụ của lối thứ nhất và Giuđa là thí dụ của lối thứ hai. 

Những tác nhân ảnh hưởng giúp biến hình  nên tốt là những gì ta yêu, những gì nâng tâm hồn ta lên cao, những gì làm ta thức tỉnh, những gì kêu gọi ta bước tới, những gì mở rộng lòng ta ra…

*2. Nhu cầu biến hình đổi dạng.

Mọi vật phải luôn luôn đổi mới không thể đứng ỳ một chỗ được. Dòng nước phải lưu thông, nếu không sẽ trở thành một ao nước tù. Sự biến hình đổi dạng cần thiết cho cả phương diện vật chất lẫn tinh thần.

*a) Phương diện vật chất.

Thân thể con người đổi mới mỗi ngày thì mới có thể tồn tại được. Ngày trước, người ta nói rằng cứ 7 năm, cơ thể con người ta được trùng tu lại một lần hòan tòan mới. Các nhà khoa học ngày nay không nói 7 năm, mà chỉ nói một năm thôi. Mỗi năm một lần, các bộ phận trong cơ thể con người được lần lượt tháo gỡ bỏ đi hết kỹ lưỡng hơn gấp mấy các bác ráp sửa xe và được thay thế bằng những bộ phận khác hòan tòan mới.

Rắn già rắn lột. Con người thì già trẻ gì cũng lột. Chỉ trong vòng 12 tháng là tôi lột bỏ hết con người cũ với xương thịt của nó  và mặc lấy một con người mới với xương thịt mới hòan tòan. (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 373-374).

Các nhà khoa học còn cho biết, da của thân xác con người còn được thay đổi nhanh hơn nữa, tính ra da của cơ thể con người sẽ thay đổi hòan tòan mỗi 27 ngày (Báo Thời nay, số ra ngày 04.12.1977, tr 70).

*b) Về phương diện tinh thần.

Người ta thường nói đến đổi mới tư duy, phải đổi mới nếp nghĩ mới đưa đến tiến bộ trong hành động; những tư tưởng cũ kỹ lạc hậu phải được đẩy lùi để thay vào đó những tư tưởng tiến bộ mới mẻ hơn.

Không có thời nào người ta hay nhắc đến  chữ “cách mạng” cho bằng thời nay. Người ta thích luôn đổi mới, chữ cách mạng hiện nay có nghĩa là thay đổi một thể chế, một chế độ cũ xấu xa để xây dựng một chế độ mới tốt hơn. Theo nguyên nghĩa của nó thì chữ cách mạng bao giờ cũng bao hàm một ý nghĩa tốt, thí dụ người ta đã làm một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào thế kỷ 17 để rồi biến thế kỷ 19 thành thế kỷ ánh sáng của khoa học.

*c) Về phương diện tâm linh.

Con người bị vật dục và những hòan cảnh chung quanh chi phối, làm cho nó đi xa nguồn gốc tốt lành của nó, cần phải làm cho nó trở về  tình trạng tốt lành nguyên thủy của nó.

Ông Francis Bacon nói :”Thời thượng cổ trong lịch sử là thời thanh xuân của thế giới : chính chúng ta mới là cổ nhân”.  Thời kỳ con người mới được dựng nên là thời kỳ thanh xuân vì con người lúc ấy giống như Đức Chúa Trời trong sự công bình và trong sạch. Mặc dầu thời kỳ hiện nay là thời kỳ nguyên tử vệ tinh, con người cũng không thể đem chính họ trở lại thời kỳ “thanh xuân” được. Ông G. Duhamel nói rằng :”Con người ta dù có là vĩ nhân đi chăng nữa cũng chỉ là con người”.

Cho nên, con người muốn trở nên con Trời, tức là trở lại thời thanh xuân, thì phải được tái sinh theo phương cách mà Chúa Giêsu đã tuyên bố với ông Nicôđêmô :”Quả thật, Ta nói cùng ông, nếu một người chẳng sinh lại thì không thể thấy được Nước Đức Chúa trời” (Ms Hùynh Tiên, Thánh kinh Nguyệt san, số 362, tr 14).

