Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1371005

HẠT GIỐNG ÂM THẦM

HẠT GIỐNG ÂM THẦM (*)- Chú giải của Noel Quession

Đức Giêsu nói: “Chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng”.

Đức Giêsu dùng một so sánh rất tự nhiên mà các thính giả của Người đều biết rõ. “Gieo hạt giống” đó là một cử chỉ rất quen thuộc, đến nỗi ta có nguy cơ không còn nhận ra mầu nhiệm của nó nữa. Đây là việc làm rất mạo hiểm. Hạt giống này sẽ ra thế nào?

Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự nó sinh ra hoa màu: Trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.

Người ta đã gọi dụ ngôn này là “hạt giống tự mọc lên”. Quả nhiên, mọi sự diễn tiến như thế. “Không ai” chăm sóc hạt giống khi rớt xuống đất, như thể người nông dân đã không quan tâm đến hạt lúa mà anh đã gieo. Đây là một dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Máccô là thánh sử duy nhất đã kể lại dụ ngôn này. Chúng ta hãy để cho trí tưởng tượng hoạt động quay lại cuộn phim về sự tăng trưởng này, mà ta không nhận thấy và không hiểu được ngày nay cũng như vào thời Đức Giêsu.

Những nhà bác học của chúng ta đã tiến bộ rất nhiều trong việc mô tả và phân tách những biến động bên ngoài, nhưng chưa vị nào biết được sự sống là cái gì. Ngay khi một hạt giống rơi xuống đất, thì trong vòng bí mật, bắt đầu một sự chuyển hóa vật chất thật tuyệt vời, một loạt những sự kỳ diệu mà ta không thấy được. Dù con người có lo lắng về việc đó hay không, thì trong phần cốt yếu của nó sự sống không tùy thuộc con người. Việc trồng trọt giúp thiên nhiên, nhưng không bao giờ thay thế thiên nhiên được. Hạt giống, rồi cọng cây xanh non, bông hoa nhỏ xíu, hạt lúa, và sau cùng là vô số những hạt khác.

Lạy Chúa, Chúa muốn nói gì với chúng con qua dụ ngôn hy vọng này? Chúa gởi đến chúng con lời mời gọi nào qua những câu đó? Không ai có thể thay thế chúng ta để trả lời những câu hỏi này. Tình trạng của tôi” như thế nào, vào lúc này, hôm nay, mà Chúa đang nói với tôi? Tình trạng của Giáo Hội, của thế giới hiện nay ra sao, để chúng ta có thể áp dụng bài học hy vọng này?

Lúa vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt vì đã đến mùa.

Bỗng nhiên tình thế biến đổi. Bản văn Hy Lạp của Mác-cô gồm hai từ nhấn mạnh về sự đối chọi này “nhưng” và “ngay sau đó”. Sau một thời gian dài không hoạt động của nơi nông dân, bây giờ là lúc gặt hái sôi nổi. Chúng ta chớ quên phần đầu của dụ ngôn này. Đó là nói về “Nước Thiên Chúa”. Thái độ của người nông dân giúp chúng ta hiểu thái độ của Thiên Chúa. Một lần nữa, Tin Mừng không phải là một bài học luân lý và chúng ta không nên vội áp dụng thực tế vào cuộc sống.

Trước hết Tin Mừng là mạc khải” về Thiên Chúa, và chỉ bằng cách liên quan với chân lý đức tin được khám phá rõ hơn, mà chúng ta mới có thể có một thái độ cụ thể một cách gián tiếp. Như vậy sự mạc khải về Chúa qua dụ ngôn này là thế nào? Đức Giêsu soi sáng cho tình hình vào thời của Người, mà Thánh Gioan Tẩy giả đã nói rõ lên sự thất vọng của ông. “Người có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một Đấng khác?” (Mt 11,3). Nhưng đó cũng là một câu hỏi ngày nay, như của mọi thời đại: Tại sao người ta không thấy Nước Thiên Chúa rõ hơn? Tại sao Người lại cho ta có cảm tưởng là Người không lo lắng gì đến những việc xảy ra trên thế giới? Đức Giêsu trả lời. Thiên Chúa không làm gì khác hơn là người nông dân. Các người hãy chờ đến “mùa gặt”. Trong khi chờ đợi, nếu ta nghĩ là không có gì xảy ra, thì chúng ta đã bị ảo giác. Các bạn thấy nhưng các bạn khống thấy được tất cả. Chúng ta cũng biết, những gì chúng ta không thấy không phải là không hiện hữu, ngược lại thì có. “Điều cốt yếu thì không thể thấy được”, con chồn đã nói như vậy với vị hoàng tử nhỏ bé” trong chuyện của văn sĩ St Exupéry. Một hạt lúa mì chứa đựng hàng tỷ tỷ hạt nhân, gồm một lõi và những phân tử chỉ to bằng một phần tỷ của một phần tỷ một milimét xoay quanh lõi đó với tốc độ 297.000 cây số/một giây? Bạn không thấy hết được điều đó, nhưng đấy là sự thật của hạt lúa mì.