*3. Phương cách biến hình đổi dạng.

Cuộc sống tâm linh của con người thời nay sẽ xuống dốc vì họ không muốn đi theo con đường của Chúa, con đường thập giá mà đi theo một con đường dễ dãi. Mục sưOscar Cullman, một nhà thần học Tin lành được mời diễn thuyết  cho một số nhà trí thức công giáo họp tại Strasbourg ở Pháp, về cuộc khủng hỏang sau công đồng Vatican II, ông nói :

Cuộc khủng hỏang hiện nay không phải chỉ xẩy ra trong Giáo hội Công giáo, chính trong Giáo hội Tin lành của chúng tôi cũng không thóat khỏi. Một trong lý do là  Kitô hữu không chấp nhận sự điên dại của thập giá Chúa, như thánh Phaolô đã dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họ tránh hy sinh, tránh khó nghèo. Họ tìm lời khen, họ muốn tự do theo ý riêng họ. Họ muốn theo Chúa Giêsu lúc Người biến hình trên núi Taborê, nhưng dừng lại bên ngòai vườn Cây Dầu, và không trèo lên núi Thập giá” (Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa A, tr 49).

Chương trình biến hình đổi dạng của chúng ta là làm một cuộc cách mạng bản thân trong hai chiều hướng tiêu cực và tích cực.

*a) Phương diện tiêu cực.

Mọi người đều có khuyến điểm, sai phạm, yếu đuối và sa ngã. Đặc biệt là khi qui chiếu với Tin mừng của Đức Giêsu. Có nhận ra sự mỏng dòn của thân phận con người thì mới cố gắng  để biến đổi cuộc sống của mình. Đồng thời trong cuộc sống, nếu ai cũng có một lý tưởng để hướng tới, nếu ai cũng có một mục đích để dõi theo, hay luôn để ý tìm kiếm một sự hòan thiện, sự trọn hảo, thì chắc chắn thế giới này đã có nhiều biến chuyển  rất khác so với thực tế xã hội hiện  nay.

Theo thánh Phaolô, con người cũ là con người  hành động theo xác thịt không theo luật của lương tri, họ sống buông thả cho mọi khuynh hướng sống. Không ai sống cho chính mình (Rm 14,7). Nhưng biết bao người chỉ sống cho mình họ, cho thỏa nguyện của họ :”Tất cả những người lấy cái bụng làm Chúa, những người đặt vinh quang của họ trong những việc chỉ làm cho họ xấu hổ vì chỉ thích những cái gì phàm tục”(Pl 3,19).

Suy nghĩ thực tế về con người mình, một nhà quân tử đã thốt lên :

Tôi chưa có kinh nghiệm thế nào là lương tâm của một kẻ sát nhân, nhưng tôi đã biết thế nào là lương tâm của một người quân tử : thực là ghê tởm ! Người quân tử là người dám thành thật với mình, dám nhìn thẳng vào cõi lòng mình, không dối mình, dối người, cũng chẳng dối trời. Đúng vậy : “Le moi est haissable”: cái tôi đáng ghét.

Truyện : gột rửa óc tội phạm.

Tin từ Toronto (Canada) cho hay : công cuộc giải phẫu  để rửa óc con người đã hòan thành và chứng minh được là ý nghĩ con người sẽ hòan tòan thay đổi bằng những tác dụng mạnh vào tinh thần của đương sự.

Các nhà bác học Hoa kỳ đã nghĩ đến cách xử dụng việc giải phẫu nói trên để gột rửa óc của những kẻ phạm trọng tội, biến những kẻ khát máu này thành những “con cừu non ngoan ngõan”.

Giáo sư James Mc Connel tại đại học đường Michigan đã tuyên bố với báo chí :”Hiến pháp Hoa kỳ cho phép con người được tự do hành động theo lý trí của họ, thì để cho công bằng, Hiến pháp cũng phải để cho người ta  được phép tiêu diệt những khuynh hướng giết người trong đầu óc những kẻ sát nhân”.

*b) Phương diện tích cực.

Cách mạng không có nghĩa là  chỉ phá đổ cái cũ đi là xong, nhưng còn phải xây dựng một cái gì tốt hơn. Bước đầu của cuộc cách mạng bản thân là hủy bỏ tất cả những tính hư tật xấu của con người và buớc thứ hai là phải xây dựng con người  theo một khuôn mẫu nào đó.

Chúng ta phải “canh tân” con người mình. Canh tân là làm cho tình trạng xấu hóa thành tình trạng tốt. Canh tân con người nội tâm không phải chỉ thay đổi những cái phụ tùy bên ngòai, nhưng là thay đổi hẳn tình trạng, phải có một sự chuyển biến từ nội tâm, nếu không thì người ta sẽ chê trách :

Thay quần, thay áo, thay hơi,

Thay dáng thay dấp, mà người chẳng thay.(Ca dao)

Chúng ta hãy chọn cho mình một “Thần tượng”. Con người được gán danh hiệu thần tượng là được tôn thờ, hoan nghênh như một vị thần. Thực ra thần tượng  không những được người ta tôn thờ như vị thần, đặt hết lòng tin, niềm kiêu hãnh trong đó, nhưng hơn nữa còn ao ước, mong muốn mình được huyền đồng với thần tượng của mình. Do đó, người được tôn sùng là thần tượng là người đã được đồng hóa như vị thần và có thể bắt chước  rập khuôn những điệu bộ, lối sống, cách phục sức… Ta nhận định : đi trong hành trình cuộc đời, con người khi đã cảm thấy mình đuối sức, tâm hành bất nhất, họ sẽ tìm bám víu lấy một thần tượng  để trao phó cho thần tượng, gửi gắm cho thần tượng ước vọng tiến mãi của mình. Người ta nhận ra trong thần tượng những ưu điểm mà mình không có, và cố với lấy những ưu điểm này (Chiêu Anh, Nội san Đồng tiến, 1972, tr 39).

Chúng ta hãy chọn Đức Giêsu là thần tượng vì Ngài là “Đường. Là chân lý và sự sống”(Ga 14,6), Ngài có mọi đức tính của một con người hòan hảo nhất và Ngài dạy rõ ràng và công khai :”Các con chỉ có một người Huấn đạo là Đức Kitô”(Mt 23,10). Lời dạy của Ngài đã được ghi chép trong Tin mừng, hãy đọc và thực hành.

Truyện : Hòang tử lưng gù

Có một hòang tử vừa đẹp trai vừa văn võ song tòan. Nhất là có thái độ khiêm tốn hòa nhã với mọi người, nên rất được lòng vua cha và bá quan trong triều. Hòang tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái lưng bị gù từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật ấy mà chàng có mặc cảm tự ti không bao giờ dám xuất hiện trước công chúng. Triều đình có cái lệ này là tạc tượng các nhân vật trong hòang tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bầy  tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân đến chiêm ngưỡng.

Năm đó, hòang tử của chúng ta cũng tròn 20 tuổi. Dù không muốn người ta tạc tượng cho mình, nhưng chàng không dám trái lệnh vua cha. Có một điều là chàng xin vua cha hai điều và được chấp thuận : một là bức tượng của chàng phải được tạc ở thế đứng thẳng người chứ không bị gù lưng. Hai là bao lâu chàng còn sống thì không được trưng bầy bức tượng ấy, mà chỉ được đặt trong phòng riêng của chàng.

Từ khi có bức tượng, mỗi ngày hòang tử đều đến gần ngắm nhìn ảnh mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước thế đứng thẳng người của bức tượng. Và sau một thời gian, mọi người trong hòang cung đều vui mừng nhận thấy  hòang tử không còn gù lưng nữa, trái lại, chàng luôn có dáng vẻ hiên ngang oai vệ xứng đáng như một hòang tử. Cũng từ đó, chàng đồng ý cho trưng bầy bức tượng của mình tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng.

 

 

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY-A

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

home Mục lục Lưu trữ