Tất cả những gì “thần thiêng” ở trong thế giới đều nằm trong đó: Sức mạnh tiềm tàng, khó nhận biết và tích cực… chỉ có những tâm hồn đơn sơ mới tìm thấy được, đó là những người chấp nhận “tin” những gì Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa.

Vậy đối với những người tin “hậu quả thực tế” là gì? Xin bạn hãy tự rút ra kết luận. Chúa tác động trong sự bí mật. Đó là một Thiên Chúa ẩn dật.

Bạn hãy để cho hạt giống chín mùi. Bạn chớ bao giờ nản lòng. Hãy khởi công. Hãy gieo hạt. Vũ trụ không đang đi đến cõi chết, nhưng đang tiến tới “niềm vui của mùa gặt”. Hời nông dân bạn hãy giơ liềm lên!

Rồi Đức Giêsu lại nói: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?”

Đó là hai câu hỏi. Đơn thuần là một cách hành văn để nhắc nhở đề tài? Hay là những câu hỏi của Đức Giêsu để nhấn mạnh về sự khó khăn khi nói về Nước Thiên Chúa? Dù sao chúng ta cũng nên tìm hiểu Nước Thiên Chúa có thể như thế nào? Nước này sẽ đi đến đâu? Hình thức của nó ra sao? Nó giống cái gì?

Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống để tự nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế gian. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ.

Lại một hình ảnh nữa. Đức Giêsu là một “Thầy dạy khôn ngoan” một nhà sư phạm giỏi, một người kể chuyện biết tìm những câu châm ngôn kích thích tính hiếu kỳ. “Hạt cải” đã được nổi tiếng trong những câu tục ngữ vì sự nhỏ bé của nó. Đức Giêsu đã ám chỉ hạt cải này một lần khác khi Người nói: “Nếu anh em có đức tin lớn hơn một hạt cải…” (Lc 17,6). Dụ ngôn này nhấn mạnh về sự bất trung xứng giữa lúc đầu “nhỏ xíu” và khi hoàn thành rất lớn. Trong sự so sánh. này cũng như trong so sánh trước đó. Đức Giêsu đã trả lời cho thái độ bất bình của những người đồng thời cũng là cớ gây chống đối Người. Sự can thiệp của Đấng Mêsia đã được mọi người mong đợi như một biến cố hiển thắng và mau lẹ, thế nhưng “buổi chiều tối quan trọng của Thiên Chúa đã không đến. Đứng trước những đảo lộn hiển nhiên của những niềm hy vọng người Do Thái, tác vụ của Đức Giêsu xem ra thật là vô vị, nhưng Máccô trả lời cho thái độ bất bình của thời ông, vào lúc ông viết Tin Mừng, có một sự kiện không chối cãi được, đã làm mọi người suy nghĩ xôn xao: Làm sao dân Chúa chọn, dân ít-ra-en phần lớn lại không đón nhận Tin Mừng của Đức Giêsu? Có phải là sự thất bại của chương trình Thiên Chúa không? Trang Tin Mừng của Máccô trên đây phù hợp cách diệu kỳ với câu hỏi đáng sợ nhất của thời đại chúng ta: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thì mọi việc sẽ sáng tỏ hơn… Vậy tại sao có rất nhiều người ngay thẳng và lương thiện mà lại không tin, hay cứ theo thuyết vô tri. Thiên Chúa có hiện hữu thực sự không? phải chăng đó chỉ là bóng ma, là chủ quan? Hay là ảo giác của một số người cuồng tưởng? Thiên tài, thánh thiện, toàn hảo như thế mà đã không làm cho người đồng thời trở lại được, ngay cả chính thân nhân của Người. (Như bài Tin Mừng Chúa nhật trước đã cho ta thấy). Tuy nhiên với một sự bạo dạn như điên rồ, Người đã tin rằng Người đã không mất thời giờ để gieo “hạt giống nhỏ bé” của Người, và lịch sử chứng minh Người đã có lý kể từ bây giờ, bất cứ ai đã gieo một “mầm” trong một linh hồn người nào để dấn thân phục vụ một công trình giúp đỡ anh em mình, bất cứ ai đã cố gieo Tin Mừng, có thể dựa trên lời nói của Đức Giêsu trên đây, để vượt qua mọi thất vọng và thất bại nhất thời. Cha mẹ, ông bà nào đã nghĩ mình đã thất bại trong giáo dục con cháu, quý vị hãy cầm lên một hạt cải nhỏ: Dù kết quả bề ngoài xem ra nhỏ bé, quý vị vẫn là những người được “mời gọi để hy vọng”. Cuộc phiêu lưu nhỏ bé của Đức Giêsu đã được chứng thực: Cuộc phiêu lưu đó bây giờ đã “lớn lao”. Cuối cùng rồi các bạn sẽ thấy!

Cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.

Hạt nhỏ nhất trong các hạt đã trở nên một cây nhỏ đẹp. Cây là chỗ cho “chim trời tới trú ẩn” đã là một hình ảnh cổ điển trong Thánh kinh (Đn 4,9; Ed 31,6-17,22-23; Tp 9,15). Đttc Giêsu đã hoàn toàn được xác định vị trí trong môi trường văn hóa của Người. Và nói theo lúc đó Người dám tiên đoán sự thành công cuối cùng này, chỉ là một con người u tối xứ Galilê, vùng Na-za-rét có 12 người nghèo khổ, không văn hóa, không thế lực đi theo. Lạy Đức Giêsu, con đọc lại lời hứa của Người và con áp dụng lời đó cho mọi cơn thất vọng của con. Xin Người cho chúng con niềm hy vọng và lòng tin tưởng.

Đức Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng Lời Thiên Chúa cho dân chúng nghe tùy theo sức họ hiểu. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.

Vậy Đức Giêsu đã lưu ý đến trình độ đức tin của người nghe. Đó là mầu nhiệm của tự do. Đối với những người có thiện cảm với Người. Với các bạn hữu của Người, Đức Giêsu đã giải thích bổ túc cách riêng. Đức tin là một “sự sống” một tương giao sống động”. Mỗi lời cầu nguyện chuẩn bị cho lời cầu kế tiếp. Mỗi suy niệm chuẩn bị cho suy niệm tiếp theo. Mỗi bước chân đi tới Chúa sửa soạn cho bước kế tiếp. Điều còn là tối tăm khó hiểu đối với nhiều người, lại là một thực tế dần dần trở nên hiển nhiên đối với những người khác. Nếu bạn muốn biết -Thiên Chúa nhiều hơn, bạn hãy bắt đầu bước đi đầu tiên tới Chúa đi. Bạn hỡi, chỉ một bước thôi. Bạn sẽ phải thể hiện một bước đi như thế nào, để cho sự sống tiếp tục nảy nở?

 (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- B

HAI DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1/. Hạt giống tự mọc lên.

Tiếp theo trình thuật về ai là thân nhân thực của Đức Giêsu, Máccô đã long trọng đưa vào một chương mới, phải nói là quan trọng. Lúc ấy Đức Giêsu đang ở ven Biển Hồ “Galilê”. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người. Nên Người phải “xuống thuyền mà ngồi dưới biển để giảng dạy đám đông đang ở trên bờ” (4,1-2).

Đây là lần đầu tiên Người giảng dạy “bằng dụ ngôn” (4,2). J. Hervieux giải thích: “Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Nhờ hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh” (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 65).

Bỏ qua các dụ ngôn người gieo giống (1-9, 13-20) dụ ngôn cái đèn (21-23) cái đấu (24-25), là những dụ ngôn ta đã suy niệm trong năm A- Matthêu, bài đọc năm B này chỉ giữ lại hai dụ ngôn cuối cùng: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải.

Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật XI thường niên này là dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên.

+ Tiên vàn trình thuật vắn tắt gợi lại thời gieo vãi: chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người-vãi hạt giống xuống đất”.

+ Rồi kết thúc cũng một cách vắn gọn, nói về “thời gặt lúa”. “Lúc vừa chín , người ta đem liềm hái ra gặt”. Kiểu nói sau này là mượn lời của ngôn sứ Joel 4,1 3 loan báo ngày phán xét của Chúa tương tự như mùa gặt: “Ta sẽ ngự tòa phán xét muôn dân – Hãy đem liềm hái ra, vì đã đến mùa gặt rồi”.

+ Khoảng giữa hai thời kỳ là việc nảy mầm và phát triển của hạt giống diễn ra trong âm thầm và chậm chạp, được tác giả Tin Mừng gợi ra bằng những giai đoạn lần lượt nối tiếp nhau: “cây lúa”, “ trổ đòng” rồi “bông lúa nặng trĩu hạt”.

Đối lại với sự hoạt động của hai thời kỳ gieo và gặt, là tính vô lo rõ ràng của người gieo trong giai đoạn trung gian này. Thật vậy bác nhà nông của chúng ta đã trở lại nhịp sống thường ngày. Bác lo toan những công việc khác mà chẳng phải bận tâm đến đồng ruộng nữa. Vậy mà đang lúc ấy, “đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức”, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, “bằng cách nào” thì người ấy không biết.

Một dụ ngôn trả lời cho tâm trạng thiếu kiên nhẫn hoặc thất vọng của đám thính giả vốn dựa vào lời giáo huấn của Gioan Tẩy Giả nên đang trông đợi ngày Chúa phán xét và trừng trị những quân gian ác, cùng với sự xuất hiện của Nước Chúa. Về phần Đức Giêsu, Người muốn cho họ hiểu rằng Người sẽ thi hành quyền xét xử đó vào ngày tận thế, tức là vào thời kỳ gặt lúa. Còn sứ vụ hiện nay của Người là thời gian để hạt giống nẩy mầm và lớn lên; đó là thời trung gian cần thiết để Lời được gieo vãi vào lòng đất, hoạt động không ngừng trong lòng mọi người hầu chuẩn bị cho Ngày Thu Hoạch.

Khi lấy lại những lời này của Đức Giêsu để gởi đến cho các độc giả của mình, Máccô muốn đoan chắc với họ rằng dù họ đang phải sống những giờ phút gian nan thử thách thế mà Thiên Chúa lại có vẻ như vắng bóng, nhưng kỳ thực Người vẫn đang lèo lái công trình của Người bằng một hoạt động là lặng lẽ và âm thầm, nhưng miệt mài và có kết quả.

2/. Hạt nhỏ nhất lại trở thành cây lớn

Dụ ngôn thứ năm và cũng là dụ ngôn cuối cùng của chương 4 Tin Mừng Máccô, cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ, thật chẳ người tương xứng chút nào! “Hạt cải… là loại hạt nhỏ nhặt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ”.

Ngỏ lời với đám thính giả đang đánh giá sứ vụ của mình theo những tiêu chuẩn phàm trần, và với những ai đang thất vọng khi thấy vẻ khiêm tốn lúc ban đầu của mình, Đức Giêsu báo trước cho họ biết rằng, dù thế nào, họ cũng vẫn là những người được chứng kiến công cuộc khai trương Nước Thiên Chúa. Nơi bản thân Đức Giêsu, dù bằng cách kín đáo thế nào chăng nữa, thì Nước Thiên Chúa cũng đã xuất hiện rồi. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ phải ngỡ ngàng chứng kiến sức mạnh vô địch và vẻ phong phú lạ lùng của Nước ấy. Cái gì mắt người được nhìn thấy hiện nay không cho ai đoán trước được nó sẽ như thế nào ở giai đoạn chót của mức phát triển.

Tường thuật lại cho các độc giả của mình những lời này của Đức Giêsu, Máccô muốn trấn an họ rằng hoạt động của Đức Giêsu khi còn tại thế dù khiêm tốn, nhỏ bé, và cộng đoàn các môn đệ của Người là Giáo Hội, dù có yếu đuối thế nào, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống mà khi tới giai đoạn chót của mức phát triển, phải đạt được chiều kịch toàn cầu (J. Hervieux).

BÀI ĐỌC THÊM

1/. “Chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước Trời”

Đức Giêsu kể tiếp một dụ ngôn khác liên kết với dụ ngôn nói về sự phát triển từ những cái nhỏ bé. Dụ ngôn này đem lại rất nhiều sức nâng đỡ, ủi an, nếu ta biết sống đúng chân lý của dụ ngôn ấy. Thật vậy, nhiều khi vì lòng nhiệt thành mà ta lại phải chuốc lấy lo âu phiền muộn. Khi ta mệt mỏi phần nào vì trông cho Nước Chúa trị đến, nên có lẽ vì sự mệt mỏi đó, mà ta đòi hỏi phải có ngay và thấy được sự thành tựu. Đó cũng là điều tự nhiên thời. Thế nhưng thái độ đó thật nguy hiểm. Vì rốt cuộc nó sẽ làm cho ta ngờ rằng chính ta là những tác giả, là những người thợ kiến tạo Nước Trời. Mà thực ra chỉ mình Thiên Chúa và chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước ấy. Về phần ta, chỉ phải coi mình là những dụng cự bé mọn mà tay Chúa dùng. Hãy nhìn hạt giống đã gieo vãi xuống đất. Đêm hay ngày, người gieo có ngủ hay thức, lo âu hay thanh thản, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên. Không ai có thể thúc bách cho hạt giống mọc vội, mọc nhanh. Bởi lẽ chính Chúa mới là Kẻ Kiến Tạo Nước Trời.

Trong những thời kỳ khủng hoảng chúng ta đang trải qua trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên coi trọng dụ ngôn này. Những xao xuyến, bồn chồn, cuồng nhiệt của ta sẽ chẳng thêm gì hơn cho Nước Chúa. Nước Chúa chỉ cần ta góp phần vào một việc là người gieo hãy làm công việc của mình cách trung thực. Đành rằng công việc gieo vãi này, ta phải chu toàn. Nhưng hãy ở đúng vị trí của mình, chứ đừng bao giờ lấn sang chỗ không phải là của ta. Hạt giống mọc lên không tùy thuộc ở ta mà hoàn toàn tùy thuộc ở Chúa. Nếu tình hình hiện nay của Giáo Hội cho phép ta hiểu biết khá hơn chân lý này, thiết tưởng cũng là điều hữu ích vậy.

2/. “Chỉ trong vài dòng mà đã nói lên tất cả hành trình cuộc đời của Đức Giêsu và tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời.

Quả thực, chuyện Nước Thiên Chúa cũng giống như chuyện của hạt giống vậy. Được gieo vãi vào lòng đất, hạt giống sẽ nẩy mầm, mọc lên và phát triển, không cần đến bày tay can thiệp của người gieo, không cần biết hạt giống mọc lên như thế nào. Nước ấy sẽ tỏ hiện vào mùa gặt, nghĩa là vào ngày “chung thẩm”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, liềm hái và mùa gặt gợi ra hình ảnh ngày tận thế”? Từ khi gieo vãi cho đến mùa gặt là thời gian đất hoạt động âm thầm: mầu nhiệm sự chết và sự sống. Khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu có vẻ đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn phát triển của phạt giống. Trọn hành trình cuộc đời của Đức Giêsu được nói lên ở đây, vắn gọn trong một vài dòng – Và đó cũng là tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời. Lời Chúa đã mang mầm mống nhân loại: “và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Giờ đây Người động ở trong cánh đồng nhân loại để gieo vãi. Rồi sẽ tới ngày là mùa gặt. Hiện giờ là phải sống tin tưởng và hy vọng vì là lúc hạt giống đang nẩy mầm và lớn lên.

Dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh đến tính cách nhỏ bé của hạt và tầm vóc lớn lao của cây. Thật lạ lùng! Hãy nhìn coi, vật nhỏ bé nhất của trần gian, mà phát triển như vậy đón Nước trời ở khắp mọi nơi. Ở đâu người ta đón nhận Lời Chúa, ở đó lời chúa trở nên hữu hình. Hạt giống của Lời nẩy mầm và lớn lên trong âm thầm của những cõi lòng, trong huyền nhiệm của những cuộc đời vậy.

 CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- B

TIN TƯỞNG VÀO QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XI Thường Niên năm B mời gọi Ki-tô hữu hãy tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.

Ed 17: 22-24

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhắc cho đồng bào của mình bị lưu đày ở Ba-by-lon nhớ rằng Đức Chúa hạ bệ những kẻ tự cao tự đại và nâng cao kẻ khiêm nhường. Từ một chồi non, Ngài có thể làm phát sinh “cây hương bá huy hoàng, muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành”.

2Cr 5: 6-10

Trong thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khuyên họ hãy tin tưởng vào cuộc sống được đức tin hướng dẫn và vào cái chết lúc mà chúng ta được đoàn tụ với Đức Ki-tô.

Mc 4: 26-34

Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su cũng dùng hình ảnh tương tự như ngôn sứ Ê-dê-ki-en để mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào sự phát triển kỳ diệu của Nước Thiên Chúa, khởi đi từ một hạt giống tự mọc lên, “sau cùng trở thành bông lúa nặng trĩu hạt”, hay khởi đi từ một hạt cải nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng sau trở thành một cây “cành lá xum xê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.

BÀI ĐỌC I (Ed 17: 22-24)

Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế trước khi được gọi làm ngôn sứ. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã liên kết tinh thần tư tế với trào lưu ngôn sứ. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã sống tấm thảm kịch lớn lao của những năm đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, vào thời kỳ quân Ba-by-lon xâm chiếm vương quốc Giu-đa. Ông đã chứng kiến tận mắt thành thánh Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần đầu tiên vào năm 598 trước Công Nguyên và thành phần ưu tú bị dẫn đi lưu đày. Ê-dê-ki-en thuộc nhóm lưu đày đầu tiên này. Chính trong cảnh lưu đày, tư tế Ê-dê-ki-en được Thiên Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài.

1/.Sứ vụ ngôn sứ:

Ông cực lực tố cáo tội lỗi của dân Ít-ra-en, không chừa một ai, từ hoàng gia, tư tế cho đến dân chúng, mọi người đều có tội. Ông thấy trước những án phạt khác sắp xảy đến. Trong thảm họa, ông rao giảng sự sám hối cá nhân: mỗi người phải tự mình sám hối.

Tai họa bất ngờ xảy đến vào năm 587 trước Công Nguyên khi quân Ba-by-lon xâm chiếm lần thứ hai, thành thánh Giê-ru-sa-lem bị cướp phá thiêu hủy, Đền Thờ bị tàn phá thành bình địa. Trong hoàn cảnh bi thương của đất nước, ngôn sứ Ê-dê-ki-en trở thành vị ngôn sứ loan báo niềm hy vọng, ông tiên báo Ít-ra-en sẽ được phục hưng. Dụ ngôn mà chúng ta đọc hôm nay (7: 22-24) là một trong những hình ảnh mà ngôn sứ sử dụng để khơi lên niềm hy vọng ở nơi đồng bào ông, đặc biệt những người bị lưu đày ở Ba-by-lon: dân Ít-ra-en sẽ hồi sinh và sẽ có một tương lai tuyệt vời.

2/.Cây hương bá cao lớn:

Cây hương bá cao lớn và chồi non được ngắt từ ngọn cây muốn nói lên điều gì?  Vị ngôn sứ dùng hình ảnh cây hương bá cao lớn trong hai ẩn dụ. Ở chương 31, cây hương bá cao lớn biểu tượng Pha-ra-ô Ai-cập ngạo mạng và quyền thế (x. Ed 31: 2-3, 6, 10-13). Trong ẩn dụ này, vị ngôn sứ nhắm đến Pha-ra-ô mà vua Giu-đa là Xít-ki-gia-hu hết lòng dựa vào một cách nguy hiểm để kháng cự lại vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo.

Trong một ẩn dụ khác thuộc chương 17, trước ẩn dụ được trích dẫn hôm nay (17: 22-24), Ê-dê-ki-en hình dung một cây hương bá bị con phượng hoàng bẻ ngọn:

“Con phượng hoàng to lớn

có cánh rộng, lông dài, mình đầy lông sặc sỡ;

nó đến núi Li-băng bẻ ngọn cây hương bá.

Nó ngắt búp ngọn cây

đưa về đất thương nghiệp

đặt vào thành con buôn” (Ed 17: 3-4).

Con phượng hoàng to lớn là vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Vào năm 597, vua đã bắt vua Giơ-hô-gia-kim lưu đày sang Ba-by-lon. Li-băng chỉ đất Pa-lét-tin. Đoạn, con phượng hoàng “lấy giống cây của xứ ấy rồi đem đặt vào nơi ươm trồng…” (Ed 17: 5-6). Bằng hình ảnh này, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gợi lên cách hành xử của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Sau khi đã bắt vua Giơ-hô-gia-kim lưu đày, vua đặt vua Xít-khi-gia-hu lên làm vua ở Giê-ru-sa-lem để làm chu hầu và thần dân của mình.

3/.Một chồi non:

Ẩn dụ của 17: 22-24 là câu trả lời cho ẩn dụ trên. Đức Chúa sắp ra tay trừng phạt những kẻ thù của dân Ngài. Chính Ngài sẽ “ngắt một chồi non” từ đỉnh ngọn cây. Ngài sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en và chồi non này sẽ thành “cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình trên nó và ẩn thân dưới bóng lá cành” (17: 23).

Qua ẩn dụ này, ngôn sứ Ê-dê-ki-en muốn nói với những kẻ lưu đày bất hạnh rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu giúp họ, đưa họ trở về cố hương và phục hưng dân tộc của họ.

Tuy nhiên, sấm ngôn này được hiểu một cách chính xác hơn: chồi non được ngắt từ đỉnh ngọn cây hương bá là chồi non vương đế. Đây là lời tiên báo về hậu duệ nhà Đa-vít trong tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en thoáng thấy, chứ không phục hưng thể chế quân chủ mà vị ngôn sứ không một chút tin tưởng. Các vị vua đã là những mục tử xấu. Chính họ đã gây nên biết bao tội bất trung với Đức Chúa và đã dẫn đưa dân Ít-ra-en đến bờ vực thẳm hủy diệt. Tuy nhiên, ngôn sứ I-sai-a đã dùng hình ảnh này để tiên báo vua Mê-si-a thuộc nhà Đa-vít: “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ” (Is 11: 1). Ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Da-ca-ri-a cũng đã dùng hình hình này để tiên báo rằng Đức Chúa sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực (Gr 23: 5; 33: 15; Dcr 3: 8; 6: 12).

Ẩn dụ của Ê-dê-ki-en dẫn chúng ta đến ngưỡng cửa Tin Mừng. Theo cùng một cách, Chúa Giê-su diễn tả vóc dáng nhỏ bé của Nước Trời vào lúc khởi sự, như hạt giống được gieo vào lòng đất, “sau cùng, thành bông lúa trĩu hạt”, hay hạt cải nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi mọc lên thành một cây “cành lá xum xê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.

BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 6-10)

Thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô được thánh Phao-lô viết vào cuối năm 56 hay cuối năm 57. Đây là bức thư nồng nàn nhất khi thánh nhân nói về sứ mạng của mình và là bức thư thấm thía nhất khi thánh nhân kể ra những nỗi cay đắng lẫn những niềm vui mà ngài đã kinh qua. Đây là một chứng liệu duy nhất, nhờ đó chúng ta biết được vài chi tiết về những nỗi gian truân mà thánh nhân đã đối mặt và những ân sủng mà thánh nhân đã nhận được.

Đoạn trích thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào phần thứ nhất của thư này (2: 14-7: 4), trong đó thánh nhân đưa ra tầm mức cao cả và những thăng trầm của sứ vụ truyền giáo.  Những kinh nghiệm truyền giáo của thánh Phao-lô đã đem lại cho đức tin của ngài một nền tảng không lay chuyển và đã cho phép ngài củng cố những xác tín của mình: trước hết về thân xác sống lại (2Cr 4: 14), tiếp đó về “một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4: 17) và sau cùng về việc được đoàn tụ với Đức Ki-tô ngay khi từ giả cõi đời này. Chính niềm xác tín sau cùng này mà đoạn trích thư quy chiếu đến, niềm xác tín này phải giúp cho người Ki-tô hữu một thái độ đầy tin tưởng khi đối mặt với cái chết và phải là nguồn động viên khích lệ họ thực hành nhân đức.

1/.Niềm xác tín khi đối mặt với cái chết (5: 6-8):

Đoạn văn này bắt đầu với lời khẳng định của thánh Phao-lô:“Ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa” (5: 6) và kết thúc cũng với lời khẳng định của thánh nhân: “Điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (5: 8), khiến người đọc liên tưởng đến quan niệm nhị nguyên của triết học Hy-lạp: “thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn”. Tuy nhiên, thánh Phao-lô tránh dùng từ “linh hồn”, từ này có thể gợi lên trong tâm trí người đọc nhị nguyên thuyết Hy-lạp (không phải thánh nhân vừa mới nói về thân xác sống lại, vốn xa lạ với tư tưởng Hy-lạp đó sao?).

Để có thể hiểu tư tưởng của thánh nhân trong đoạn văn này, chúng ta phải liên kết với phần khai triển trong đoạn văn trước đó, trong đó thánh nhân nêu lên kinh nghiệm của mình. Suốt sứ vụ truyền giáo của ngài, thánh Phao-lô đã gặp phải những hiểm nguy nghiêm trọng nhất, những mối đe dọa chết người. Ấy vậy, Ơn Quan Phòng của Thiên Chúa luôn luôn che chở bảo vệ ngài cho tai qua nạn khỏi. Phải đọc lại lời chứng phi thường này của thánh nhân, chúng ta mới có thể cảm nhận những gian truân mà thánh nhân đã kinh qua: “Chúng tôi bị dồn ép tứ bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2Cr 4: 8-9). Lý do của những cứu giúp được nhắc đi nhắc lại: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (4: 10). Nói cách khác, ở giữa những gian truân trăm chiều này, kề cận với cái chết, thánh nhân, một cách nào đó, đã có kinh nghiệm trước từ cái chết đến sự sống, nhờ bàn tay cứu độ của Thiên Chúa. Niềm xác tín từ kinh nghiệm này tăng cường niềm xác tín vào Mặc Khải.

Niềm xác tín mà thánh nhân nhắm đến là giây phút tối hậu, giây phút sẽ vượt qua từ tư thế của người tin: “Chúng tôi tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa” (5: 7), đến tư thế của người được ở bên Chúa: “Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (5: 8). Trong thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân đã diễn tả cùng một tư tưởng: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sao tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1Cr 13: 12).

2/.Làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự (5: 9-10):

Thánh Phao-lô muốn chúng ta hiểu rằng ngài thích rời bỏ thân xác này hơn để được đoàn tụ với Đức Ki-tô, nhưng trước tiên: “Dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng duy nhất là làm đẹp lòng Chúa” (5: 9). Thánh nhân cũng đã diễn tả ước muốn này với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1: 23-24).

Điều quan trọng chính là: người Ki-tô hữu phải biết rằng mình sẽ được hội ngộ với Đức Ki-tô, nhưng trước tiên phải hành động một cách thích đáng, vì họ sẽ bị xét xử theo những công việc của mình (5: 10). Ở đây, thánh Phao-lô không xác định phải chăng cuộc phán xét trước Tòa Án của Đức Ki-tô vào ngày Chung Thẩm hay là cuộc phán xét riêng vào lúc mỗi người từ giả cõi đời này.

TIN MỪNG (Mc 4: 26-34)

Chúa Giê-su rao giảng cho đám đông bằng dụ ngôn: từ những hình ảnh đơn sơ giản dị được lấy ra từ đời thường, để dẫn đưa họ vào những thực tại cao vời khôn ví của Nước Trời. Văn chương Đông Phương (Ai-cập, Cận Đông) thích những bí nhiệm, các sách khải huyền Do thái được điểm tô với những bí nhiệm này. Các dụ ngôn rất gần với thể loại văn chương này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su giải thích các dụ ngôn cho các môn đệ, vì sau này, họ sẽ tiếp tục sự nghiệp của Ngài mà loan báo Lời rõ ràng và phong phú cho quần chúng.

Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô hôm nay, Chúa Giê-su kể cho chúng ta hai dụ ngôn: dụ ngôn về hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn về hạt cải.

1/.Dụ ngôn về hạt giống tự mọc lên (4: 26-29):

Bản văn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Bài Đọc I) giúp chúng ta hiểu rõ hơn dụ ngôn về hạt giống tự mọc lên này. Chính Đức Chúa sẽ trồng một chồi non mà Ngài đã ngắt từ ngọn cây hương bá. Vì Đức Chúa trồng, chắc chắn chồi non này sẽ mọc và lớn lên: “Nó sẽ trổ cành và kết trái” (Ed 17: 23). Cũng vậy, Chúa Giê-su dùng hình ảnh hạt giống tự mọc lên, “sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt” (Mc 4: 28), để loan báo Nước Thiên Chúa được phát triển trong thầm lặng nhưng vững chắc. Có lẽ không dụ ngôn nào đem đến niềm an ủi hơn dụ ngôn này. Thiên Chúa hiện diện và hành động trong thế giới và vì Thiên Chúa hành động, chắc chắn Nước Thiên Chúa rồi sẽ sinh hoa kết trái, dù bên ngoài âm thầm lặng lẽ.

Phải chăng dụ ngôn này muốn nói rằng người Ki-tô hữu không cần phải hành động bởi vì “đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Việc dọn đất được nêu lên, vấn đề đất có thuận lợi hay không cho hạt giống phát triển đã được bàn đến trong một dụ ngôn khác (dụ ngôn người gieo giống: 4: 1-9). Chúng ta không chỉ có bổn phận cầu xin cho “Nước Chúa trị đến”, nhưng còn phải góp phần mình vào việc xây dựng Nước Chúa ở ngay trong cõi thế này. Trong dụ ngôn này, vấn đề được nêu lên đó là quyền năng tất thắng của Thiên Chúa, Ngài hướng dẫn Triều Đại của Ngài cho đến lúc phát triển viên mãn. Đó sẽ là mùa thu hoạch: “Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa”.

Qua dụ ngôn về hạt giống tự mọc lên, Chúa Giê-su muốn dẫn các môn đệ của Ngài đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về sứ mạng của Ngài. Ngài đã đến gieo Lời Ngài và Lời Ngài sẽ sinh hoa kết trái. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối vào Lời quyền năng của Ngài, tuy nhiên, chiều kích năng động của lời này cốt yếu là nội tại và tinh thần.

2/.Dụ ngôn về hạt cải (4: 30-32):

Để diễn tả năng lực phát triển kỳ diệu của Nước Thiên Chúa từ khởi đầu rất khiêm tốn, Chúa Giê-su đưa ra một so sánh được mượn từ một hình ảnh rất quen thuộc thường ngày: hạt cải khi được gieo vào lòng đất thì nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng khi “mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Thiên Chúa cũng sẽ như vậy. Khởi đi hầu như không gì cả: mười hai tông đồ, vài môn đệ và vài người phụ nữ, nhưng sẽ phát triển rực rỡ.

Chúa Giê-su ám chỉ đến bản văn của Ê-dê-ki-en trong dụ ngôn về cây hương bá huy hoàng: “Muông chim đến nương mình bên nó và ẩn thân dưới bóng lá cành” (Ed 17: 23). Tuy nhiên, rõ ràng Ngài tránh lấy lại hình ảnh “cây hương bá huy hoàng”, biểu tượng cho quyền lực thống trị. Ngài cũng không lấy lại hình ảnh chồi non ám chỉ hậu duệ nhà Đa-vít, vì hình ảnh này có thể gợi lên việc phục hưng quyền lực chính trị. Hình ảnh hạt cải chắc chắn hàm chứa tính chất phi chính trị của Nước Thiên Chúa.

home Mục lục Lưu trữ